Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Giáo dục pháp việt ở việt nam từ năm 1861 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 115 trang )

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận với đề tài: “Giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam từ năm
1861 đến năm 1945” được hoàn thành tại khoa Lịch Sử, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, dưới sự hướng dẫn của Th.s Chu Thị Thu Thủy.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất
tới cô Chu Thị Thu Thủy - người đã hướng dẫn tận tình, góp ý trực tiếp và
giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Em xin cảm ơn tới các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Lịch Sử đã giảng dạy em trong suốt thời
gian qua.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người
thân đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong các thầy cô nhận xét và góp ý để bài nghiên cứu của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng 5

năm 2013

Sinh viên

Nguyễn Thị Minh Tâm


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đề tài khóa luận này là do sự cố gắng nỗ lực tìm hiểu,


nghiên cứu của bản thân với sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Thạc sỹ Chu
Thị Thu Thủy.
Công trình này không trùng lặp với các kết quả nghiên cứu của các tác
giả khác.
Nếu sai sót em hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày

tháng 5 năm 2013
Sinh viên

Nguyễn Thị Minh Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................... 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................. 5
5. Đóng góp khóa luận ................................................................................... 5
6. Bố cục khóa luận ..................................................................................... 6
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỀN GIÁO DỤC PHÁP- VIỆT Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 1861 ĐẾN NĂM 1945 ............................................. 7
1.1. QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA THỰC DÂN PHÁP ....... 7
1.2. SỰ THIẾT LẬP VÀ CỦNG CỐ BỘ MÁY CAI TRỊ THUỘC ĐỊA CỦA
THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM ............................................................... 9
1.3. CÁC CHÍNH SÁCH ÁP BỨC, BÓC LỘT VỀ KINH TẾ .................... 13
1.3.1. Tăng cường chính sách thuế khóa ...................................................... 14
1.3.2. Tập trung đầu tư vốn khai thác công thương nghiệp ........................... 15
1.4. SỰ PHÂN HÓA XÃ HỘI VÀ Ý THỨC GIAI CẤP XÃ HỘI ............... 19

1.5. SỰ BẤT LỰC CỦA NỀN GIÁO DỤC PHONG KIẾN......................... 21
1.5.1. Nhà Nguyễn và việc tiếp xúc với nền giáo dục thực nghiệm phương
Tây ............................................................................................................... 21
1.5.2. Sự bất lực của nền giáo dục phong kiến triều Nguyễn trước lịch sử .... 22
1.6. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM .. 26
Tiểu kết chương 1: ...................................................................................... 29
Chương 2. GIÁO DỤC PHÁP - VIỆT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1861
ĐẾN NĂM 1945.................................................................................... 30
2.1. GIÁO DỤC PHÁP - VIỆT TỪ NĂM 1861 ĐẾN NĂM 1884 .............. 30
2.1.1. Những trường học đầu tiên ở Nam Kỳ ( 1861-1867) ......................... 30


2.1.2 Những thay đổi về tổ chức giáo dục và nội dung giáo dục (18681884) .................................................................................................... 32
2.2. GIÁO DỤC PHÁP - VIỆT TỪ NĂM 1884 ĐẾN NĂM 1916 .............. 40
2.2.1. Từ Paul Bert đến Paul Doumer những tiền đề của cuộc cải cách giáo
dục lần thứ nhất ............................................................................................ 40
2.2.2. Nội dung cải cách của Paul Beau (1906) ............................................ 43
2.2.3. Kết quả .............................................................................................. 45
2.3. GIÁO DỤC PHÁP- VIỆT TỪ NĂM 1917 ĐẾN NĂM 1929 ................ 46
2.3.1. Cuộc cải cách của Albert Sarraut (1917)............................................. 46
2.3.1.1. Nguyên nhân của cuộc cải cách ....................................................... 46
2.3.1.2. Nội dung của cuộc cải cách ............................................................. 47
2.3.1.3. Kết quả ........................................................................................... 51
2.3.2. Thực trạng giáo dục Pháp - Việt từ sau cuộc cải cách của Albert Sarraut
(1917) .......................................................................................................... 54
2.3.2.1.Đầu tư cho giáo dục ........................................................................ 54
2.3.2.2. Giáo dục tiểu học............................................................................. 55
2.3.2.3. Giáo dục trung học .......................................................................... 58
2.3.2.4. Giáo dục cao đẳng và đại học ........................................................ 60
2.4. GIÁO DỤC PHÁP - VIỆT TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 ............. 63

2.4.1. Giáo dục tại các vùng dân tộc thiểu số ............................................... 63
2.4.1.1. Giáo dục dân tộc thiểu số ở Bắc Kỳ ................................................ 63
2.4.1.2. Giáo dục dân tộc thiểu số ở Trung Kỳ ............................................ 65
2.4.1.3. Giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số ở Nam Kỳ ................................... 68
2.4.2. Thể chế hóa giáo dục tiểu học............................................................ 69
2.4.3. Hoàn chỉnh chương trình giáo dục trung học ...................................... 74
2.4.4. Giáo dục tư thục ................................................................................ 78
2.4.5. Củng cố và mở rộng giáo dục đại học ................................................. 81


Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 83
Chương 3. NHỮNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ GIÁO DỤC PHÁP VIỆT TỪ NĂM 1861 ĐẾN NĂM 1945 ................................................... 85
3.1. Đặc điểm của giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam .................................... 85
3.2. Tác động hai mặt của nền giáo dục Pháp - Việt .................................... 88
3.2.1. Về mặt tích cực .................................................................................. 88
3.2.2. Về mặt tiêu cực .................................................................................. 92
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 97

KẾT LUẬN ......................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 101
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
2. Lý do chọn đề tài
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta:
“ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây,
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”

Chính vì thế mà từ lâu giáo dục đã trở thành một vấn đề sống còn, vấn
đề tương lai của mỗi quốc gia dân tộc.
Việt Nam vốn là một dân tộc hiếu học. Từ xưa đến nay truyền thống
tôn sư trọng đạo vẫn luôn là một nét đẹp trong đời sống văn hóa của nhân dân
ta. Qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau giáo dục đã đóng góp không nhỏ vào
sự nghiệp “kinh bang tế thế” của dân tộc. Giáo dục Nho giáo lấy đạo “trung
quân” làm mục tiêu hướng tới và sản phẩm khuôn vàng thước ngọc là đào tạo
ra “người quân tử”. Từ đó “tam cương, ngũ thường” đã trở thành một chuẩn
mực để giáo dục phải theo. Sách “Tứ thư”, “Ngũ kinh” là những bộ sách giáo
khoa không thể thiếu trong dạy học. Sĩ tử thấm nhuần trong sách thánh hiền
những gương người xưa về đối nhân xử thế, về cách cai trị để “tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Tuy nhiên sự phiến diện trong nội dung giáo dục và mục tiêu
giáo dục Nho giáo đã làm trì trệ nền giáo dục nước nhà mà còn là lực cản cho
sự phát triển của đất nước.
Trong thời kỳ Pháp thuộc nhận thấy được tầm quan trọng của giáo dục
đối với công cuộc khai thác thuộc địa nên Pháp đã áp đặt nền giáo dục
Phương Tây vào nước ta. Với bối cảnh nền giáo dục Nho giáo đang hồi suy
tàn, lối dạy học lạc hậu, nội dung phiến diện không đáp ứng được yêu cầu cần
người thông dịch, đào tạo đội ngũ tay sai, phục vụ cho công cuộc khai hóa
của chúng. Pháp đã đưa đến những yếu tố mới cho nền giáo dục. Nổi bật lên
đó là sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của giáo dục Pháp - Việt.


2
Nghiên cứu về giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam cho ta thấy cái nhìn
khách quan và toàn diện được sự biến đổi của nền giáo dục Việt Nam trong
thời kỳ thời kỳ thuộc địa, những âm mưu mục đích, chính sách mà Pháp đã thi
hành để biến trường học trở thành một công cụ phục vụ cho âm mưu chính trị
của chúng.
Nghiên cứu vấn đề này còn cho ta thấy được sự phát triển toàn diện của

hệ thống giáo dục Pháp - Việt. Từ đó đánh giá được những tác động của nó
đến nền văn hóa- giáo dục của dân tộc.
Với mong muốn được đi sâu tìm hiểu bức tranh toàn cảnh về nền giáo dục
Việt Nam thời Pháp thuộc, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Giáo dục Pháp - Việt ở
Việt Nam từ năm 1861 đến năm 1945” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho tới nay vấn đề giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc mới chỉ được đề cập rải rác trong một số công trình nghiên cứu của một
số tác giả như:
Cuốn Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945 (Vũ Ngọc
Khánh, 1985) đã khái quát một số vấn đề lý luận về giáo dục. Trong đó, tác
giả cũng đã giành một phần nhỏ để viết về giáo dục thời thuộc địa ở Việt
Nam. Tác giả đã phê phán gay gắt nền giáo dục nô dịch mà Pháp đã thực hiện
trong suốt 80 năm trên đất nước ta.
Cuốn sách như Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng
8/1945 (Nguyễn Đăng Tiến, 1996), tác giả cũng đã dành một chương trong
cuốn sách của mình để nói về giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Trong
đó tác giả có viết về sự hình thành phát triển của hệ thống giáo dục Pháp- Việt
qua các giai đoạn khác nhau với hai cuộc cải cách (1906 và 1917). Tuy nhiên


3
vẫn chỉ dừng ở mức độ sơ lược chưa đi sâu vào từng cấp bậc, chưa thấy được
những điểm tích cực, hạn chế của nền giáo dục này.
Cuốn Giáo dục Việt Nam thời cận đại (Phan Trọng Báu, 2006), trình
bày toàn diện hơn cả về giáo dục Việt Nam trước năm 1945. Với 9 chương
chia làm hai phần, Phan Trọng Báu đã lần lượt giới thiệu khái quát về các
dòng giáo dục ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc bao gồm : giáo dục truyền
thống, Pháp - Việt, yêu nước -cách mạng. Mặc dù đề cập đến các dòng giáo

dục nhưng lại không chỉ ra những mối quan hệ của chúng với nhau.
Hay các Lịch sử giáo dục Việt Nam (Bùi Minh Hiền), Lịch sử giản lược
hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam( Lê Văn Giạng, 2003), Sơ lược lịch sử
giáo dục (Đoàn Huy Ánh, 2004).....Trong các tác phẩm này, các tác giả cũng
đã đề cập, phân tích hệ thống giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Nhưng chủ yếu đi vào các chính sách mục đích mà Pháp thi hành, mới chỉ đề
cập sơ lược đến hệ thống giáo dục với các trường học. Và còn nặng tính phê
phán đối với nền giáo dục này.
Ngoài ra, những cuốn sách thông sử Việt Nam do Đinh Xuân Lâm,
Nguyễn Văn Khánh viết cũng đã nói đến chính sách văn hóa giáo dục của
Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa. Hay những bài nghiên cứu cũng có
đề cập đến mảng giáo dục thời thuộc địa của Tạ Thị Thúy với bài viết Việc
cải cách giáo dục của Pierre Pasquier ở Việt Nam đầu thập niên 30, thế kỷ
XX được đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, năm 2012. Bài viết này
đã tập trung vào công cuộc cải cách giáo dục của Pierre Pasquier trong những
năm 30 của thế kỷ XX. Nó mới chỉ dừng lại ở việc phân cấp quản lý đối với
bậc tiểu học, chuyển từ Nha học chính sang Bộ học của chính phủ Nam triều.
Còn các bậc học khác mới chỉ dừng lại ở dự định.
Hay tác giả Phan Trọng Báu với bài viết Nhìn lại hai cuộc cải cách
giáo dục (1906 và 1917) ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đăng trên tạp chí Nghiên


4
cứu lịch sử, số 5, năm 2008. Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cái
nhìn khái quát về tình hình giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến đầu
thế kỷ XX. Sau đó tập trung đi vào hai cuộc cải cách quan trọng mà Pháp đã
tiến hành ở Việt Nam (1906 và 1917). Tuy nhiên cũng chưa đi sâu vào tìm
hiểu hệ thống giáo dục Pháp - Việt, cũng như tác động của chúng.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy được rằng: cho đến nay cũng đã có các
công trình nghiên cứu, đề cập đến mảng giáo dục Pháp - Việt. Song chưa có

một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, hệ thống đi sâu và toàn diện
thấy được cả những mặt tích cực cũng như hạn chế về giáo dục Pháp - Việt ở
Việt Nam thời thuộc địa từ năm 1861 đến năm 1945.
Trên cơ sở tìm hiểu các tài liệu về giáo dục thời thuộc địa mà các nhà
nghiên cứu, các tác giả đã biên soạn tôi đã kế thừa những kiến thức quý báu
để thực hiện đề tài: “ Giáo dục Pháp – Việt ở Việt Nam từ năm 1861 đến
1945”.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam từ năm 1861 đến năm
1945’’ nhằm làm sáng tỏ quá trình hình thành, phát triển của nền giáo dục
Pháp - Việt ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Qua đó thấy được vai trò
tác động của nền giáo dục này đến tình hình văn hóa, xã hội của Việt Nam.
Đề tài dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài tập trung tìm hiểu nền giáo dục Pháp - Việt nước ta qua các
khía cạnh: mục đích, chương trình học của các cấp, nội dung của các cuộc cải
cách giáo dục từ năm 1861 đến năm 1945.
- Từ việc tìm hiểu về các nội dung, chương trình học đó, để thấy được
những điểm tích cực, cũng như hạn chế mà nền giáo dục Pháp - Việt mang lại.


5
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển của nền giáo dục Pháp- Việt ở Việt Nam từ năm 1861 đến năm 1945.
-Về không gian: Tác động trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thời Pháp
thuộc.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu

- Các sách chuyên khảo do cơ quan, cá nhân trong và ngoài nước viết
về giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc.
- Các bài nghiên cứu về giáo dục thời Pháp thuộc đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử.
- Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về các lĩnh vực giáo
dục thời Pháp thuộc ở Việt Nam.
- Các cuốn thông sử Việt Nam giai đoạn cận đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề đặt ra, tôi sử dụng hai phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành cơ bản là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp khác nhau như phân tích,
thống kê…để đánh giá các nguồn sử liệu. Từ đó đưa ra những kết luận khoa
học.
5. Đóng góp khóa luận
Cung cấp cái nhìn tương đối đầy đủ và hệ thống về quá trình hình thành
và phát triển của nền giáo dục Pháp -Việt ở Việt Nam từ năm 1861 cho đến
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ đó khóa luận có những đóng góp nhất
định về mặt nghiên cứu lịch sử.
Khóa luận đã hoàn thành nhiệm vụ khoa học từ đề tài, từ những nội
dung tìm hiểu ta có cách nhìn khách quan về nền giáo dục Pháp - Việt. Bên


6
cạnh những mặt tác động tích cực cho nền giáo dục Việt Nam thì ta cũng thấy
được những mặt hạn chế của nền giáo dục này.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần cung cấp thêm tư liệu,
bổ sung mảng kiến thức này cho bạn đọc.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
khóa luận bao gồm ba chương:

Chương 1. Cơ sở hình thành nền giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam từ
năm 1861 đến năm 1945.
Chương 2. Giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam từ năm 1861 đến năm
1945.
Chương 3. Những nhận xét, đánh giá về giáo dục Pháp - Việt từ năm
1861 đến năm 1945.


7

Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỀN GIÁO DỤC PHÁP- VIỆT Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 1861 ĐẾN NĂM 1945

1.3. QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA THỰC DÂN PHÁP
Vương triều Nguyễn (1802- 1945) là triều đại cuối cùng trong lịch sử
phong kiến Việt Nam. Từ các đời vua Gia Long cho đến Tự Đức, mặc dù đã
có những cống hiến nhất định trong việc duy trì chế độ phong kiến. Song việc
thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại phản động, chuyên chế đã đẩy xã hội
phong kiến Việt Nam đi vào con đường suy vong, nhà Nguyễn đứng trước
nguy cơ tan rã.
Trong hoàn cảnh đó, các thế lực tư bản phương tây từ lâu đã chuẩn bị
dọn đường cho xâm lược thuộc địa dưới những hoạt động ráo riết của thương
nhân và các giáo sĩ truyền đạo, đã đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến cho cuộc
đổ bộ bằng vũ lực quân sự vào các nước Đông Dương.
Từ giữa thế kỷ XIX thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam. Mục
đích của chúng là nô dịch nhân dân Việt Nam, biến đất nước Việt Nam thành
thị trường độc chiếm, một căn cứ quân sự, một nơi bóc lột và đầu tư, một nơi
sinh lợi nhuận nhanh chóng và có bảo đảm cho thế lực tư bản tài chính đang
thống trị nước Pháp. Nhưng trước đó từ rất lâu, ngay những năm đầu thế kỷ

XIX, Pháp đã ra sức chuẩn bị cho công cuộc xâm lược chính thức Việt Nam.
Chúng đã sử dụng công cụ đắc lực là hội truyền giáo nước ngoài Pháp. Hội
này được thành lập ở Pari năm 1664. Thực dân Pháp cũng đã kết hợp hoạt
động của các giáo sĩ với nhà buôn : Giám mục Paluy (Palluy)- người bề trên
của Hội truyền giáo nước ngoài Pháp, là người cổ vũ ngành hàng hải Pháp đã
thúc đẩy việc thành lập công ty Đông Ấn của Pháp (1664). Giám mục Đây điê
( F. Deydier) được vua Lui (Louis XIV) ủy quyền giao thiệp với vua Lê chúa


8
Trịnh để thiết lập thương điếm Pháp trên lưu vực sông Hồng. Giám mục Bêrít
(Berythe) đến miền Bắc nước ta với danh nghĩa một nhân viên của công ty
Đông Ấn. Giám mục Benơta (Edmond Bennetat) xin chúa Nguyễn cho mở
thương điếm ở Đàng Trong.
Ngày 1/9/1858 liên quân Pháp- Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà
Nẵng, chính thức mở màn cho cuộc xâm lược Việt Nam.
Xuất phát từ chỗ triệt để bảo vệ quyền lợi và ngai vàng thống trị của
dòng họ, các vua triều Nguyễn tự hãm mình vào cái thế “lỗi thời, hèn yếu, bất
lực” trước sức tấn công của tư bản Pháp, từ chỗ “ thủ để hòa” (chọn để phòng
thủ, nhường để tấn công cho Pháp) chuyển sang đầu hàng từng bước cắt đất
dâng cho giặc.
Năm 1962, nhà Nguyễn ký hòa ước dâng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông
Nam Kỳ, sau đó là 3 tỉnh miền Tây (1867), năm 1873 Pháp tiến đánh Bắc Kỳ,
năm 1884 triều đình nhà Nguyễn ký điều ước Patơnốt đầu hàng hoàn toàn
thực dân Pháp.
Trước sự đầu hàng của triều đình Nguyễn, phe chủ chiến trong triều
đình, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi (vị vua thứ 4 nối
ngôi vua Tự Đức) rời khỏi hoàng thành Huế, dựng cờ Cần Vương, kêu gọi
nghĩa quân. Dưới ngọn cờ Cần Vương, một phong trào khởi nghĩa vũ trang
rộng lớn và quyết liệt chưa từng có đã nổ ra, kéo dài 15 năm, suốt từ Nam chí

Bắc, do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa
Hương Khê (1885- 1895) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương KhêHà Tĩnh ; khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1889) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng
Yên ; khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở
Nga Sơn - Thanh Hóa ; khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886-1892) của Tống Duy
Tân ở Bá Thước và Quảng Xương, Thanh Hóa.. Và phong trào nông dân Yên
Thế do Lương Văn Nắm và Hoàng Hoa Thám lãnh đạo ở vùng núi rừng Yên
Thế của Bắc Giang.


9
Mặc dù các phong trào kháng Pháp diễn ra vô cùng sôi nổi, mạnh mẽ
nhưng cuối cùng đều bị thất bại trước sự đàn áp dã man của kẻ thù. Nguyên
nhân chủ yếu là các cuộc khởi nghĩa chưa có một giai cấp thực sự tiên tiến
lãnh đạo, còn mang nặng ý thức hệ tư tưởng phong kiến trong điều kiện lịch
sử đã thay đổi.
Đến năm 1896, thực dân Pháp đã căn bản hoàn thành công cuộc xâm
lược và bình định nước ta bằng quân sự. Trong vòng gần 40 năm (18581896) thực dân Pháp đã dùng lực lượng võ trang phối hợp với thủ đoạn ngoại
giao chính trị xảo quyệt để đè bẹp nhà nước phong kiến triều Nguyễn và sau
đó làm thất bại các cuộc đấu tranh võ trang của nhân dân ta. Và với hiệp ước
Patơnốt 1884, thực dân Pháp đã hoàn toàn làm chủ đất nước Việt Nam về mọi
mặt. Việt Nam từ chỗ là một quốc gia phong kiến độc lập và thống nhất thì
vào những năm cuối thế kỷ đó đã bị mất tên trên bản đồ thế giới, trở thành
một thuộc địa của Pháp. Tính chất xã hội chuyển từ một quốc gia phong kiến
độc lập sang một nước nửa thực dân phong kiến.
Như vậy, sau khi đã hoàn thành xâm lược nước ta, bọn thực dân Pháp
đã tổ chức bộ máy cai trị nhằm thống trị, vơ vét của cải và bóc lột nhân dân
ta. Sự yên ổn về chính trị quân sự, biếnViệt Nam trở thành thuộc địa của Pháp
đã trở thành một tiền đề thuận lợi để Pháp thi hành các chính sách áp bức bóc
lột. Trong đó cũng có chính sách đồng hóa, xóa bỏ nền văn hóa của dân tộc ta.
1.4. SỰ THIẾT LẬP VÀ CỦNG CỐ BỘ MÁY CAI TRỊ THUỘC ĐỊA

CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM
Sau khi đặt chân sang Việt Nam được vài tuần, viên toàn quyền Đông
Dương Pôn Đume (Paul Doumer) đã gửi về Bộ Thuộc địa một bản báo cáo
tổng quát về tình hình Đông Dương:
“ Hiện nay tình hình chính trị toàn cõi Đông Dương không một nơi nào
đáng lo ngại hay quá bi đát. Thực tế, tại nhiều nơi cũng có những khó khăn


10
có thể sẽ trầm trọng thêm; nhân dân toàn xứ đều như đã khuất phục dưới
quyền thống trị của chúng ta, nhưng chưa phải đã thấm nhuần tính chất vĩnh
viễn của nền đô hộ Pháp và sẵn sàng nắm lấy một thời cơ thuận lợi hay một
giây phút yếu đuối của chúng ta để lật đổ ách nặng trên đầu” [11, tr. 98- 99]
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh
tế, Đume chú ý đến hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị
người Việt”.
Một mặt, Đume tìm mọi cách chia đất nước, chia rẽ dân tộc Việt Nam
hòng phân tán lực lượng để dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, ông ta lại quan tâm
đến sự thống nhất của bộ máy thuộc địa toàn Đông Dương. Đó là sự phức tạp
trong tính chất hai mặt của một chính sách thâm độc.
Vì vậy, theo sắc lệnh ngày 17/10/1887, thực dân Pháp thành lập Liên
Bang Đông Dương, năm đó mới bao gồm có Việt Nam và Campuchia, trực
thuộc Bộ Hải quân và thuộc địa. Ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc
lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên Bang Đông Dương. Việt Nam đã bị chia cắt
làm ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau.
Ở Nam Kỳ, Pháp áp đặt chế độ trực trị, không có quan hệ phụ thuộc với
Nam triều. Lúc đầu do bọn sĩ quan Pháp trực tiếp nắm quyền cai trị, sau bỏ
chế độ cai trị bằng sĩ quan và chuyển sang thiết lập bộ máy cai trị bằng dân sự
do một thống đốc người Pháp đứng đầu. Bên dưới là hội đồng quản hạt tỉnh,
gồm có các Tham biện người Pháp và một số quan lại, địa chủ tư sản người

bản xứ do một viên công xứ người bản xứ do một viên Công sứ người Pháp
đứng đầu. Cấp phủ huyện do quan lại người bản xứ nắm quyền cai trị, dưới hệ
thống làng xã là bọn địa chủ, cường hào, ác bá nắm quyền.
Đặc điểm của chế độ cai trị thực dân Pháp áp đặt ở Nam Kỳ là sử dụng
nguyên bộ máy cai trị thời phong kiến, chồng lên trên là hệ thống quan lại cao
cấp người Pháp. Bộ máy cai trị thể hiện sự câu kết chặt chẽ giữa thực dân và
phong kiến.


11
Trung Kỳ là xứ bảo hộ, vẫn duy trì “triều đình nhà Nguyễn”, nhưng
vua An Nam không có “thực quyền”. Giúp việc vua có Hội đồng phụ chính
cùng viện cơ mật trông coi về đường lối lãnh đạo quốc gia, Viện Đô sát kiểm
soát hoạt động quan lại. Còn có Hội đồng Phủ Tôn nhân để quản lý công việc
của dòng họ nhà vua. Quyền hành thực sự nằm trong tay Khâm sứ, chủ tịch
Hội đồng bảo hộ Trung Kỳ. Khâm sứ có một hội đồng giúp việc gồm một số
viên chức người Pháp, một đại diện của phòng Thương mại và canh nông, hai
đại diện của Viện cơ mật.
Trung Kỳ bao gồm 14 tỉnh. Đứng đầu tỉnh là viên công sứ người Pháp,
có cơ quan Tòa Công sứ giúp việc. Cũng có các bộ phận công tác khác như ở
Nam Kì. Nhưng ở đây vẫn tồn tại hệ thống tổ chức quan lại cũ của Nam
Triều, đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (tỉnh nhỏ), Án sát
coi việc tư pháp, Bố chính coi việc thuế khóa, Lãnh binh (tỉnh nhỏ) hoặc Đề
đốc (tỉnh lớn) coi việc binh.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu (miền núi), có các Tri phủ, Tri huyện, Tri
Châu thay mặt công sứ và tổng đốc (tuần phủ) cai trị từng phủ hoặc từng
huyện. Có một số nha thuộc giúp việc như đề lại, lục sự, thừa phái. Tổng là
đơn vị hành chính trung gian giữa phủ huyện với các làng, xã trực thuộc.
Ở Bắc Kỳ, áp đặt chế độ “ nửa bảo hộ, nửa trực trị”. Thực dân Pháp nới
cho triều đình ít quyền hành trên danh nghĩa, nhưng càng về sau càng thủ tiêu

dần quyền hạn của triều đình và biến dần thành một thuộc địa như Nam Kỳ.
Bắc Kì có cơ quan cai trị cao nhất là Phủ thống sứ do Thống Sứ người
Pháp đứng đầu, có Hội Đồng bảo hộ giúp việc. Hội đồng này có thể chuyển
thành Hội đồng xét xử chung cho cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Còn có thêm hai
phòng thương mại và canh nông ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng được
củ đại biểu vào Hội đồng Bảo hộ.


12
Hầu hết các viên quan nắm quyền cai trị từ cấp xã trở lên đều thuộc giai
cấp địa chủ phong kiến, câu kết với thực dân Pháp, làm tay sai cho chúng, tiếp
tục áp bức bóc lột nhân dân, nhất là ở các cấp làng xã, phủ huyện, đạo, châu.
Còn từ cấp tỉnh, xứ và Liên bang Đông Dương thì quyền lực tập trung vào tay
quan chức người Pháp. Vua tôi nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn được hưởng một số
phụ cấp lương bổng do thực dân Pháp chi trả. Số công chức người Pháp ở Việt
Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung ngày càng một tăng thêm và chiếm
tỉ lệ cao nhất so với thuộc địa các nước khác. Năm 1897 số viên chức ở Đông
Dương là 2860, năm 1902 là 3778, năm 1906 là 4390, năm 1911 là 5683 người.
Bên cạnh tổ chức chính quyền cấp cao nhất xuống tận cơ sở, ở mỗi xứ đều
có các Nha là chi nhánh của các công sở trung ương, có nhân viên hoạt động tới
tỉnh, huyện, xã. Các chi nhánh này tuy đặt bên cạnh chính quyền xứ, tỉnh, song
lại thuộc hệ thống dọc chịu sự điều khiển của các công sở trung ương.
Hệ thống tòa án ở các xứ và tỉnh đều trực thuộc Tổng biện lí bên cạnh
Toàn quyền. Cơ quan chính quyền xã chỉ làm việc hòa giải. Chỉ có tòa án
tỉnh, thành phố và các Tòa án tối cao mới có quyền sử án, xử theo luật của
Pháp từ thời Na-pô-lê-ông phối hợp với luật Gia Long.
Như vậy, thực dân Pháp đã chia Việt Nam thành ba kì với ba chế độ cai
trị khác nhau, chính sách “chia để trị” là chính sách thống trị của chủ nghĩa
thực dân, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ sự thống nhất nhằm
dễ bề cai trị và bóc lột. Dù là “ trực trị” hay “bảo hộ” thực dân Pháp đều sử

dụng bọn vua quan phong kiến, địa chủ, cường hào, ác bá làm tay sai, làm
công cụ thống trị, câu kết chặt chẽ giữa hai thế lực phản động trong chính
sách thống trị của chủ nghĩa thực dân.
Bên cạnh hệ thống chính quyền được thiết lập chặt chẽ, thực dân Pháp
tổ chức lực lượng vũ trang lớn mạnh. Ngoài lực lượng lính Âu- Phi là lực
lượng quân người bản sứ dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp.


13
Thực dân Pháp còn xây dựng hệ thống pháp luật hà khắc, gồm cảnh sát,
tòa án, nhà tù từ trung ương đến cấp huyện. Ngoài việc chia cắt nước ta thành
ba xứ với chế độ luật pháp riêng, chúng còn dùng thủ đoạn chia rẽ dân tộc,
chia rẽ lương giáo… nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và giữa các dân
tộc (Việt Nam, Lào, Campuchia) trong đấu tranh chống kẻ thù chung. Bộ máy
cai trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai chủ yếu dựa vào sức mạnh
quân sự, dùng vũ lực đàn áp cuộc đấu tranh đòi tự do, giành độc lập dân tộc
của nhân dân ta. Chính sách “hợp tác”, “ Pháp - Việt đề huề” mà chúng ra sức
tuyên truyền chỉ là những trò bịp chính trị.
Như vậy, với chính sách “chia để trị”, thi hành chế độ chính trị khác
nhau ở ba miền của thực dân Pháp đã từng bước thâm nhập, xác định sự thống
trị đến các cấp bậc địa phương. Điều này đã tạo thuận lợi cho chúng có thể dễ
dàng dụ dỗ, lôi kéo các tầng lớp trong nhân dân làm tay sai cho mình. Từ đó
có thể lợi dụng để truyền bá tư tưởng thân Pháp, tạo tiền đề thuận lợi cho
công cuộc chinh phục trong lĩnh vực văn hóa giáo dục.
1.3. CÁC CHÍNH SÁCH ÁP BỨC, BÓC LỘT VỀ KINH TẾ
Từ giữa thế kỉ XIX trở đi, chủ nghĩa tư bản phương Tây thực hiện cuộc
xâm lược thuộc địa đối với hầu hết các nước châu Á và châu Phi, với mục
đích biến thuộc địa thành thị trường độc chiếm, thành nơi cung cấp nguyên
vật liệu, nhân công, và tiêu thụ hàng hóa cho nền kinh tế chính quốc.
Mục đích chính chủ yếu của cuộc chiến tranh xâm lược là khai thác và

bóc lột kinh tế thuộc địa. Với các nguồn tài nguyên phong phú, cả trên rừng,
dưới biển, trong lòng đất, sức lao động lại đông và rẻ, Việt Nam có đầy đủ
điều kiện cho thực dân Pháp đẩy mạnh việc khai thác bóc lột kinh tế tại chỗ
để kiếm lợi nhuận.
“ Không một xứ sở nào trên thế giới này… lại có nhiều nguồn lợi như
cái xứ Bắc Kì… Biết bao nhiêu ngành kĩ nghệ cần phải thiết lập… Biết bao


14
chiến dịch xán lạn cần phải vạch ra… Xứ Bắc Kì giàu có… Từ nơi đây, chính
quốc tha hồ mà bòn rút đầy tay của cải để đưa về nước. Ngành xuất cảng của
nước Pháp cũng sẽ thấy nơi đây là một tiêu thụ hàng hóa rất có lợi cho
mình… Vậy thì hãy tiến lên! Tiến lên!” [11, tr.112]
Qua nhiều lần thăm dò, giới cầm quyền thực dân đã quyết định chính
sách khai thác thuộc địa Đông Dương với tinh thần cơ bản là: Thuộc địa Đông
Dương phải được đặc biệt dành riêng cho thị trường Pháp. Nền sản xuất ở
thuộc địa này chỉ được thu gọn trong việc cung cấp cho chính quốc nguyên
liệu hay những vật phẩm gì mà nước Pháp không có. Công nghiệp nếu cần
được khuyến khích thì cũng chỉ trong thời hạn bổ sung cho công nghiệp chính
quốc, không làm hại đến nền công nghiệp chính quốc.
Trong thời gian xâm lược và thống trị tại Việt Nam, thực dân Pháp đã
tiến hành hai cuộc khai thác đại quy mô mà chúng gọi là “Chương trình khai
thác Đông Dương” lần thứ nhất (từ năm 1987 đến trước năm 1914), và lần thứ
hai (từ năm 1919 đến năm 1929). Đây được coi là hai cuộc tấn công qui mô
vào mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội nhằm thực hiện chính sách khai thác
thuộc địa, vơ vét tài nguyên thiên nhiên, cung cấp lợi nhuận cho tư bản Pháp.
1.3.1. Tăng cường chính sách thuế khóa
Năm 1897 khi Pôn Đume sang làm toàn quyền Đông Dương, y đã tập
trung toàn bộ quyền lực trong tay bộ máy cai trị thực dân được cải tổ lại (gọi
là Phủ toàn quyền Đông Dương), và lập ra một chế độ thuế khóa để cung cấp

ngân sách cho hệ thống ngân sách toàn Đông Dương (gọi là Ngân sách Đông
Dương và ngân sách hàng xứ).
Nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách Liên Bang là thuế gián thu,
gồm ba nguồn: Thuế muối, thuế thân, thuế thuốc phiện. Ba thứ thuế này đem
lại 2/3 ngân sách Đông Dương, thể hiện sự bóc lột đi đôi với đầu độc, một thủ
đoạn thâm độc của chủ nghĩa thực dân.


15
Nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách Hàng xứ là thuế trực thu, bao
gồm: thuế đinh (đánh vào đầu người, mỗi đinh nam đến 18 tuổi đều phải đóng
thuế). Mỗi người nông dân (đinh nam) hàng năm phải nộp thuế lao dịch
khoảng 5,2 đồng bạc Đông Dương tương đương với giá của 2 tạ gạo loại I;
thuế điền (đánh vào thuế ruộng đất)
Ngoài ra còn có nhiều thứ thuế khác, gánh nặng sưu thuế đè nặng lên
vai người lao động, đếm không kể xiết. Tất cả các hạng thuế này thu vào quỹ
ngân sách nhằm nuôi một bộ máy quan lại rất đông đúc, kể cả người Pháp lẫn
người Việt, nhất là đội ngũ quan lại người Pháp lương rất cao, và góp phần
vào cuộc khai thác phục vụ chính sách bóc lột thuộc địa.
1.3.2. Tập trung đầu tư vốn khai thác công - thương nghiệp
Để phục vụ cho mục đích khai thác thuộc địa và phục vụ quân sự, tư
bản Pháp tăng cường đầu tư vốn (tổng số 1 tỷ Phơ răng, trong đó 50 % là của
chính phủ), để xây dựng các công trình giao thông vận tải: đường sắt, đường
bộ, đường thủy, cầu cống… Pháp đặt ra chế độ sưu dịch, huy động một lực
lượng lao động to lớn, hàng chục vạn dân bị thay nhau ném vào các công
trình làm đường sắt, đường đá, cầu cống, đào kênh, khai thác cảng biển.
Từ cuối thế kỉ XIX đến trước năm 1930, Pháp lần lượt làm song các
con đường sắt lớn: Hà Nội- Lạng Sơn; Hà Nội- Hải Phòng; Hà Nội- Vinh; Hà
Nội- Lào Cai; Đông Hà- Đà Nẵng; Sài Gòn- Nha Trang.
Các con đường đá (gọi là đường thuộc địa) từ bắc vào Nam, từ Việt

Nam sang Campuchia, Lào, một số cầu phà lớn được xây dựng và hoàn thành
trong thời kỳ này (như cầu Long Biên xây từ 1899 hoàn thành 1902 gọi là cầu
Pôn Đume).
Các cửa hàng cũng được tu bổ lại, để tàu bè ra vào được dễ dàng, như
Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng. Đường thủy cũng được chú ý khai thác:
thuyền máy và tàu thủy chạy trên đường sông ngòi và kênh rạch xuất hiện.


16
Pháp sử dụng vốn tư nhân của tư bản để đầu tư khai thác mỏ và một số
ngành công thương nghiệp khác. Từ 1884 một tiểu ban về khai thác mỏ đã
được thành lập, đến 1911 có 32 khu vực khai thác mở rộng tới 6 vạn hecta,
chủ yếu khai thác than, kim loại (thiếc, kẽm, đồng, chì, bạc, vàng…). Một số
nghành khai thác như điện, tơ lụa, sợi, xi măng, thuốc lá, đường, chè cũng
được khai thác, phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ở thuộc địa mà
chính quốc không vận chuyển sang được.
Về thương nghiệp: Những nhà tư bản kinh doanh thương mại tại đây
lúc đầu vấp phải sự cạnh tranh của thương nhân Hoa kiều và Ấn kiều. Nhưng
về sau, thông qua hai đạo luật hải quan vào các năm 1887 và 1892, hàng hóa
của Pháp đã dần dần chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Pháp đã độc quyền
thương mại. Hàng hóa của Việt Nam mà Pháp cần đều phải dành cho Pháp,
không được xuất ra các nước khác. Những hàng hóa mà Pháp thừa ế hoặc
kém chất lượng so với hàng các nước khác thì Việt Nam phải mua vào. Cùng
với việc phát triển công nghiệp bông, vải, sợi của Pháp ở Đông Dương, thực
dân Pháp đã bóp chết các ngành dệt thủ công cổ truyền của Việt Nam. Chúng
còn sử dụng Hoa Kiều để lũng loạn thị trường. Đến đầu thế kỷ XX, quan hệ
buôn bán của Việt Nam và Đông Dương với bên ngoài đã không ngừng mở
rộng, thể hiện qua bảng dưới đây:

Bảng 1: Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa đầu thế kỷ XX

Xuất khẩu

Nhậpkhẩu

Tổng số

( triệu Fr)

( triệu Fr)

( triệu Fr)

1899 -1913

237

206

443

1914 - 1918

307

219

526

Năm


[9, Tr. 56]


17
Theo tài liệu của Cục thông tin Pháp thì từ 1900 đến 1906 là thời kỳ
nhập siêu, nhằm đưa các trang thiết bị phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc
địa của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương. Còn từ 1906 trở đi cán cân thương
mại của Việt Nam luôn nghiêng về phía xuất khẩu ( xuất siêu). Cụ thể như
sau:
Bảng 2. Ngoại thương Đông Dương đến 1937
( Đơn vị: Triệu đồng Đông Dương)
Năm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Tổng số

1899 -1903

62

78

140

1909- 1913

105


92

197

1933 -1937

154

106

260
[9, tr. 114]

Trong sản lượng hàng xuất khẩu, Nam Kỳ đứng hàng đầu, chủ yếu là
các sản phẩm nông nghiệp. Hàng hóa xuất khẩu ở Bắc Kỳ phần nhiều là than
đá, các loại khoáng sản kim loại.
Như vậy, có thể thấy được rằng Pháp đã tìm mọi cách để độc chiếm thị
trường Việt Nam. Song cũng phải thừa nhận rằng, thông qua các hoạt động
buôn bán, canh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, tư bản Pháp đã
góp phần mở mang nền thương mại cho Việt Nam, tạo nên một phương pháp
kinh doanh mới hiện đại với các hình thức mở công ty, giao thiệp với ngân
hàng, hình thành các dạng công ty cổ phần, công ty hợp tư, công ty vô danh...
Về nông nghiệp : Pháp tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân
để lập đồn điền (trồng lúa, cao su, cà phê) bóc lột theo lối phát canh thu tô
kiểu phong kiến cũ, đem lại lợi nhuận rất cao cho tư bản Pháp (lãi kiếm được
bằng 125% số vốn bỏ ra). Tính đến năm 1930 điền chủ người Pháp đã chiếm


18

80 vạn hecta, bằng 1/6 diện tích đất trồng trọt của nông dân Việt Nam. Tình
trạng này đã làm cho một bộ phận lớn nông dân mất ruộng, lưu tán, phải bỏ
làng mạc đi vào làm thuê trong các đồn điền.
Ngoài hai cuộc khai thác đại quy mô về kinh tế như trên, trong thời
gian chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã thi hành ở Đông Dương
chính sách tổng động viên nhằm vơ vét nhân tài vật lực phục vụ cho cuộc
chiến tranh đế quốc mà Pháp là một bên tham chiến.
Cuộc chiến tranh đế quốc nhằm giải quyết việc phân chia lại thị trường
thế giới giữa hai khối đế quốc Anh - Pháp - Nga và Đức - Áo - Ý. Cuộc chiến
tranh này đã lôi cuốn hầu hết các nước Châu Âu, Á, Mỹ vào vòng chiến. Các
nước thuộc địa đã trở thành hậu phương, cung cấp sức người, sức của cho các
nước đế quốc chính quốc đang tham chiến. Xứ Đông Dương cũng bị rơi vào
vòng khói lửa đó. Trong “ Bản án chế độ thực dân Pháp” Nguyễn Ái Quốc đã
tố cáo chính sách tổng động viên phục vụ chiến tranh đó là một thứ “ thuế
máu đối với người bản xứ”.
Tất cả những chính sách áp bức bóc lột về kinh tế nông nghiệp, công
thương nghiệp, thuế khóa qua hai cuộc khai thác đại qui mô trên đã tạo nên
một sự chuyển hóa sâu sắc trong nền tảng kinh tế phong kiến và trong xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ. Tác giả Trần Văn Giàu mô tả: “Có thể tưởng tượng
được sự rộn rịp của con buôn, thầu khoán, đầu cơ, cai xếp làm cho xã hội
Việt Nam trước kia tĩnh lại bao nhiêu thì bây giờ lại xáo trộn lên bấy nhiêu,
bị lay động đến tận nền tảng của nó. Thực vậy, xã hội Việt Nam vốn là một xã
hội phong kiến phương Đông đóng cửa, lạc hậu, nhưng lại là một nước độc
lập thống nhất, từ nay trở thành một nước bị đô hộ, chia cắt, một xã hội thuộc
địa và nửa phong kiến, nhưng không phải thực sự tiến bộ và khai phóng,
ngược lại lại đi sâu vào ngõ phụ thuộc của đế quốc Pháp”. [5, tr. 51]


19
1.4. SỰ PHÂN HÓA XÃ HỘI VÀ Ý THỨC GIAI CẤP XÃ HỘI

Qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp trước và sau khi
Chiến tranh thế giới thứ nhất, một quan hệ sản xuất mới hình thành ở Việt
Nam đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng là chủ nghĩa tư bản dưới
hình thức thuộc địa. Trong khi đó vẫn tồn tại quan hệ sản xuất phong kiến, gia
trưởng, nhất là ở nông thôn. Trên cơ sở kinh tế đó, một sự phân hóa giai cấp
mới diễn ra, tạo ra những giai tầng mới trong xã hội.
Xã hội phong kiến Việt Nam trước khi Pháp xâm lược chỉ có hai giai
cấp cơ bản: Giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân phụ thuộc.
Bước sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp địa chủ phong kiến từ
lâu đã là giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến, nay trở thành chỗ dựa cho
chính sách xâm lược của đế quốc Pháp. Nhưng cũng có một số ít trong hàng
ngũ giai cấp phong kiến gồm các gia đình từng lãnh đạo hay tham gia kháng
chiến vẫn giữ được lòng yêu nước, tâm hồn dân tộc, tách mình ra khỏi giai
cấp phong kiến, đứng về phía nhân dân, dân tộc chống Pháp.
Giai cấp nông dân vốn là giai cấp đông đảo nhất chiếm tuyệt đại đa số
nhân dân trong nước là giai cấp bị áp bức bóc lột nặng nề dưới ách thống trị
của thực dân phong kiến và là động lực đông đảo của cách mạng. Giai cấp
này chịu hai tầng áp bức thực dân và phong kiến. Quan hệ sản xuất tư bản
phát triển, lúa gạo trở thành món hàng xuất cảng, ruộng đất tập trung trong tay
các đồn điền nên sự phân hóa giai cấp trong nông thôn ngày càng sâu sắc.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt nên nó có
những đặc điểm riêng. Giai cấp tư sản Việt Nam không sinh ra và trưởng
thành trong cuộc chiến đấu chống phong kiến như ở các nước tư bản khác mà
lại do nền kinh tế thuộc địa đẻ ra. Nó ra đời trong lúc công nhân Việt Nam đã
lớn mạnh và giữ vai trò lãnh đạo cách mạng.


20
Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành và lớn mạnh cùng với quá
trình khai thác thuộc địa, hình thành trên quá trình bần cùng hóa và phá sản

của nông dân (do mất ruộng đất nên một số bộ phận đi làm thuê trong các đồn
điền, hầm mỏ, hầm lò, làm thuê trong các đồn điền, hầm mỏ, làm phu phen
trong các công trình xây dựng giao thông đường sắt, đường bộ. Một bộ phận
khác đi ra thành thị kiếm sống làm nghề tạp, hình thành tầng lớp dân nghèo
thành thị…)
Giai cấp tiểu tư sản hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của
các thành thị và tăng cường bộ máy quan liêu của thực dân, là giai cấp trung
gian trong xã hội.
Trên cơ sở sự phân hóa giai cấp mới, dẫn đến sự xuất hiện của ý thức
hệ tư tưởng mới.
- Hệ ý thức phong kiến: Tuy đến đầu thế kỷ XX đã tỏ lạc hậu, lỗi thời
so với ý thức hệ tư sản, nhưng trên thực tế nó vẫn đầy đủ cơ sở tồn tại. Đặc
biệt là ở nông thôn gốc rễ của nó rất sâu.
- Ý thức tư sản: Bắt đầu du nhập vào Việt Nam qua các sĩ phu yêu nước
tiến bộ đầu thế kỷ XX khi giai cấp tư sản chưa được hình thành. Đến khi giai
cấp tư sản hình thành, ý thức tư sản chỉ giới hạn trong phạm vi các nước thành
thị , gia đình và tỏ ra yếu ớt. Trước năm 1930 nó còn phải chịu sự khuất phục
ý thức hệ phong kiến. Sau những năm 1930 nó có mạn mẽ lên nhưng xung đột
với ý thức hệ phong kiến cũng chỉ xảy ra trong phạm vi tình cảm cá nhân, gia
đình là chủ yếu. Vị trí lịch sử không cho phép nó xung đột với ý thức phong
kiến trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị như ở các nước tư bản chủ nghĩa thời
kỳ cách mạng tư sản..
- Ý thức vô sản: Từ những năm 20 trở đi, giai cấp công nhân ra đời,
được trang bị vũ khí lí luận cách mạng, và do đó ý thức vô sản, tiếng nói của
giai cấp công nhân dần dần là tiếng nói tiêu biểu nhất của dân tộc, tuy rằng về


×