TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
----------
NGUYỄN THỊ THU THỦY
TÌM HIỂU VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở
ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII THÔNG QUA
NGUỒN TƯ LIỆU PHƯƠNG TÂY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Lịch sử Văn hóa
Người hướng dẫn khoa học
Th.S Nguyễn Văn Vinh
HÀ NỘI - 2013
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới thạc sĩ Nguyễn Văn Vinh –
người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2; đặc biệt là các thầy, cô Khoa Lịch Sử đã giảng dạy em trong suốt thời gian
qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo điều kiện
và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, nên khóa
luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo của các thầy, cô cũng
như của các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
Nguyễn Thị Thu Thủy
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thạc sĩ
Nguyễn Văn Vinh. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
Nguyễn Thị Thu Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ....................................... 2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................. 2
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu ......................................... 5
5. Bố cụ khóa luận .............................................................................. 5
Chương 1: Khái quát tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở Đàng
Ngoài thế kỉ XVII ........................................................................................ 6
1.1. Tình hình chính trị - xã hội ............................................................... 9
1.2. Tình hình kinh tế .............................................................................. 16
Tiểu kết chương I ................................................................................... 22
Chương 2: Văn hóa Việt Nam ở Đàng Ngoài thế kỉ XVII qua khảo cứu tư
liệu phương Tây.......................................................................................... 24
2.1. Vị trí, quy mô, diện tích Đàng Ngoài qua khảo cứu tư liệu phương
Tây ............................................................................................................... 24
2.2. Những nét văn hóa truyền thống tiêu biểu ở Đàng Ngoài ............ 35
2.2.1. Văn hóa cung đình. ................................................................... 35
2.2.1.1. Lễ lên ngôi của nhà vua ......................................................... 35
2.2.1.2. Lễ tang của nhà vua ............................................................... 40
2.2.1.3. Lễ tịch điền ............................................................................ 47
2.2.1.4. Lễ xua đuổi tà ma khỏi vương quốc ....................................... 51
2.2.1.5. Kiến trúc trong cung đình ...................................................... 54
2.2.2. Tổ chức chính quyền, pháp luật, quân đội................................. 56
2.2.2.1. Quá trình hình thành Đàng Ngoài và sự phân chia quyền lực của chúa
Trịnh-vua Lê ................................................................................................ 56
2.2.2.2. Tổ chức chính quyền ............................................................. 65
2.2.2.3. Pháp luật, quân đội ................................................................ 82
2.2.3. Văn hóa dân gian ...................................................................... 82
2.2.3.1. Kiến trúc dân gian ................................................................. 82
2.2.3.2. Con người, phong tục, tập quán ............................................. 84
2.2.3.3. Tôn giáo tín ngưỡng .............................................................. 106
Tiểu kết chương II .............................................................................. 113
Kết luận....................................................................................................... 114
Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................... 116
Phụ lục ........................................................................................................ 118
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Có thể nói lịch sử dân tộc ta là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
là lịch sử của những thăng trầm biến cố thịnh suy, hợp phân của lãnh thổ dân
tộc, là lịch sử hàng ngàn năm xây dựng, gìn giữ, và bảo vệ những giá trị
truyền thống.
Mỗi người dân Việt Nam luôn mang trong mình niềm tự hào, kiêu hãnh
về những chiến công vẻ vang của dân tộc, về những anh hùng làm rạng danh
non sông tổ quốc. Và trên hết chúng ta tự hào rằng dân tộc ta là một dân tộc
giàu truyền thống văn hóa.
Con người là chủ thể của văn hóa và đến cuối cùng cái gốc của mỗi
người cũng chính là văn hóa. Vì vậy, tìm hiểu về truyền thống của dân tộc
cũng chính là đi tìm cái gốc trong mỗi con người mỗi chúng ta.
Văn hóa luôn luôn vận động, nó không phải là cái bất biến. Chính vì
vậy để hiểu về văn hóa truyền thống của dân tộc là cả một quá trình học tập
và tìm hiểu lâu dài. Những biến đổi của tình hình chính trị-kinh tế-xã hội luôn
là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự biến đổi của văn hóa.
Thế kỉ XVI-XVII, là giai đoạn đất nước ta có nhiều sự đổi thay từ chính
trị đến kinh tế, xã hội. Nó đánh dấu một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc.
Sự tồn tại của cục diện chính trị vua Lê – chúa Trịnh với nhiều biểu
hiện và diễn biến phức tạp. Không những vậy, cũng trong giai đoạn này sự
trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài diễn ra mạnh mẽ đặc biệt từ
sau các cuộc phát kiến địa lý diễn ra vào thế kỷ XV. Sự trao đổi buôn bán của
1
Đại Việt nói chung và Đàng Ngoài nói riêng với các thương nhân nước ngoài
như Bồ Đào Nha, Áo, Hà Lan, Anh, Pháp,v.v.. ngày càng phát triển.
Cùng với quá trình trao đổi buôn bán hàng hóa là sự trao đổi về văn
hóa. Lúc này, cánh cửa của văn hóa dân tộc đã không còn đóng kín mà đã dần
hé mở. Sự gõ cửa của các nước phương Tây đã làm thay đổi từ kinh tế đến
đời sống xã hội của nhân dân Đại Việt nói chung và nhân dân Đàng Ngoài nói
riêng. Cũng trong quá trình trao đổi này là sự ra đời của các cuốn du ký, hồi
ký, những ghi chép của các giáo sĩ và thương nhân nước ngoài về tình hình
văn hóa – xã hội nước ta.
Những cuốn hồi ký, ghi chép đó trở thành nguồn tài liệu vô cùng quý
giá đối với lịch sử dân tộc cũng như những người yêu thích nghiên cứu lịch sử
Việt Nam.
Là sinh viên Khoa Lịch sử luôn muốn tìm hiểu về quá khứ, cũng như
những giá trị văn hóa của dân tộc dưới một góc nhìn đa chiều. Vì vậy em xin
chọn đề tài:“Tìm hiểu văn hóa truyền thống Việt Nam ở Đàng Ngoài thế kỷ
XVII thông qua nguồn tư liệu phương Tây” làm đề tài nghiên cứu trong
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích
Hiểu rõ hơn về văn hóa Đàng Ngoài thế kỉ XVII, đồng thời cung cấp
những kiến thức, hiểu biết về tình hình văn hóa Việt Nam thế kỉ XVII.
Thấy được văn hóa Việt Nam thế kỉ XVII dưới góc nhìn đa chiều qua
những đánh giá nhận xét, ghi chép của tác giả phương Tây.
2.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu làm rõ văn hóa truyền thống Đàng Ngoài thế kỷ XVII
thông qua nguồn tư liệu phương Tây.
2
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu văn hóa Đàng Ngoài thế kỷ XVII thông qua nguồn tư liêu
phương Tây cụ thể như sau:
Về thời gian: Đàng Ngoài thế kỷ XVII
Về không gian: Đàng Ngoài
Trong khóa luận của mình, tôi xin tập trung khai thác nguồn tài liệu từ
3 cuốn sách cơ bản sau:
+ Cuốn sách “Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài” do
Lê Tư Hành dịch, Nxb Thế Giới, 2005. Cuốn sách phác họa những nét chấm
phá về xã hội Đàng Ngoài khoảng giữa thế kỷ XVII với những chi tiết kỳ thú
và hữu ích về đời sống các tầng lớp thượng lưu và khối quần chúng bình dân
Đại Việt; đồng thời đưa ra cái nhìn toàn cảnh về tự nhiên, văn hóa, các vấn đề
phong tục, tập quán, tôn giáo… ở Đàng Ngoài.
+ Cuốn sách “Tư liệu văn hiến Thăng Long-Hà Nội: tuyển tập tư liệu
phương Tây”, do Nguyễn Thừa Hỷ biên soạn, Nxb Hà Nội, 2010. Cuốn sách
giới thiệu một số bài viết của các tác giả người phương Tây viết về lịch sử
Thăng Long - Hà Nội được chia làm hai giai đoạn: từ thế kỷ XVII đến 1882
và từ 1883 đến 1945.
+ Cuốn sách “Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688” của
William Dampier do Hoàng Anh Tuấn dịch, Nxb Thế Giới, 2011. Cuốn sách
ghi lại những mô tả và nhận xét của tác giả về điều kiện tự nhiên, văn hóa,
phong tục tập quán, tôn giáo, kinh tế, thương mại… của Đàng Ngoài Việt
Nam hồi thế kỷ XVII.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Đã có nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu về văn hóa Đàng Ngoài,
trong đó có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của các thương nhân, giáo sĩ
nước ngoài được các dịch giả dịch sang tiếng Việt như:
3
+ Cuốn sách “Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài” của tác giả Alexandre
de Rhodes, do Hồng Nhuệ dịch, của Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1994. Cuốn sách
nói về tình hình chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và tôn giáo và tín ngưỡng
của Vương quốc Đàng Ngoài thế kỷ 19. Quá trình truyền bá đạo thiên chúa
vào Vương quốc đàng ngoài (Miền Bắc Việt Nam dưới thời vua Lê chúa
Trịnh).
+ Cuốn sách “Văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan
học giả L. Cadiere” của tác giả Đỗ Trinh Huệ, Nxb Thuận Hóa, 2000. Tác
phẩm đề cập tới các khía cạnh về tôn giáo, văn hoá, tín ngưỡng Việt Nam
dưới nhãn quan của Leopold Cadiere: tôn giáo người Việt; Đạo Khổng, Đạo
Phật ở Việt Nam; Tế Nam Giao; Lăng Mộ...
+ Cuốn sách “Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài” do
Lê Tư Hành dịch, Nxb Thế Giới, 2005. Cuốn sách phác họa những nét chấm
phá về xã hội Đàng Ngoài khoảng giữa thế kỷ XVII với những chi tiết kỳ thú
và hữu ích về đời sống các tầng lớp thượng lưu và khối quần chúng bình dân
Đại Việt; đồng thời đưa ra cái nhìn toàn cảnh về tự nhiên, văn hóa, các vấn đề
phong tục, tập quán, tôn giáo… ở Đàng Ngoài.
+ Cuốn sách “Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792- 1793” do
Nguyễn Thừa Hỷ dịch, Nxb Thế Giới, 2008. Tác giả viết về xứ Đàng Trong Nam Hà vào thời điểm cuối thế kỉ 18. Khái quát về điạ lí, lịch sử, về cuộc
chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, phác thảo về các phong tục, tính
cách, đời sống vật chất và tinh thần của những người dân bản xứ ở Turon - xứ
Nam Hà - Đàng Trong của Việt Nam.
+ Cuốn sách “Tư liệu văn hiến Thăng Long-Hà Nội: tuyển tập tư liệu
phương Tây” do Nguyễn Thừa Hỷ biên soạn, Nxb Hà Nội, 2010. Cuốn sách
giới thiệu một số bài viết của các tác giả người phương Tây viết về lịch sử
4
Thăng Long - Hà Nội được chia làm hai giai đoạn: từ thế kỷ XVII đến 1882
và từ 1883 đến 1945.
+ Cuốn sách “Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688” của
William Dampier do Hoàng Anh Tuấn dịch, Nxb Thế Giới, 2011. Cuốn sách
ghi lại những mô tả và nhận xét của tác giả về điều kiện tự nhiên, văn hóa,
phong tục tập quán, tôn giáo, kinh tế, thương mại… của Đàng Ngoài Việt
Nam hồi thế kỷ XVII.
…
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài này, tôi chủ yếu thực hiện dựa trên nguồn tư liệu thu
thập được từ thư viện quốc gia, thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận sử dụng hai phương pháp chính là phương pháp lịch
sử và phương pháp logic. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như
là: so sánh, tổng hợp, thống kê, phân tích…
5. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khóa luận
gồm có 2 chương:
Chương I: Khái quát tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở Đàng Ngoài
thế kỉ XVII
Chương II: Văn hóa Đàng Ngoài thế kỉ XVII qua khảo cứu tư liệu
phương Tây.
5
Chương 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
Ở ĐẢNG NGOÀI THỂ KỈ XVII
Đầu thế kỉ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội Đại Việt mất
dần cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống cực khổ, các thế lực phong
kiến tranh chấp lẫn nhau mở đầu cho một giai đoạn mới của chế độ phong
kiến Việt Nam – giai đoạn của những biến cố, khủng hoảng trên nhiều mặt từ
tình hình chính trị, xã hội đến kinh tế. Báo hiệu cho một thời kì đầy sóng gió
của lịch sử phong kiến Việt Nam.
Trước hết là hình ảnh của những ông “vua quỷ”, “vua lợn” như Lê Hiến
Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực. Hiến Tông “vì ham nữ sắc quá nhiều” chết
sớm, Lê Uy Mục sao nhãng việc triều chính, “đêm cùng cung nhân uống rượu
vô độ, ai say thì giết”, đến nỗi một viên sứ thần Trung Quốc đã phải gọi là
“vua quỷ”. Vua mới là Lê Tương Dực lên ngôi cũng tỏ ra xa đọa không kém,
“hoang dâm vô độ”. Xứ thần Trung Quốc nhận xét “nhà vua tính hiếu dâm
như tướng lợn, loạn vong không còn lâu nữa”.
Sự thối nát không chỉ ở Trung ương mà bọn quan lại địa phương mặc
sức tung hoành nhũng nhiễu nhân dân, đến nỗi ở phố xá, chợ búa hễ thấy
bóng quan thì dân vội đóng cửa, và tìm đường ẩn trốn. Trong bài hịch của
Lương Đắc Bằng có đoạn tố cáo bọn quan lại: “tước đã hết mà lạm thưởng
không hết, dân đã cùng mà lạm thu không cùng, phú thuế thu đến tơ tóc mà
dùng của như bùn đất”.
Một bức tranh chính trị - xã hội đen tối. Sự sa đọa từ chính quyền trung
ương đến bọn quan lại địa phương là thời cơ thuận lợi cho sự nổi dậy của các
thế lực phong kiến. Một loạt các phong trào đấu tranh nổ ra làm lung lay đến
6
tận gốc rễ của triều đình phong kiến vốn đã thối nat. Đó là sự nổi dậy của
nhóm Nguyễn Văn Lang và tôn thất nhà Lê ở Thanh Hóa năm 1509, hoạn
quan Nguyễn Khắc Hài làm loạn, nhốt vua vào cung,uy hiếp triều đình. Năm
1516, quận công Trịnh Duy Sản cùng bọn Lê Quảng Độ âm mưu giết vua và
một số quan lại. Trong triều vua quan âm mưu hãm hại lẫn nhau, ở địa
phương các cuộc đấu tranh của nông dân nổ ra mạnh mẽ.
Năm 1511, Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng dấy quân nổi lên ở Kinh
Bắc. Trần Tuân nổi dậy ở Sơn Tây.
Năm 1512, Nguyễn Nghiêm nổi dậy ở Sơn Tây, Hưng Hóa; Lê Hy,
Trịnh Hưng, Lê Minh Triết nổi quân ở Nghệ An.
Năm 1515, Phùng Chương nổi dậy ở vùng Tam Đảo; Đặng Hân, Đặng
Ngật nổi dậy ở Ngọc Sơn (Thanh Hóa).
Đặc biệt là cuộc nổi dậy của Trần Cảo năm 1516, ông đã tự lập làm
vua, đặt thiên hiệu là Thiên Ứng. Không lâu sau thì bị quân triều đình dập tắt.
Tình hình chính trị rối ren là thời cơ thuận lợi cho sự tranh đoạt vương
quyền của các thế lực phong kiến. Nhà Mạc đã được thành lập trong hoàn
cảnh đó. Dù đã cố gắng, song Mạc Đăng Dung luôn vấp phải sự chống đối
mạnh mẽ của các thế lực, đặc biệt là từ các cựu thần nhà Lê. Sự chống đối
ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt mà đỉnh điểm là hình thành nên cuộc
chiến tranh giữa triều đình nhà Lê mới được thành lập ở Thanh Hóa với nhà
Mạc mà sử gọi là chiến tranh Nam triều – Bắc triều. Cuối năm 1583, cuộc
chiến kết thúc với sự sụp đổ của nhà Mạc.
Tình trạng Nam triều – Bắc triều chấm dứt chưa được bao lâu thì xảy ra
sự phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài. Một cuộc chiến tranh mới lại bùng
nổ.
Mầm mống của sự phân liệt bắt nguồn từ trong cuộc chiến tranh Nam –
Bắc triều. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua
7
Lê đưa lên thay thế, chỉ huy mọi việc. Để giữ vững quyền hành của mình,
Trịnh Kiểm nhanh chóng tìm cách loại trừ các thế lực chống đối mình. Trước
tình hình đó, Nguyễn Hoàng xin vào đất Thuận Hóa với mục đích tránh được
âm mưu của Trịnh Kiểm, đồng thời xây dựng cơ nghiệp, chờ thời cơ báo thù.
Tại đây ông đã gây dựng lên cơ nghiệp, thế và lực ngày càng mạnh.
Dần đối đầu với họ Trịnh. Năm 1613, trước khi chết, Nguyễn Hoàng dặn lại
con là Nguyễn Phúc Nguyên: “ Đất Thuận Quảng phía bắc có Hoành Sơn và
Linh Giang, phía nam có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm cố, thật là
một nơi để cho người anh hùng dựng võ. Nếu biết dậy bảo nhân dân, luyện
tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gây được cơ nghiệp muôn đời”.
Lối nghiệp cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã dần tách khỏi sự phụ thuộc
vào họ Trịnh. Lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên không nộp thuế nữa, họ Trịnh
đem quân vào đánh Thuận Hóa vào năm 1627. Cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn bắt đầu.
Cuộc chiến tranh kéo dài gần nửa thế kỉ, hai bên đánh nhau 7 lần mà
không có kết quả gì, lại tổn hao quân sĩ, nhân dân cực khổ vì vậy hai họ Trịnh
– Nguyễn đành phải ngừng chiến tranh, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt
Đàng Ngoài – Đàng Trong.
Như vậy, sự phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài là kết quả của một
quá trình chanh chấp của các thế lực phong kiến. Chiến tranh giữa các thế lực
đó là không tránh khỏi, song nó không thể giải quyết được xu thế phân liệt đã
hình thành. Sự phân liệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài từ giữa thế kỉ XVI
đến những năm cuối thế kỉ XVIII đã làm thay đổi khá nhiều tình hình kinh tế,
chính trị, đời sống của nhân dân hai miền.
Trong phần đầu bài viết này tôi xin tìm hiểu về tình hình chính trị, xã
hội, kinh tế của Đàng Ngoài thế với những nét khái quát nhất.
8
1.1.
Tình hình chính trị - xã hội
Về tình hình chính trị:
Năm 1527, Mặc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Sự chống đối tiêu cực
của triều thần nhà Lê chứng tỏ sứ mạng lịch sử của nhà Lê đã hết. Tuy nhiên,
họ Mạc chưa gây dựng được uy thế vững chắc của vương triều mới, mà một
tập đoàn có đủ uy tín hơn thì chưa xuất hiện, vì vậy vai trò và ảnh hưởng của
nhà Lê vẫn khá sâu sắc trong các tầng lớp xã hội. Nguyễn Kim dấy binh
chống Mạc cũng phải giương lá cờ phù Lê. Từ năm 1545, binh quyền rơi vào
tay Trịnh Kiểm, vua Lê có vị mà không có quyền. Trịnh Kiểm muốn tìm cơ
hội tiếm ngôi, nhưng cuộc chiến tranh với nhà Mạc dưới danh nghĩa “phù Lê”
chưa cho phép Trịnh Kiểm thực hiện âm mưu của mình. Năm 1570, Trịnh
Kiểm chết, quyền hành về tay Trịnh Tùng, địa vị vua Lê càng sút kém, việc
phế lập ngôi vua do chúa Trịnh quyết định.
Sau khi đánh thắng nhà Mạc, giành lại Thăng Long, họ Trịnh càng tự
tôn và lấn át vua Lê, Trịnh Tùng đặt lệ chọn thế tử nối nghiệp ngang với thể
thức của hoàng tộc. Con cháu Trịnh Tùng lên làm chúa đều theo lệ xưng
vương. Năm 1664, Trịnh Tạc buộc vua Lê phải đặt thêm một chiếc ngai bên
trái ngai vua để ngự trong các buổi chầu. Trong thực tế, ngay từ thời Trịnh
Tùng, vua Lê chỉ là một ông vua bù nhìn không còn quyền hành nữa. Công
việc hằng năm của vua Lê chỉ là dự lễ chầu và đón tiếp các sứ thần. Mọi việc
hệ trọng trong nước đều do phủ chúa quyết định. Giáo sư Pháp Alexandre de
Rhodos sang truyền đạo ở nước ta khoảng 1624 – 1645 nói về Đàng Ngoài:
“Xứ này thực là một nước quân chủ thực sự, hơn nữa lại có hai vua. Một gọi
là vua nhưng chỉ có danh mà thui, còn ông chúa kia thì có đủ quyền hành.
Vua chỉ ra mắt vào những ngày nhất định như ngày đại lễ đầu năm, ngoài ra
vua chỉ ru rú trong một ngôi điện cổ kính, kéo dài cuộc đời nhàn tản vô vị,
trong khi ông chúa cai quản tất cả công việc chiến tranh hòa bình”. Tình trạng
9
gian dối trong thi cử là một hiện tượng khá nổi bật. Theo Lê Quý Đôn, vào
đầu thời Lê – Trịnh “phép thi hương sơ lược, mang sách hoặc bài vở vào
trường cũng không ngăn cấm” (Kiến văn tiểu lục). Từ năm 1660, lại còn nảy
sinh nhiều tệ nạn khác như mua bài làm sẵn mang vào trường thi, chép lại bài
cũ, đút lót quan trường…kẻ bất tài mà đỗ đạt ngày một nhiều.
Ngoài các khoa thi, họ Trịnh còn đặt phép tiến cử. Những lúc thiếu
tiền, thóc, chúa Trịnh ra lệnh bán quan tước cho nhà giàu. Năm 1658, Trịnh
Tạc quy định: ai nộp thóc thì tùy theo nhiều ít mà bổ quan chức theo thức bậc
khác nhau. Cho đến giữa thế kỉ XVIII, tình trạng mua quan bán tước trở nên
phổ biến.
Với cách lựa chọn quan lại như trên, số quan tăng lên gấp bội. Những
nhà chép sử đương thời thấy rằng số quan có thực quyền không quá 500, còn
thì chỉ là hư vị, làm quan cầu may và chỉ lo bóc lột, nhũng nhiễu nhân dân. Có
năm chúa Trịnh bổ nhiệm một lúc 1238 viên quan trong kinh và ngoài các
trấn. Sử cũ chép: “bấy giờ chức quan nhũng lạm, phức tạp, một lúc cất nhắc
bổ dụng đến hơn 1000 người, làm quan cầu may, viên chức thừa thãi không
còn phân biệt gì cả”.
Số lượng quan lại nhiều mà đặc quyền của họ cũng rất lớn… Các quan
cao cấp được cấp ruộng lộc, ruộng dưỡng liêm…, ngoài ra được cấp bổng lộc
bằng tiền tùy theo cấp bậc hoặc kết quả thi cử.
Một vấn đề đặt ra cho họ Trịnh là phải luôn luôn có một lực lượng quân
sự mạnh, đủ sức chấn áp mọi sự phản kháng. Chế độ “ngụ binh ư nông”
không còn tác dụng nữa vì tình hình ruộng đất, nhất là tịnh trạng ruộng đất
công ở làng xã bị địa chủ cướp đoạt nghiêm trọng, không cho phép nhà nước
tiếp tục thi hành chế độ đó.
Ban đầu, họ Trịnh vẫn giữ năm phủ như thời Lê, sau lại đặt năm quân
doanh, chia làm cơ, đội. Quân lính chủ yếu tuyển ở vùng Thanh, Nghệ. Trong
10
cuộc duyệt binh năm 1595, lực lượng quân đội họ Trịnh có 12 vạn người. Từ
năm 1600 trở đi, họ Trịnh quy định: lính túc vệ ở kinh thành chỉ lấy người ở
ba phủ Thanh Hóa và 12 huyện thuộc Nghệ An. Đây là bộ phận quân chủ lực,
rất được chúa Trịnh ưu đãi, cấp cho nhiều ruộng tiền, nhân dân gọi là lính
“tam phủ” hay “ưu binh”.
Tình trạng “vua Lê – chúa Trịnh” còn đè nặng lên đầu nhân dân bằng
một bộ máy quan lại cồng kềnh. Ở trung ương cơ quan hành chính cao nhất là
ngũ phủ và phủ liêu gọi tắt là phủ đường. Ban đầu, phủ đường được tổ chức
thành 3 phiên, trông coi mọi việc quân sự, thu thuế trong kinh và ở các trấn;
sau đổi thành 6 phiên, nắm quyền chi phối mọi mặt hoạt động của nhà nước
quân chủ.
Trong lúc đó phía triều đình vua Lê (tuy chỉ là bù nhìn) vẫn giữ nguyên
hệ thống quan lại cũ, với các chức tam thái, tam thiếu, và các thượng thư của
sáu bộ.
Nhằm nắm chắc quân đội, chúa Trịnh phong cho các con làm Tiết chế
hay Nguyên soái, thống lĩnh toàn quân. Rõ ràng là ở trung ương, mọi quyền
hành thực sự đều nằm trong tay phủ chúa.
Kế tục của nhà Lê sơ, cách lựa chọn quan lại của thời Lê – Trịnh vẫn
chủ yếu thông qua khoa cử. Những người đỗ đạt được bổ xung cất nhắc tùy
khả năng và thái độ với phủ chúa. Các khoa thi liên tiếp được tổ chức, ngay cả
những năm tình hình xã hội không ổn định. Tuy nhiên những người được
phép thi hương phải được xét lí lịch từ cấp xã, huyện, châu. Số người được dự
thi cũng hạn chế tùy theo xã lớn hay nhỏ. Số người được đỗ tiến sĩ cũng được
quy định theo từng năm, nói chung mỗi kì thi chỉ lấy được dăm bảy tiến sĩ.
Để đào tạo tướng giỏi, chúa Trịnh cho lập trường Giảng võ dạy binh
pháp và mở các khoa thi võ, ai trúng tuyển thì được gọi là Tạo sĩ (ngang với
Tiến sĩ). Với chính sách tuyển lựa quan lại như trên, các chúa Trịnh đánh
11
nhau dai dẳng với quân của chúa Nguyễn ở Đàng trong và đàn áp các phong
trào nông dân nửa đầu thế kỉ XVIII.
Cùng với những biến đổi về tình hình chính trị của xã hội ở Đàng
Ngoài, những thay đổi của tình hình thế giới, đặc biệt là của các nước tư bản
sau các cuộc phát kiến địa lí diễn ra vào thế kỉ XV đã có những tác động
mạnh mẽ đến xã hội phong kiến của Đàng Ngoài thời kì này.
Về tình hình xã hội:
Điều đầu tiên chúng ta cần nói đến là tình hình tôn giáo tín ngưỡng thời
kì này:
Bên cạnh sự phát triển thịnh suy của những tôn giáo tín ngưỡng đã tồn
tại lâu dài trong nhân dân như đạo Phật, Nho Giáo, Đạo giáo là sự xuất hiện
của Thiên Chúa Giáo và chữ quốc ngữ. Các loại hình tôn giáo phát triển đan
xen và ngày càng làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân.
Trong các thế kỉ XVI – XVII, Tống Nho tiếp tục được nhà nước quân
chủ bảo vệ, coi đó là nền tảng bảo vệ ý thức hệ của mọi tổ chức chính trị, kinh
tế, là kỉ cương của đời sống xã hội. Tuy nhiên cùng với bước suy thoái của
nhà nước quân chủ tập quyền từ đầu thế kỉ XVI, Nho giáo cũng mất dần tính
lợi hại của một công cụ thống trị tinh thần.
Trong bối cảnh đó, Phật giáo và Đạo giáo có xu hướng phát triển trở
lại, thể hiên khá rõ nét trong ý thức tư tưởng và sinh hoạt tinh thần của vua
chúa, quý tộc nói chung. Sự phục hồi của Phật giáo, Đạo giáo song song với
sự suy đốn của Nho giáo là một mặt biểu hiện sự thoái hóa của toàn bộ cấu
trúc quân chủ trung ương tập quyền. Thực tế này càng rõ nét từ thế kỉ XVIII,
khi phong trào nông dân bùng lên mạnh mẽ, đả kích trực tiếp vào Nhà nước
quân chủ chuyên chế trên mọi lĩnh vực.
Các thế kỉ XVI, XVII, vua chúa, quý tộc đua nhau tôn thờ đạo Phật,
xây dựng chùa chiền, cúng ruộng vào chùa…việc trùng tu chùa cũ, xây cất
chùa mới được tiến hành liên miên năm này qua năm khác.
12
Trong khoảng thế kỉ XVI, XVII, Đạo giáo cũng phát triển và được vua
chúa sùng mộ. Việc tu tiên luyện đan… rất thịnh hành trong thời kì này. Sử
cũ chép những nhà tu tiên nổi tiếng như Phạm Viên ở Nghệ An “có phép thần
thông biến hóa”, hoặc Nguyễn Hoãn (quê gốc ở Thanh Hóa), xuất thân tiến sĩ
và làm thượng thư bộ Lại, nổi tiếng về phép luyện đan…
Sự sùng mộ Phật giáo của vua chúa, quý tộc với không khí xây chùa
thờ Phật phản ánh sự thoái hóa về tinh thần của tầng lớp thống trị vốn dựa
trên nền tảng ý thức hệ Tống Nho. Họ muốn tìm lối thoát tinh thần trong việc
tụng kinh niệm Phật, mong tìm một chỗ dựa mới cho nhà nước quân chủ. Mặt
khác, trên đà suy thoái, vua chúa,quý tộc lợi dụng chùa chiền và những nơi
danh thắng để thỏa mãn cuộc sống xa hoa và làm suy giảm ý chí đấu tranh
chống áp bức cường quyền – một liều thuốc của bọn vua chúa cho nhân dân.
Những cuộc phát kiến địa lí đã mở ra nhiều con đường buôn bán trao
đổi giữa các châu lục, lúc này những con thuyền lớn của phương Tây đã cập
bến đến những vùng đất mới, sự giàu có về tài nguyên là một trong những sức
hút mãnh liệt của một số nước Châu Á đối với các nước phương Tây. Song
song với những mục đích kinh tế là những luồng tư tưởng văn hóa mới, tiêu
biểu là Đạo Thiên Chúa đã theo nững con thuyền tới những miền đất mà họ
cập bến trong đó có nước ta.
Từ thế kỉ XVI, các giáo sĩ đã theo các thuyền buôn bắt đầu đến nước ta
truyền đạo. Đời sống cơ cực của các tầng lớp nhân dân dưới sự thống trị của
các chính quyền quân chủ thời Mạc, Lê - Trịnh, Nguyễn cùng với những cuộc
chiến tranh kéo dài hàng thế kỉ, đó là một môi trường thuận lợi cho đạo Thiên
Chúa xâm nhập, nó như một liều thuốc tinh thần mới cho nhân dân, đồng thời
là một lớp vỏ ngụy trang cho những âm mưu thâm độc của các nước tư bản
đối với nước ta.
13
Theo chân các thương nhân, các giáo sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha đã xây
dựng những cơ sở truyền giáo ở Ma Cao, từ đó truyền bá đạo Thiên Chúa
sang các nước Châu Á và tạo cơ sở đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở thế kỉ
XVI, việc truyền đạo Thiên Chúa ở nước ta chỉ mới đạt những kết quả bước
đầu. Sang thế kỉ XVII, việc truyền giáo được xúc tiến mạnh hơn. Năm 1615,
các giáo sĩ Dòng Tên đã lập đoàn truyền giáo ở Đàng Trong. Đến năm 1639,
ở Đàng Trong có 15.000 người theo đạo Thiên Chúa.
Năm 1627, một giáo sĩ người Pháp là Alexandre de Rhodes thành lập
một đoàn truyền giáo ở Đàng Ngoài. Đến năm 1639, số giáo dân ở Đàng
Ngoài đã có khoảng 250.000 người. Như vậy, từ giữa thế kỉ XVII, sau khi hội
truyền giáo nước ngoài của Pháp thành lập (1668), các giáo sĩ Pháp đã lấn át
dần thế lực của giáo sĩ người Bồ Đào Nha.
Nhằm độc chiếm thị trường nước ta cho tư bản Pháp, năm 1649
Alexandre de Rhodes về La Mã vận động thành lập một đoàn truyền giáo tách
khỏi sự bảo trợ của Bồ Đào Nha. Sau đó, Alexandre de Rhodes trở về Pari
cho xuất bản nhiều kí sự, bản đồ giới thiệu nước ta và tuyên truyền phương án
của mình. Chủ trương đó được giới tư bản Pháp ủng hộ, và năm 1668, hội
truyền giáo nước ngoài của Pháp đã được thành lập, giữ quyền truyền đạo
sang vùng Đông Nam Á, nam Trung Quốc, một phần Nhật Bản và Triều Tiên.
Thiên Chúa giáo không phù hợp với ý thức hệ Tống Nho, vì vậy các
Nhà nước quân chủ Đàng Trong, Đàng Ngoài đã nhiều lần ra lệnh cấm đạo,
trục xuất giáo sĩ.
Trên bước đương trưởng thành của dân tộc, Tiếng Việt cũng ngày càng
phong phú và trong sáng. Trên cơ sở đó, từ thế kỉ XVII, các giáo sĩ phương
Tây vào nước ta truyền đạo đã dùng chữ cái Latinh ghi âm tiếng Việt để tiện
việc biên soạn và ra giảng giáo lí Thiên Chúa. Alexandre de Rhodes là giáo sĩ
đầu tiên có nhiều đóng góp cho việc này. Tiếng Việt latinh hóa đã ngày càng
14
hoàn thiện dần, và chữ “quốc ngữ” xuất hiện từ đó. Đương nhiên chữ quốc
ngữ còn phải trải qua nhiều thử thách và thể nghiệm mới trưởng thành chữ
viết chính thức của dân tộc, góp phần đắc lực truyền bá khoa học và phát triển
văn hóa trong những thế kỉ sau, vượt quá ý định ban đầu của những người
Latinh Hóa Tiếng Việt ở thế kỉ XVII.
Sự suy thoái của nhà nước kéo theo sự suy thoái của các trật tự, thiết
chế xã hội, và giáo dục, thi cử cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Triều đình Lê – Trịnh nói chung vẫn tiếp tục các quy chế giáo dục, thi
cử của thời Hồng Đức, có bổ xung chút ít. Tuy nhiên, chất lượng học hành thi
cử ngày càng giảm sút. Những nguyên tắc đạo đức và lễ giáo Tống Nho
không còn tác dụng thuyết phục, trở thành hình thức suông. Nội dung thi cử
học tập nông cạn, khuôn sáo, mất hẳn tính sáng tạo. Nhiều hiện tượng tiêu cực
nghiêm trọng xảy ra công khai và ngày càng phổ biến trong học hành thi cử.
Trường thi trở thành nơi mua bán danh vị, việc thi cử trở thành mục đích thực
dụng của mọi người…
Thuyết “chính danh định phận”, một nội dung quan trọng của ý thức hệ
Nho giáo nhằm bảo vệ tôn ti trật tự của nhà nước cũng mất dần ý nghĩa. Sức
mạnh của đồng tiền đã làm rạn nứt thảm hại thành trì lễ giáo Tống Nho. Có
thể nói, triết lý “danh phận” nhường chỗ cho quan niệm “còn bạc còn tiền còn
đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi”
Sự suy thoái của cơ chế nhà nước quân chủ tập quyền kéo theo sự phân
hóa về mặt ý thức hệ trong giai cấp thống trị cũng ngày một rõ rệt. Trong giới
sĩ phu những người bất mãn với chính quyền, có điều kiện gần gũi với nhân
dân, sự đồng cảm với quần chúng lao động khổ cực. Tất cả được phản ánh
trong các tác phẩm văn học của họ. Thời kì này, văn học chữ Hán vẫn chiếm
ưu thế, bên cạnh đó văn học chữ Nôm đã phát triển mạnh hơn trước và chiếm
vị trí trọng yếu. Tiêu biểu có các nhà thơ nổi tiếng đương thời như: Nguyễn
15
Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ. Nội dung của các tác phẩm, khuynh hướng ca tụng
cảnh thái bình thịnh trị của văn học thế kỉ XV đã không còn nữa mà thay vào
đó là những tâm sự bi quan, bất lực, những trăn trở, nhức nhối của kẻ sĩ trước
thế sự đảo điên. Mặt khác, tư tưởng nhân đạo, khuynh hướng chữ tình trong
văn học bắt đầu phát triển. Đây cũng là một điểm mới trong văn học thời kì
này.
1.2. Tình hình kinh tế
Nông nghiệp:
Tình hình chính trị không ổn định đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát
triển kinh tế của Đàng Ngoài mà trước tiên chúng ta có nhận thấy được sự ảnh
hưởng tiêu cực đó trong nông nghiệp.
Chiến tranh kéo dài đã tàn phá nghiêm trọng nền nông nghiệp của nhân
dân, thêm vào đó nạn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân ngày càng diễn ra
trầm trọng. Nhà Lê – Trịnh đặt phép “Bình lệ” lập thuế một lần rồi cứ thế mà
thu, “sinh thêm không tính, chết đi không trừ”. Bọn cường hào địa chủ nhân
đó tiếp tục hạch sách dân thường vốn đã nghèo khổ. Trước tình hình như vậy,
chúa Trịnh một lần nữa phải ban hành lại phép quân điền, theo đó làng xã
phải thu hồi lại hết ruộng công. Những người đã có ruộng lộc, ruộng tư đủ
mức đều không được cấp ruộng công, việc phân cấp ruộng đất phải thực hiện
theo quy chế chung. Tuy nhiên, chính sách này của chúa Trịnh ban ra không
còn mấy tác dụng nữa bởi lễ theo nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét: “nước
ta duy có trấn Sơn Nam có rất nhiều ruộng công và đất bãi còn các nơi khác
các hạng ruộng công không còn mấy”. Việc chiếm đoạt ruộng đất công đã
làm cho diện tích ruông tư ngày càng được mở rộng. Trong xã hội hình thành
nhiều loại địa chủ khác nhau: cung nhân, hoạn quan, quan lại, công thần, hào
phú, với số ruộng đất trong tay rất lớn. Thời kì này, chiến tranh loạn lạc đã
ảnh hưởng tới đời sống tâm linh của người dân, hình thành nên một loại ruộng
16
mới là “ruộng hậu”. Để giữ vững số thu nhập hàng năm, khi số ruộng tư ngày
càng nhiều lên, chúa Trịnh đã quyết định đánh thuế ruộng tư, ruộng làng xã.
Nhà nước không còn quan tâm tới công tác đê điều thủy lợi cho người
dân như trước, quan lại bớt xén tiền đắp đê, phòng lũ càng làm cho tình trạng
mất mùa của nhân dân diễn ra trầm trọng hơn.
Có thể nói, nông nghiệp – ngành kinh tế chính quyết định đến đời sống
ấm lo cho nhân dân đã không được nhà nước quan tâm như trước, thay vào đó
là hàng loạt những chính sách phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân. Tất cả đã làm
cho đời sống nhân dân ngày thêm đói khổ, báo hiệu cho một thời kì mất ổn
định mới của đất nước.
Thủ công nghiệp:
Sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, với những đòi hỏi về thị
trường nguyên liệu rộng lớn là những nguyên nhân làm xuất hiện các cuộc
phát kiến địa lí của thế giới vào đầu thế kỷ XV. Các cuộc phát kiến này đã
đem đến sự giao lưu văn hóa Tây – Đông. Trong lúc đó thương nhân Trung
Quốc, Nhật Bản cũng gia tăng hoạt động tại khu vực. Đại Việt dần trở thành
một địa điểm thương mại quan trọng của các thương nhân Tây Âu, Nhật Bản,
Trung Quốc. Con đường buôn bán với nước ngoài ngày càng phát triển đó là
điều kiện thuận lợi thúc đẩy thủ công nghiệp nước ta thời kì này.
Có thể nói, thủ công nghiệp của Đàng Ngoài thời kì này rất phát triển,
nhà nước cho lập nhiều xưởng lớn chuyên đúc súng, đóng thuyền các loại,
làm đồ trang sức, giày dép, mũ áo cho vua chúa, quan lại.
Thủ công nghiệp trong nhân dân cũng phát triển mạnh mẽ. Khắp các
làng xã, đâu đâu cũng hình thành những nghề thủ công, những thợ thủ công
chuyên các nghề rèn, mộc, dệt vải, lụa, kéo tơ, làm gốm, làm giấy…
Làm gốm: vốn là một nghề truyền thống đã được hình thành và tồn tại
hàng nghìn năm. Nghề làm gốm phát triển ở nhiều nơi trên đất nước ta hình
17
thành nên các làng gốm danh tiếng như Bát Tràng, Thổ Hà…Các loại bát đĩa
sứ, gốm tráng men của người Việt đã trở thành một loại hàng hóa được
thương nhân nước ngoài ưa chuộng.
Đặc biệt các sản phẩm tơ lụa nước ta thời kì này được các thương nhân
nước ngoài ưa chuộng và mua với số lượng lớn. Nổi tiếng lụa ở Đàng Ngoài
là làng La Khê. Như Lê Quý Đôn nhận xét: “Huyện Từ Liêm và Đan
Phượng…có nhiều bãi trồng dâu, nhân dân chăm về việc chăm tằm, dệt cửi.
Các xã Hạ Hội, Thiên Mỗ, Ỷ La, Trung Thụy và Đại Phùng có tài dệt lụa trìu,
lĩnh, là. Thăng Long và Phú Xuân là hai trung tâm dệt truyền thống với các
phường Yên Thái, Bưởi, Trích Sài, Trúc Bạch, Nghi Tàm…”.
Ngoài ra các nghề làm đường, nghề rèn sắt, nghề làm giấy, đúc đồng,
khảm trai, mạ vàng… cũng rất phát triển. Bên cạnh đó một số nghề thủ công
mới như làm tranh dân gian, làm đồng hồ cũng xuất hiện.
Nhìn chung, nghề thủ công nghiệp của nhân dân ở Đàng Ngoài thời kì
này vừa được mở rộng, vừa được phát triển, đáp ứng mức độ nhất định nhu
cầu của nhân dân trong nước và nhu cầu của thương nhân nước ngoài, đi sâu
hơn vào nền kinh tế thị trường có tính quốc tế.
Thương nghiệp:
Do điều kiện giao thông đi lại thuận tiện hơn trước, nhu cầu của cuộc
sống ngày càng tăng lên, nên sự trao đổi ngày càng cần thiết.
Mặt khác, sự hình thành của các luồng giao lưu buôn bán quốc tế đã tác
động mạnh mẽ làm cho việc buôn bán với nước ngoài phát triển, vừa làm cho
nội thương thêm nhộn nhịp, có thể nói thế kỉ XVII là thời kỳ phát triển khá
rầm rộ của thương nghiệp.
Buôn bán trong nước:
Các chợ mọc lên ở khắp nơi, hầu như mỗi làng đều có chợ hoặc các
cụm làng chia phiên trong tuần để họp chợ. Một huyện có từ mười bốn đến
18
hai hai chợ làng, chợ chùa, chợ huyện. Một hiện tượng đáng lưu ý của sự phát
triển nội thương đương thời là sự hình thành của các “làng buôn” như Đa
Ngưu (Hưng Yên), Báo Đáp (Nam Định), Phù Lưu (Bắc Ninh), Đan Loan
(Hải Dương)… Đây vốn là những làng nông nghiệp, nhờ vị trí địa lí thuận lợi
mà một số cư dân chuyển sang buôn bán tuy vẫn giữ cái gốc nhà nông.
Buôn bán với thương nhân nước ngoài:
Ở thế kỉ XVII, việc buôn bán với thương nhân nước ngoài rất phát
triển.
Đầu tiên có thể kể đến đó là việc buôn bán với thương nhân Trung
Quốc: Người Trung Quốc đến nước ta buôn bán từ rất lâu. Hàng năm, thuyền
buôn của họ từ Quảng Châu dong buồm xuống các cảng Vân Đồn, Vạn Ninh
(Quảng Ninh) rồi vào phố Hiến (Hưng Yên), Vị Hoàng (Nam Định). Việc
buôn bán của họ ngày càng phát triển.
Hàng hóa do thương nhân Trung Quốc chở đến là: gấm, vóc, đoạn, giấy
bút, các loại đồ đồng, đồ sức, bạc nén, chì, kẽm trắng, diêm sinh, khí giới. Khi
ra đi họ mang theo hồ tiêu, đường, gỗ, quế, các loại hương liệu, yến sào, sừng
tê, ngà voi, tơ…
Vào cuối thế kỉ XVIII, khi các thương nhân ngoại quốc khác rút đi, các
thương nhân Trung Quốc hầu như làm chủ Đại Việt.
Với thương nhân Nhật Bản:
Từ thế kỷ XVI, người Nhật đã dong thuyền buôn bán với Đàng Trong
rồi chuyển dần ra Đàng Ngoài. Ban đầu người Nhật đáp thuyền đến buôn bán
và lập phố ở xã Phục Lễ (Nghệ An), rồi xin ra buôn bán ở Phố Hiến.
Hàng hóa người Nhật thường mua là tơ lụa, đồ gốm, đường, quế,
hương liệu. các thứ họ đem sang là vũ khí, áo giáp, bạc. Chúa Trịnh cũng có
lúc trao đổi thư từ với chính quyền Nhật – thông qua các lái buôn, đặt quan hệ
buôn bán.
19
Từ giữa thế kỉ XVII, do lệnh cấm của chính phủ Nhật, việc buôn bán
với Đàng Ngoài thưa dần, mặc dầu hàng tơ lụa Việt vẫn được người Nhật ưa
chuộng và mua lại của thương nhân Hà Lan.
Buôn bán với thương nhân Bồ Đào Nha:
Thương nhân Bồ Đào Nha đến buôn bán với nước ta từ rất sớm, tuy
nhiên chỉ tập trung ở Đàng Trong. Đến giữa thế kỷ XVII, họ mới đến Đàng
Ngoài xin buôn bán, sang đến thế kỷ XVIII, việc giao thương thưa dần do vấp
phải sự cạnh tranh của thương nhân Hà Lan.
Buôn bán với thương nhân Hà Lan:
Từ giữa thế kỷ XVII, việc buôn bán của thương nhân Hà Lan được thực
hiện ở Đàng Ngoài. Chúa Trịnh cho phép thương nhân Hà Lan đặt thương
điếm ở Phố Hiến, từ đó họ mở rộng việc buôn bán. Họ trở đến vũ khí, bạc,
diêm sinh, lưu hoàng, diêm tiêu, hổ phách, vải lanh, len dạ… và chở đi các
loại hàng tơ lụa, đồ sành sứ…
Với thương nhân người Anh:
Năm 1600, công ti Đông Ấn Anh thành lập, mở đầu việc buôn bán với
các nước phương Đông. Các năm 1613, 1616, phái đoàn đã đến Đàng Trong
và Đàng Ngoài dâng tặng phẩm, xin buôn bán, đến năm 1672, họ được phép
lập thương điếm ở Phố Hiến. Năm 1683, họ được chúa Trịnh cho phép lập
thương điếm ở Kẻ Chợ (Thăng Long), đem các hàng như len dạ, đồ xa xỉ,
súng đến bán và mua tơ lụa mang đi.
Buôn bán với người Pháp:
Thương nhân Pháp đến buôn bán với nước ta khá muộn, đến năm 1681
mới được chúa Trịnh cho phép thành lập thương điếm và buôn bán ở Phố
Hiến. Họ bán hàng và mua tơ lụa, xạ hương trở về.
Có thể nói, thế kỷ XVII, việc buôn bán với thương nhân nước ngoài đã
phát triển và mở rộng hơn hẳn những thế kỉ trước, đánh dấu thời kỳ Đại Việt
20