1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------------
LÊ THỊ THANH KHUYÊN
TÍCH HỢP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG
DẠY HỌC SINH HỌC BẬC THPT
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Vinh, năm 2012
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THỊ THANH KHUYÊN
TÍCH HỢP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG
DẠYHỌC SINH HỌC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Sinh học
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS HOÀNG VĨNH PHÚ
Vinh, năm 2012
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ của các thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè, và người thân.
Đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo – TS Hoàng Vĩnh Phú - người
đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm đề tài.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy, các cô đã truyền đạt cho tôi những kiến thức
quý báu trong quá trình đào tạo. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ
công nhân viên và các em học sinh trường THPT Đinh Bạt Tụy, trường THPT Lê
Hồng Phong, trường THPT Thái Lão đã giúp tôi trong quá trình điều tra thu thập số
liệu thực tiễn.
Cảm ơn các bạn trong lớp đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập cũng như
chia sẻ tài liệu, đóng góp ý kiến giúp tôi làm tốt đề tài của mình.
Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi sai sót, rất mong sự đóng góp
ý kiến của thầy cô và các bạn để công trình nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.
Vinh, ngày 08 tháng 10 năm 2012
Học viên thực hiện
Lê Thị Thanh Khuyên
4
MỤC LỤC...........................................................................................................
...1
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN....................................................
...3
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH................................................................
...4
MỞ ĐẦU.............................................................................................................
...6
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................
...6
2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................
...7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................
...7
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.................................................................
...7
5. Giả thiết khoa học............................................................................................
...7
6. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................
...8
7. Những đóng góp mới của đề tài......................................................................
.11
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................................................................
.12
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng tích hợp giáo dục giới
tính trong dạy học sinh học ở trường THPT........................................................
.12
1.1. Cơ sở lý luận.................................................................................................
.12
5
1.1.1. Lý thuyết về vận dụng tích hợp giáo dục giới tính trong giáo dục............
.12
1.1.2. Vận dụng tích hợp giáo dục giới tính trong giảng dạy sinh học................
.20
1.2. Cơ sở thực tiễn..............................................................................................
.24
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về vận dụng tích hợp giáo dục giới tính trong
giáo dục...............................................................................................................
.24
1.2.1.1. Trên thế giới...........................................................................................
.24
1.2.1.2. Ở Việt Nam.............................................................................................
.31
1.2.2. Thực trạng hiểu biết của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản vị thành
niên và tình dục an toàn.......................................................................................
.36
1.2.3. Thực trạng vận dụng tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học
ở trường phổ thông..............................................................................................
.38
Chương 2. Vận dụng tích hợp giáo dục giới tính vào trong dạy học sinh học ở
trường THPT.......................................................................................................
.40
2.1. Các nội dung kiến thức SH THPT có thể vận dụng tích hợp giáo dục giới
tính.......................................................................................................................
.40
2.2. Hướng dẫn soạn giáo án có vận dụng tích hợp giáo dục giới tính...............
.43
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm...................................................................88
3.1. Mục đích thực nghiệm......................................................................................88
3.2. Nhiệm vụ thực nghiệm...................................................................................88
6
3.3. Nội dung thực nghiệm.......................................................................................88
3.4. Phương pháp thực nghiệm................................................................................88
3.4.1. Chọn đối tượng thực nghiệm..........................................................................88
3.4.2. Bố trí thực nghiệm.........................................................................................89
3.4.3. Tiến hành kiểm tra..........................................................................................89
3.5. Xử lí số liệu......................................................................................................89
3.6. Kết quả thực nghiệm..........................................................................................90
3.6.1. Phân tích định lượng......................................................................................90
3.6.2. Phân tích định tính..........................................................................................98
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..................................................................................99
1. Kết luận................................................................................................................99
2. Kiến nghị...............................................................................................................99
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................101
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Nội dung
Từ viết tắt
Đối chứng
ĐC
7
Giáo viên
GV
Học sinh
HS
Nhiễm sắc thể
NST
Phiếu học tập
PHT
Sách giáo khoa
SGK
Thực nghiệm
TN
Trung học phổ thông
THPT
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH
Bảng 3.1: Kết quả một lần kiểm tra thực nghiệm ở HS lớp 10
Bảng 3.2: Tần suất fi ( %) số học sinh lớp 10 đạt điểm Xi
Bảng 3.3 : Tần số hội tụ tiến ( f↑ ) số HS lớp 10 đạt điểm Xi trở lên
8
Bảng 3.4: Bảng so sánh các tham số đặc trưng giữa lớp TN và lớp ĐC
Bảng 3.5: Kết quả hai lần kiểm tra thực nghiệm ở HS lớp 11
Bảng 3.6: Kết quả bài kiểm tra lần 1 của HS lớp 11
Bảng 3.7: Tần suất (%) số HS lớp 11 đạt điểm Xi trong bài kiểm tra 1
Bảng 3.8: Tần số hội tụ tiến ( f↑ ) số HS lớp 11 đạt điểm X i trở lên trong bài kiểm
tra 1
Bảng 3.9: Bảng so sánh các tham số đặc trưng giữa lớp TN và lớp ĐC (lớp 11) trong
bài kiểm tra 1
Bảng 3.10: Kết quả bài kiểm tra lần 2 của HS lớp 11
Bảng 3.11: Tần suất (%) số HS lớp 11 đạt điểm Xi trong bài kiểm tra 2
Bảng 3.12: Tần số hội tụ tiến ( f↑ )số HS lớp 11 đạt điểm X i trở lên trong bài kiểm
tra 2
Bảng 3.13: Bảng so sánh các tham số đặc trưng giữa lớp TN và lớp ĐC (lớp 11) trong
bài kiểm tra 2
Bảng 3.14: Bảng so sánh các tham số đặc trưng qua 3 bài kiểm tra
Bảng 3.15: Tỉ lệ xếp loại HS qua 3 lần kiểm tra
Hình 2.1: Quá trình hình thành trứng, tinh trùng
Hình 2.2: Sự phát triển của nang trứng
Hình 2.3: Hình ảnh nang trứng cấp 1
Hình 2.4: Cấu trúc của virut HIV
Hình 2.5: Virut HIV tấn công và phá huỷ tế bào limphô T
Hình 2.6: Virut Herpes
Hình 2.7: Virut viêm gan siêu vi B
Hình 2.8: Cấu tạo tinh hoàn
Hình 2.9: Vị trí của các tế bào kẽ
Hình 2.10: Cấu tạo buồng trứng
Hình 2.11: Sự thụ tinh
Hình 2.12: Sơ đồ cơ chế điều hoà sinh tinh
Hình 2.13: Sơ đồ cơ chế điều hoà sinh trứng
Hình 2.14: Sự thay đổi nồng độ các hoocmon trong chu kì rụng trứng
Hình 2.15: Thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm
Hình 2.16: Bơm tinh trùng vào trứng
9
Hình 2.17: Tính ngày trứng rụng
Hình 2.18: Bao cao su nam
Hình 2.19: Bao cao su nữ
Hình 2.20: Thuốc tránh thai
Hình 2.21: Que cấy tránh thai
Hình 2.22: Đặt vòng
Hình 2.23: Đình sản nữ, đình sản nam
Hình 2.24: Sơ đồ NST ở người (ở nữ)
Hình 2.25: Bệnh khô da sắc tố
Hình 2.26: Bệnh tai rậm lông
Hình 2.27: Bệnh màng giữa ngón tay
Hình 2.28: Một đám cưới giữa 2 anh em con Già con Dì
Hình 2.29: Kết hôn cận huyết ảnh hưởng đến đời sống và chất lượng dân số
Hình 2.30: Hội chứng tơcnơ
Hình 2.31: Chọc dò dịch ối
Hình 2.32: Sinh thiết tua nhau thai
Hình 2.33: Siêu âm
Hình 3.1: Biểu đồ biểu diễn tần suất ( fi ) bài kiểm tra của HS lớp 10
Hình 3.2: Đường biểu diễn tần suất hội tụ tiến ( f↑ ) bài kiểm tra của HS lớp 10
Hình 3.3: Đường biểu diễn tần suất hội tụ tiến ( f↑ ) bài kiểm tra lần 1
Hình 3.4: Đường biểu diễn tần suất hội tụ tiến ( f↑ ) bài kiểm tra lần 2
Hình 3.5: Biểu đồ phân loại HS qua các bài kiểm tra
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
10
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển và hội nhập. Sự phát triển của
thông tin đại chúng, nhu cầu giao lưu, học hỏi của giới trẻ đặt ra thử thách mới cho
giáo dục là phải đổi mới về nội dung và hình thức. Nội dung giáo dục kỹ năng sống
đã được nhiều quốc gia trên thế giới đưa vào dạy học cho học sinh ở trường phổ
thông dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở Việt Nam, giáo dục kỹ năng sống đang
được tiếp cận thông qua các khoá tập huấn cho giáo viên các trường phổ thông. Một
trong những nội dung quan trọng của giáo dục kỹ năng sống đó là giáo dục giới
tính, giáo dục sức khoẻ vị thành niên, tình dục an toàn, đựoc gọi tắt là giáo dục giới
tính.
Quỹ dân số Liên hiệp quốc đánh giá thanh thiếu niên Việt Nam đang thiếu sự
giáo dục cơ bản về sức khoẻ sinh sản nhưng lại đang được tăng cường những trải
nghiệm thực tế tình dục. Theo số liệu công bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 27
tháng 11 năm 2008, ở Việt Nam có khoảng 23,8 triệu người ở độ tuổi vị thành niên
và thành niên. Trong đó có 7,6% số người có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Việt
Nam vẫn đang là nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Tính trung bình mỗi
năm có khoảng 300 nghìn ca nạo phá thai ở độ tuổi 15 đến 19.
Hiện nay vấn đề giới tính và tình dục đã được nhìn nhận cởi mở và thẳng
thắn hơn, nhưng tâm lí e ngại vẫn còn. Giới trẻ được tiếp cận thông tin chưa đầy đủ
và không kiểm duyệt thông qua internet. Theo thống kê của Google, Việt Nam là
một trong những nước có câu lệnh tìm kiếm chứa từ khoá “sex” nhiều nhất thế giới.
Sự hiểu biết và sàng lọc thông tin ở giới trẻ đang còn hạn chế. Bởi vậy, giáo dục
giới tính vẫn đang là vấn đề cần thiết và cấp bách.
Chương trình phổ thông chưa có bô môn riêng về giáo dục giới tính. Việc
giáo dục giới tính thường được một số giáo viên lồng ghép vào các môn học như
giáo dục công dân, sinh học… Việc lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính vào các
môn học cũng mang tính tự phát do chưa có tài liệu hướng dẫn chuẩn của các cấp
quản lí. Sự cân đối giữa thời gian giảng dạy và nội dung kiến thức môn học cũng
gây khó khăn không nhỏ trong qua trình giảng dạy. Vì thế giải pháp vận dụng tích
hợp giáo dục giới tính trong giảng dạy đang được xem là biện pháp khả thi nhất.
Môn sinh học là môn học phù hợp nhất cho việc tích hợp giáo dục giới tính
cho học sinh trong trường phổ thông. Để góp phần giáo dục kiến thức giới tính cho
học sinh phổ thông một cách tự nhiên thông qua các bài học trên lớp, chúng tôi
chọn đề tài “Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học ở bậc THPT”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Góp phần nâng cao nhận thức của HS về giáo dục giới tính, giúp học sinh tự
điều chỉnh hành vi để sống, học tập và rèn luyện tốt hơn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
11
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng tích hợp giáo dục
giới tính trong dạy học Sinh học ở trường THPT
- Điều tra hiểu biết của học sinh về sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục
an toàn của học sinh THPT trên địa bàn thực nghiệm
- Điều tra thực trạng về vận dụng tích hợp kiến thức giáo dục giới tính trong
dạy học sinh học của giáo viên các trường THPT
- Phân tích nội dung chương trình sinh học THPT để xác định địa chỉ vận
dụng tích hợp kiến thức giáo dục giới tính
- Thiết kế một số giáo án mẫu có vận dụng tích hợp giáo dục giới tính.
- Thực nghiệm giảng dạy các giáo án mẫu để kiểm nghiệm hiệu quả của việc
tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Chương trình sinh học THPT
- Khách thể nghiên cứu: Giáo viên dạy sinh học và học sinh một số trường
THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng tích hợp giáo dục giới tính một cách hợp lí thì sẽ giúp nâng
cao nhận thức của học sinh về sức khoẻ sinh sản vị thành niên và tình dục an toàn
mà không ảnh hưởng đến nội dung, thời gian của môn học.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu tổng quan các tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng và nhà
nước trong công tác giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học.
Nghiên cứu các tài liệu : Lý luận dạy học sinh học, tài liệu bồi dưỡng chuyên
môn và các tài liệu có liên quan đến đề tài làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Nghiên cứu tài liệu lý luận về dạy học tích hợp và việc vận dung tích hợp
GDMT trong dạy học sinh học THPT.
6.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi với những nhà sư phạm, các chuyên gia về lĩnh vực mình
đang nghiên cứu, lắng nghe sự tư vấn của các chuyên gia để định hướng cho việc
triển khai đề tài.
6.3. Phương pháp điều tra cơ bản
Điều tra về thực trạng, phân tích nguyên nhân hạn chế của việc tích hợp
GDGT trong dạy học sinh học THPT và thực trạng hiểu biết của học sinh THPT về
kiến thức GDGT.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
6.4.1.Thực nghiệm thăm dò
12
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm thăm dò để giáo viên và học sinh làm quen
với điều kiện day học thực nghiệm. Đồng thời, qua thực nghiệm thăm dò, chúng tôi
sẽ rút kinh nghiệm, chỉnh sửa giáo án cho thực nghiệm chính thức.
6.4.2. Thực nghiệm chính thức
- Nhằm thu thập số liệu và xử lý bằng toán học thống kê, xác định chỉ tiêu đo
lường và đánh giá chất lượng bộ phiếu.
- Tiến hành thực nghiệm bằng phương pháp thực nghiệm ở 3 trường THPT,
mỗi trường chọn 1 lớp thực nghiệm, 1 lớp đối chứng có số lượng, chất lượng tương
đương nhau.
- Các lớp thực nghiệm và đối chứng ở mỗi trường do một GV giảng dạy, đồng
đều về thời gian, nội dung kiến thức, điều kiện dạy học và hệ thống câu hỏi đánh
giá sau mỗi tiết học.
- Trong quá trình thực nghiệm, thảo luận với giáo viên bộ môn ở các trường để
thống nhất nội dung và phương pháp giảng dạy.
+ Ở lớp thực nghiệm, giáo án được thiết kế theo hướng tích hợp GDGT trong
quá trình giảng dạy.
+ Ở lớp đối chứng, giáo án được thiết kế theo phương pháp dạy học truyền
thống.
- Cách thực nghiệm: Chọn từng cặp lớp tương đương (một lớp thực nghiệm và
một lớp đối chứng) về mọi phương diện: số lượng nam, nữ, lực học, hạnh kiểm,
phong trào học, số học sinh cá biệt … chỉ có yếu tố thực nghiệm là thay đổi một lớp
dùng phiếu học tập một lớp không. Để nâng cao độ chính xác, giảm bớt yếu tố ngẫu
nhiên thì công thức thực nghiệm được lặp lại ở một số trường tiêu biểu.
6.5. Phương pháp thống kê toán học
+ Tính các tham số đặc trưng:
- Điểm trung bình X: Là tham số xác định giá trị trung bình của dãy số thống
kê, được tính theo công thức sau:
1 10
x = ∑ ni xi
n i =1
- Sai số trung bình cộng: m =
s
n
- Phương sai:
s
2
=
1 10
∑ ( xi
n 1
2
− x) .n
i
- Độ lệch tiêu chuẩn: Biểu thị mức độ phân tán của các số liệu quanh giá trị
trung bình cộng.
13
s=
s2
- Hệ số biến thiên: để so sánh hai tập hợp có x khác nhau
Cv % =
s
.100
x
Trong đó:
Cv = 0% - 10%:
Độ giao động nhỏ, độ tin cậy cao
Cv = 10% - 30%: Dao động trung bình
Cv = 30% - 100%: Dao động lớn, độ tin cậy nhỏ
- Hiệu trung bình cộng (DTN-ĐC) so sánh điểm trung bình cộng ( X ) của nhóm
lớp TN và đối chứng trong các lần kiểm tra.
DTN-ĐC= X
Trong đó:
TN
-X
X
X
ĐC
TN
ĐC
= X của lớp TN
= X của lớp ĐC
- Độ tin cậy (Tđ): Kiểm định độ tin cậy về sự chênh lệch của 2 giá trị trung
bình cộng của TN và ĐC bằng đại lượng kiểm định td theo công thức:
t
d
=
x
s
n
TN
2
TN
TN
− x DC
2
+s
n
DC
DC
2
Trong đó:
S TN: Phương sai của lớp TN
2
S ĐC: Phương sai của lớp đối chứng
nTN: Số bài KT của lớp TN
nĐC: Số bài KT của lớp ĐC
Giá trị tới hạn của td là tα tra trong bảng phân phối student với α = 0.05 và
bậc tự do f = n1 + n2 - 2. Nếu |td| ≥ tα thì sự sai khác của các giá trị trung bình TN và
ĐC là có ý nghĩa.
Các số liệu xác định chất lượng của lớp ĐC và TN được chi tiết hoá trong đáp
án bài kiểm tra và được chấm theo thang điểm 10.
Kết quả xử lý các số liệu sẽ cho phép chúng tôi đi đến nhận xét:
- Mức độ đáng tin giữa đối chứng và thực nghiệm
- Khả năng vận dụng tích hợp trong phương án thực nghiệm thể hiện trên các
giá trị qua mỗi đợt kiểm tra, qua hệ số t d, qua tỉ lệ học sinh kém, trung bình, khá,
giỏi.
7. Những đóng góp của đề tài
14
- Bổ sung lý luận tích hợp kiến thức giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe
sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn trong dạy học môn sinh học ở trường THPT
- Xây dựng tư liệu, bộ giáo án sử dụng tích hợp kiến thức giáo dục giới tính,
giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn trong dạy học môn sinh
học ở trường THPT
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
TÍCH HỢP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG DẠY HỌC SINH HỌC
Ở TRƯỜNG THPT
15
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Lý thuyết về vận dụng tích hợp giáo dục giới tính trong giáo dục
a. Tâm sinh lí học sinh THPT.
Trong tâm lý học lứa tuổi người ta định nghĩa tuổi thanh niên là giai đoạn
phát triển từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Theo định nghĩa
này thì tuổi thanh niên là thời kì từ 14, 15 đến 25 tuổi. Còn từ 14, 15 tuổi đến 17, 18
tuổi là giai đoạn đầu thanh niên (lứa tuổi học sinh THPT).
* Sự phát triển thể chất:
Tuổi đầu thanh niên là tuổi đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự khác
biệt về cơ thể giữa thanh niên mới lớn với người lớn không đáng kể. Nhưng sự phát
triển thể lực của các em còn kém so với người lớn. Từ 14, 15 - 17, 18 tuổi là giai
đoạn phát triển thể chất của con người vào giai đoạn hoàn chỉnh được thể hiện ở
chỗ sự gia tăng chiều cao giảm dần, con gái khoảng 16, 17 tuổi, con trai khoảng 17,
18 tuổi (+ 13 tháng). Điều này giúp hình thành một cơ thể cân đối, đẹp khỏe của
người thanh niên.
Trọng lượng cơ thể phát triển nhanh, mạnh, cân nặng của thanh niên đạt gấp
đôi tuổi 11, 12 tuổi. Các tố chất về thể chất sự dẻo dai được tăng cường. Sự phát
triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não
phức tạp và các chức năng của não phát triển. Số lượng dây thần kinh liên hợp, liên
kết các phần khác nhau của vỏ não tăng lên. Hệ tuần hoàn đi vào hoạt động bình
thường. Sự mất cân đối giữa tim và mạch đã chấm dứt. Đây cũng chính là thời kỳ
trưởng thành về giới tính, là giai đoạn của nam thanh nữ tú. Chấm dứt giai đoạn
khủng hoảng của thời kỳ phát dục để chuyển sang thời kỳ ổn định hơn, cân bằng
hơn xét về tất cả các mặt hoạt động hưng phấn, ức chế của hệ thần kinh cũng như
các mặt phát triển khác về thể chất. Tóm lại, đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát
triển cân đối, hài hòa và đẹp nhất.
* Sự phát triển về đời sống xúc cảm, tình cảm của học sinh đầu tuổi thanh
niên:
Đời sống tình cảm, xúc cảm của thanh niên rất phong phú và đa dạng. Điều
đó được quy định bởi các mối quan hệ giao tiếp của thanh niên về phạm vi đặc biệt
phát triển về mặt chất lượng. Trong đó nổi bật nhất là mức độ càng ngày càng bình
đẳng, độc lập trong sự giao tiếp với người lớn và bạn bè cùng tuổi. Đó là một trong
những yếu tố quan trọng tạo nên bộ mặt nhân cách của thanh niên. Tình bạn tuổi
THPT có cơ sở, bền vững hơn tuổi thiếu niên. Ở đây nổi bật là tình bạn trong bạn bè
cùng độ tuổi, cùng giới phát triển mạnh. Nhu cầu chọn được bạn thân là nhu cầu tất
yếu của thanh niên. Việc chọn bạn không còn cảm tính mà được xem xét ở mức độ
hứng thú, cảm thông...Tình bạn có thể kéo dài trong cuộc sống của thanh thiếu niên.
16
Ngoài ra, họ thường cho rằng người lớn không hiểu họ nên có xu hướng xa lánh,
lạnh nhạt để tìm sự đồng cảm của bạn bè. Việc duy trì được bầu không khí tình
cảm, ấm áp và hiểu biết lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái phụ thuộc rất lớn đối với
những con người trẻ tuổi, vào thái độ ân cần và ứng xử tế nhị của người lớn.
Học sinh đầu tuổi thanh niên cũng bắt đầu bộc lộ những tình cảm đạo đức
như khâm phục kính trọng những con người dũng cảm, kiên cường coi trọng những
giá trị đạo đức cũng như lương tâm.
Một loại tình cảm rất đặc trưng ở lứa tuổi này là tình yêu trai gái. Dễ quan
sát thấy những biểu hiện ở sự phải lòng, thậm chí có sự xuất hiện của những mối
tình đầu đầy lãng mạn. Những biểu hiện của loại tình cảm này rất phức tạp, không
đồng đều. Theo những nghiên cứu về giới tính người ta thấy rằng những em gái bộc
lộ sớm hơn các em trai, ít lúng túng hơn và cũng ít xung đột hơn. Sự không đều còn
thể hiện ở chỗ trong khi một số em bộc lộ mạnh mẽ với người khác giới thì nhiều
em khác vẫn tỏ ra thờ ơ, không quan tâm. Điều này phụ thuộc vào yếu tố phát dục
trưởng thành mà phụ thuộc vào kế hoạch đời người của cá nhân người trẻ tuổi, phụ
thuộc vào điều kiện giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội.
Một điều rất rõ mà khoa học là thực tiễn cuộc sống đã khẳng định là ở độ
tuổi này sự chín muồi về sinh lý, tình dục đã đi trước một bước, còn sự trưởng
thành về tâm lý xã hội, kinh nghiệm sống chậm hơn nhiều. Bởi vậy những điều kiện
cần và đủ cho cuộc sống tình yêu trai gái ở độ tuổi này chưa được hội tụ. [7]
b. Vấn đề giáo dục giới tính trong trường học
Nhân cách của mỗi con người được hình thành và ngày càng hoàn thiện
thông qua quá trình giáo dục. Giáo dục là nền tảng góp phần truyền thụ, phổ biến tri
thức, phổ biến văn hoá của xã hội loài người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự giáo
dục của mỗi cá nhân bắt đầu từ khi mới sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời. Quá
trình giáo dục được thực hiện trong ba môi trường: Trong gia đình, trong nhà
trường và trong xã hội.
Giáo dục trong nhà trường được xem là môi trường quan trọng nhất trong
việc hình thành nhân cách. Người thầy vừa đóng vai trò là người truyền thụ tri thức
cho học sinh, vừa hướng tâm hồn các em tới cái đẹp, cái thiện của cuộc sống. Nội
dung giáo dục được biên soạn trong các cuốn sách được phân loại theo các môn
học, phù hợp với lứa tuổi, và nội dung giáo dục luôn được bổ sung, chỉnh sửa để
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Xã hội đang đối diện với nhiều vấn nạn liên quan đến giáo dục giới tính, sức
khỏe sinh sản như: Vấn nạn phá thai, sống thử, căn bệnh thế kỉ HIV/ AIDS, các loại
bệnh lây lan qua đường tình dục... Một trong những nguyên nhân chính là do sự sự
thiếu hiểu biết về vấn đề giáo dục giới tính. Hiện nay, có nhiều luồng thông tin về
17
giáo dục giới tính như: Sách, báo, internet, truyền thanh, truyền hình…Tuy nhiên,
độ tuổi vị thành niên chưa đủ tri thức, kinh nghiệm, bản lĩnh để đón nhận các thông
tin chính xác. Sự hiểu biết và định hướng không rõ ràng, đúng đắn sẽ rất dễ có
những hiểu biết, suy nghĩ lệch lạc, gây ra hậu quả khôn lường. Hầu hết các bậc cha
mẹ đều nghĩ rằng giáo dục giới tính là giáo dục những gì liên quan đến quan hệ tình
dục, chính vì vậy mà họ có những suy nghĩ cực đoan và không muốn con mình biết
điều này hoặc ngại ngùng khi nhắc đến chúng. Bởi vậy, vai trò của giáo dục rất
quan trọng. Giáo dục giới tính trong nhà trường trở nên cấp thiết.
Ở trường, sự tương tác qua lại giữa giáo viên và học sinh theo một hình thức
khác và thường các kiến thức về giới tính được cung cấp thông qua hệ thống các bài
học. Giáo dục giới tính trong trường học là một hình thức quan trọng và hiệu quả
nhằm nâng cao kiến thức, thái độ và hành vi cho học sinh.
Tính hiệu quả của các chương trình giáo dục giới tính ở trường học bao gồm
các nội dung như: Tập trung vào việc giảm thiểu các hành vi rủi ro; dựa vào nền
tảng lý thuyết để giải thích những lựa chọn tình dục và hành vi của con người; liên
tục tăng cường thông báo về hành vi tình dục; cung cấp những thông tin chính xác
về các rủi ro liên quan đến hoạt động tình dục, tránh thai, mang bầu, sinh đẻ hoặc
các cách thức từ chối quan hệ tình dục. Không chỉ dừng lại ở đó, chương trình giáo
dục giới tính ở trường còn cung cấp cho học sinh cách đối phó với bạn bè và các áp
lực xã hội khác khi các em gặp rủi ro trong quan hệ tình dục; cung cấp các cơ hội để
giao tiếp trực tiếp, các kỹ năng thương lượng và đưa ra quyết định. Ở trường, giáo
viên đã sử dụng đa dạng các phương pháp tiếp cận để dạy và học gắn với liên hệ
bản thân, sự tham gia của học sinh và giúp các em gắn kết thông tin với bản thân.
Trường học dựa trên các chương trình giáo dục đặc trưng, có ưu thế trong
việc cung cấp thông tin và cơ hội để phát triển các kỹ năng và chọn lọc thái độ rõ
rệt theo phong cách trang trọng hơn thông qua các bài học trong chương trình giảng
dạy ở các cấp học. [16]
Vậy giáo dục giới tính là giáo dục về những gì?
* Giới tính là những đặc điểm, tính chất riêng biệt để tạo nên sự khác biệt
giữa giống đực và giống cái của các loài sinh vật, trong đó có loài người.
* Giáo dục giới tính con người là giáo dục về những đặc điểm, tính chất
riêng biệt giữa phái nam và phái nữ, cho biết về những thay đổi trong cơ thể và tâm
lý của mỗi giới.
* Giáo dục giới tính là giúp trẻ hiểu biết về cơ thể và sự phát triển của cơ thể
mỗi giới, hiểu về sinh lý của bản thân, để chúng biết làm chủ bản thân mình.
18
* Giáo dục giới tính là giúp trẻ hiểu được chức năng của các bộ phận sinh
dục, để hiểu rõ được cách làm việc của chúng và tránh được những căn bệnh bên
trong vùng “kín”.
* Giáo dục giới tính giúp trẻ hiểu được các vấn đề trong quan hệ tình dục,
những bệnh thường lây truyền khi quan hệ tình dục, vai trò của hai giới trong quan
hệ tình dục cũng như ngoài xã hội.
* Giáo dục giới tính giúp trẻ hiểu được quá trình thụ thai và cách ngừa thai,
biết tự kiềm chế nhu cầu sinh lý của bản thân, biết cách đối xử với người khác phái,
biết kiểm soát sự sinh sản và biết phòng ngừa bệnh tật. [21]
Ở cấp tiểu học (Từ lớp 1 đến lớp 4), giáo dục giới tính trong thời kì này phải
thoả mãn sự tò mò rất tự nhiên và chính đáng của các em, bài học có thể bắt đầu từ
một sự kiện, một câu chuyện thực tế nào đó mà trẻ em đã chứng kiến. Bài giảng
được tiến hành như một buổi chuyện trò, trao đổi giữa thầy giáo và học sinh. Trong
giai đoạn này có thể dạy trẻ các nội dung về giới tính như:
- Sự khác nhau giữa bé trai và bé gái (ngoại hình, sở thích, trang phục...)
- Vì sao cần có những em bé ra đời?
- Bất kì ai cũng đều phải có cha và mẹ.
- Các em bé ra đời từ đâu?
Ở độ tuổi này, trẻ em cần biết rằng em được phát triển từ một quả trứng
trong cơ thể mẹ, và cơ thể mẹ “nhả” em ra như thế nào. Cần liên hệ với ví dụ thực
tiễn như “gà mẹ” đẻ trứng. Nếu các em hỏi về vai trò của ông bố thì cần giải thích
một cách ngắn gọn nhưng chân thật, “gà bố” cho một cái dùi để “khoan thủng” quả
trứng thì gà con ở trong mới chui ra được. Nếu trẻ em không được tiếp nhận những
thông tin đúng đắn từ phía giáo viên, chúng sẽ tự tạo ra những lí thuyết khác nhau
cho mình, một số em bé gái nghĩ rằng bụng bà mẹ tự nứt ra cho em bé chui ra rồi
sau đó bác sĩ khâu bụng lại. Chính cái suy nghĩ ngây thơ này có thể trở thành
nguyên nhân xa xôi của nỗi hoảng hốt ở một số phụ nữ nhạy cảm khi lần đầu tiên
lên bàn đẻ.
Từ lớp 5 đến lớp 9, thời kì này trẻ em đã bắt đầu để ý tới những thay đổi của
cơ thể, cảm nhận được những dấu hiệu đầu tiên của tuổi trưởng thành đang đến gần
với mình. Nội dung giáo dục giới tính trong giai đoạn này là:
- Cấu trúc và chức năng của các cơ quan sinh dục.
- Hành kinh và hiện tượng xuất tinh tự nhiên.
- Thụ thai, mang thai và sinh đẻ.
- Các biện pháp tránh thai.
- Các bệnh lây lan qua đường tình dục.
19
Ở bậc Trung học phổ thông, thời kì này cần trao đổi với học sinh những vấn
đề lí luận nghiêm túc, giúp họ hình thành quan điểm đạo đức. Những bài học về
giáo dục giới tính tiếp tục được đào sâu và hoàn chỉnh. Chủ đề giáo dục giới tính
cần được thảo luận:
- Tình bạn và tình yêu.
- Sự lựa chọn người yêu và chuẩn bị cho cuộc sống vợ chồng.
- Tính di truyền của một số bệnh.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của gia đình, hứa hôn, kết hôn, li hôn, sinh con ngoài
giá thú.
- Các hình thức tình dục dị biệt và vi phạm pháp luật: Tình dục đồng giới,
hiếp dâm, bạo dâm, bệnh cưỡng dâm trẻ em.
- Nạo phá thai và các rủi ro, bệnh vô sinh.
- Đa dâm và mại dâm, tác hại đối với cộng đồng?
- Các bệnh tình dục.
- Bệnh liệt dương, lãnh cảm của đàn ông và phụ nữ.
- Tình yêu, tình dục trong văn học, điện ảnh.
Mục đích của toàn bộ chương trình giáo dục giới tính từ tuổi ấu thơ tới tuổi
trưởng thành không chỉ là trang bị kiến thức, xây dựng ý thức tình dục lành mạnh
mà điều quan trọng là xây dựng những quan niệm đúng đắn về vai trò, trách nhiệm
của người đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống vợ chồng, trong gia đình và trong xã
hội. [20]
c. Tích hợp giáo dục giới tính trong trường học
Hiện nay, trên thế giới mỗi ngày có khoảng 2000 cuốn sách được xuất bản,
thông tin ấy đủ nói lên rằng không thể học tập và giảng dạy như cũ theo chương
trình sách giáo khoa gồm quá nhiều môn học riêng rẽ, biệt lập với nhau. Mặt khác,
sự phát triển của khoa học trên thế giới ngày càng nhanh, nhiều vấn đề mới cần phải
đưa vào nhà trường như: Bảo vệ môi trường, giáo dục giới tính, giáo dục pháp luật,
phòng chống ma tuý, giáo dục sức khoẻ, an toàn giao thông...nhưng quỹ thời gian
có hạn, không thể tăng số môn học lên được. Việc tích hợp những nội dung này với
một số môn học là giải pháp có thể thực hiện được nhiệm vụ giáo dục nhiều mặt
cho học sinh mà không làm cho chương trình quá tải.
Vậy quan điểm giáo dục tích hợp được hiểu như thế nào?
Tích hợp là một khái niệm rộng, không chỉ dùng trong lĩnh vực lí luận dạy
học, khái niệm tích hợp được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực. Theo từ điển tiếng
Anh – Anh (Oxford Advanced Learner’s Dictionary), tích hợp có nghĩa là kết hợp
những phần, những bộ phận với nhau trong một tổng thể. Những phần, những bộ
phận này có thể khác nhau nhưng được tích hợp với nhau.
20
Khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất, sự nhất thể
hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất chứ không phải phép cộng
đơn giản những thuộc tính của các thành phần khác nhau.
Tích hợp có hai tính chất cơ bản liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn
nhau là tính liên kết và tính toàn vẹn. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ
năng chỉ được cộng lại, không có sự liên kết, tác động, phối hợp với nhau trong lĩnh
hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, một tình huống nào đó.
Tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trước hết phải
thấy rằng, cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư, là một tập đại thành của tri
thức, kinh nghiệm và phương pháp. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ
cũng là những tình huống tích hợp. Không thể giải quyết một vấn đề và nhiệm vụ
nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp và phối hợp những kinh
nghiệm, kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tích hợp giáo dục một nội dung kiến thức trong nhà trường sẽ giúp học sinh
học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kĩ năng và phương pháp của
một khối lượng tri thức toàn diện, hài hoà và hợp lí trong giải quyết các tình huống
khác nhau và mới mẻ của cuộc sống hiện đại. [18]
Dạy học tích hợp được nghiên cứu và ứng dụng bắt đầu những năm 1980 do
nhiều nguyên nhân. Thứ nhất do người ta cho rằng chương trình dạy học của nhà
trường chưa phù hợp, nhàm chán làm cho học sinh không thích thú học tập. Thứ
hai, nghiên cứu về não bộ cho thấy quá trình nhận thức hiệu quả hơn khi có sự kết
nối các kiến thức với nhau. Sự tích hợp cũng cho phép làm giảm sự trùng lặp giữa
các môn. Thứ ba là do sự giao thoa và phân nghành của các khoa học dẫn đến các
kiến thức trong thực tế cuộc sống không chỉ bó hẹp ở khái niệm những môn học
riêng rẽ, mà có sự liên hệ, ràng buộc và bổ trợ lẫn nhau. Như vậy dạy học tích hợp
giúp học sinh tri thức xác thực và toàn diện, phát triển tư duy tổng hợp và hệ thống,
nâng cao năng lực hành động thực tiễn của người học. Nhiều nhà nghiên cứu có
quan điểm cho rằng dạy học tích hợp là giải pháp quan trọng để năng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho thế kỷ 21.
Trong dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các
môn học, lĩnh vực học tập khác nhau thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các
nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học, ví dụ lồng ghép nội
dung giáo dục giới tính, giáo dục dân số, giáo dục môi trường, giáo dục an toàn giao
thông, giáo dục sức khoẻ...trong các môn học Đạo đức, Tự nhiên xã hội, Khoa học,
Tiếng việt (ở cấp tiểu học), môn Sinh học, Giáo dục công dân, Địa lí... (ở cấp trung
học và phổ thông).
21
Tuỳ theo quan điểm mà có những phương thức khác nhau trong việc thực
hiện tích hợp các môn học. Theo D’Hainaut, có thể chấp nhận bốn quan điểm tích
hợp khác nhau :
- Quan điểm “trong nội bộ môn học”: Trong đó ưu tiên các nội dung khái
quát cốt lõi của môn học. Quan điểm này nhằm duy trì các môn học riêng.
- Quan điểm “đa môn”: Đề nghị những tình huống, những “đề tài” có thể
được nghiên cứu theo những quan điểm khác nhau. Ví dụ, giáo dục về vấn đề bình
đẳng giới có thể được thực hiện thông qua nhiều môn học khác nhau (Sinh học,
Giáo dục công dân) v.v ... Theo quan điểm này, giáo dục về vấn đề bình đẳng giới
được tiếp cận một cách riêng rẽ và chỉ gặp nhau ở một số thời điểm trong quá trình
nghiên cứu các đề tài. Nó không thực sự được tích hợp.
- Quan điểm “liên môn”: Đề xuất những tình huống chỉ có thể được tiếp cận
một cách hợp lí qua sự soi sáng của nhiều môn học. Ví dụ, câu hỏi “Các con đường
lây lan HIV/AIDS? Các biện pháp phòng tránh? Kế hoạch hoá gia đình là gì? Việc
kế hoạch hoá gia đình có ý nghĩa gì đối với gia đình và xã hội? Các biện pháp kế
hoạch hoá gia đình?... chỉ có thể được xem xét từ nhiều góc độ bằng cách huy động
kiểu tích hợp và phương pháp của một số môn học như: Sinh học, địa lí, Giáo dục
công dân... Ở đây chúng ta nhấn mạnh đến sự liên kết các môn học, làm cho chúng
tích hợp với nhau để giải quyết một tình huống cho trước. Khi đó, các quá trình học
tập sẽ không rời rạc mà chúng liên kết với nhau xung quanh vấn đề phải được giải
quyết.
- Quan điểm “xuyên môn”: Chủ yếu phát triển những kĩ năng mà học sinh có
thể sử dụng trong tất cả các môn học, trong tất cả các tình huống. Đó là những kĩ
năng xuyên môn. Khi đó có thể tạo thành môn học mới. Ví dụ môn Khoa học vật
thể ở THCS Mỹ, môn Thực tế cuộc sống cho lớp 1, 2 ở Nhật Bản. [20]
Ngày nay, xu thế phát triển của khoa học và những nhu cầu của xã hội đòi
hỏi chúng ta phải hướng tới quan điểm liên môn và xuyên môn. Quan điểm liên
môn trong đó chúng ta phối hợp sự đóng góp của nhiều môn học để nghiên cứu và
giải quyết một tình huống. Quan điểm xuyên môn, trong đó chúng ta tìm cách phát
triển ở học sinh những kĩ năng xuyên môn, nghĩa là những kĩ năng có thể áp dụng
rộng rãi.
1.1.2. Vận dụng tích hợp giáo dục giới tính trong giảng dạy môn sinh học
Sinh học là ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu về sự sống. Đối tượng của
sinh học là thế giới sống. Nhiệm vụ của sinh học là tìm hiểu cấu trúc, cơ chế và bản
chất các hiện tượng, các quá trình, quan hệ trong thế giới sống và với môi trường,
phát hiện những quy luật của sinh giới, làm cơ sở cho loài người nhận thức đúng và
điều khiển được sự phát triển của sinh vật.
22
Trong trường phổ thông ở Việt Nam, sinh học là một môn học giúp học sinh
có những hiểu biết khoa học về thế giới sống, kể cả con người trong mối quan hệ
với môi trường, đặc biệt môi trường nhiệt đới có gió mùa, có tác dụng tích cực
trong việc giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống. Kiến thức sinh học chiếm một tỉ trọng lớn trong môn Tự nhiên và Xã hội,
Khoa học ở tiểu học và trở thành một môn học chính thức từ lớp 6 đến lớp 12.
Các kiến thức trong chương trình Trung học cơ sở đề cập tới các đối tượng
cụ thể (vi sinh vật, nấm, thực vật, động vật và con người), trong đó chủ yếu trình
bày các kiến thức về cấu tạo và chức năng của các cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể.
Riêng lớp 9 đề cập tới các mối quan hệ di truyền và biến dị, sinh vật và môi trường.
Các kiến thức sinh học trong chương trình Trung học phổ thông được trình
bày theo các cấp tổ chức sống, từ các hệ nhỏ đến các hệ lớn: Tế bào → cơ thể →
quần thể - loài → quần xã → hệ sinh thái – sinh quyển, cuối cùng tổng kết những
đặc điểm chung của các tổ chức sống theo quan điểm tiến hoá – sinh thái. Các kiến
thức được trình bày trong chương trình Trung học phổ thông là những kiến thức
sinh học đại cương, chỉ ra những nguyên tắc tổ chức, những quy luật vận động
chung cho thế giới sinh vật. Quan điểm này được thể hiện theo các ngành nhỏ trong
Sinh học: Tế bào học, Vi sinh vật học, Di truyền học, Tiến hoá, Sinh thái học, Sinh
lý học thực vật, Sinh lý học người - động vật.
Chương trình được thiết kế theo mạch kiến thức và theo kiểu đồng tâm, mở
rộng qua các cấp học, chương trình Trung học phổ thông dựa trên chương trình
Trung học cơ sở nhưng kiến thức bắt đầu được nâng cao dần về chiều sâu và bề
rộng.
Chương trình phản ánh sắc thái của môn khoa học thực nghiệm nên thời
lượng của chương trình luôn có một quỹ thời gian cho các buổi thực hành, các buổi
thảo luận – sinh hoạt chuyên đề, các buổi ngoại khoá (hoạt động ngoài giờ lên lớp).
Tuỳ điều kiện của từng trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông mà các hoạt
động đó được thực hiện ở các mức độ khác nhau.
Với đặc thù của bộ môn như vậy hoàn toàn cho phép chúng ta tích hợp được
các nội dung có liên quan đến bộ môn như: Lồng ghép kiến thức giáo dục môi
trường trong phần Sinh thái học, Vi sinh vật học; lồng ghép kiến thức giáo dục sức
khoẻ, giáo dục giới tính, giáo dục dân số, phòng chống ma tuý và HIV/AIDS...trong
phần Tế bào học, Di truyền học, Sinh lý học người - động vật, Vi sinh vật học. Như
vậy, cùng một vấn đề nhưng được “soi sáng” dưới nhiều góc độ, cho phép chúng ta
hiểu được bản chất, cơ sở khoa học của vấn đề được đưa ra.
23
Tích hợp giáo dục giới tính trong môn sinh học là kết hợp một cách có hệ
thống các kiến thức sinh học với giáo dục giới tính, làm cho chúng hòa quyện vào
nhau hợp thành một thể thống nhất.
Việc tích hợp giáo dục giới tính trong chương trình học vào thời điểm nào là
hợp lí và đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất? Chúng ta đã biết những dấu hiệu
thay đổi về tâm – sinh lí của các em thường diễn ra mạnh nhất từ giai đoạn cuối của
Trung học cơ sở (lớp 8, lớp 9) và trong suốt giai đoạn Trung học phổ thông, đây
chính là khoảng thời gian tốt để giáo dục các em rằng những sự thay đổi đó là do sự
phát triển giới tính của các em.
Hoạt động tích hợp giáo dục giới tính trong môn sinh học có thể tiến hành
thông qua hai hoạt động chủ yếu:
* Tích hợp giáo dục giới tính thông qua chương trình giảng dạy của môn
Sinh học trong trường Trung học phổ thông.
* Tích hợp giáo dục giới tính thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp và
các hoạt động xã hội
Thông qua chương trình giảng dạy môn sinh học và hoạt động ngoài giờ lên
lớp có 5 khả năng tích hợp giáo dục giới tính:
- Tích hợp giáo dục giới tính trong một bài học, một phần nội dung của bài
học.
- Tích hợp giáo dục giới tính trong một số ví dụ, câu hỏi, tình huống xuất
hiện trong tiến trình bài giảng.
- Tích hợp giáo dục giới tính trong một số câu hỏi, bài tập sau mỗi bài học
(giáo viên cũng có thể kiểm tra mức độ nhận thức của học sinh qua các câu hỏi
kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15’, kiểm tra 45’...)
- Tích hợp giáo dục giới tính trong một bài đọc thêm hay một mục thông tin
ngắn sau bài học (mục “Em có biết”). Tuy nhiên những phần nội dung này không
nằm trong chương trình dạy học nên một số học sinh dễ bỏ qua. Vì vậy để thu hút
được sự chú ý của các em, những nội dung này cần ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu, dễ
nhớ, có thể kèm theo những hình ảnh minh hoạ sinh động. Người giáo viên cũng
cần nhắc nhở các em về nhà đọc các thông tin hữu ích này.
- Tích hợp giáo dục giới tính trong một buổi ngoại khoá, một buổi sinh hoạt
chuyên đề. Việc giảng dạy về nội dung giáo dục giới tính đòi hỏi người giảng dạy
phải nắm rõ thực tiễn và các kiến thức giới tính chính xác, hình ảnh hay ví dụ minh
họa rõ ràng gần gũi với đối tượng cần giảng dạy vì thế việc tổ chức một tiết dạy đòi
hỏi có sự chuẩn bị trước. Giáo viên có thể dần dần từ một buổi truyền đạt kiến thức,
thông tin về giới tính rồi sau đó cho các em tạo nhóm, tìm hiểu một số tình huống
trong đời sống và tạo dựng các vở kịch trình diễn ở những tiết sau, cho các nhóm
24
khác đặt các câu hỏi tình huống để nhóm trình diễn trả lời, kết thúc các tiết mục thì
giáo viên sẽ nhận xét và tư vấn những thiếu sót cho các em rút kinh nghiệm.
Giáo dục giới tính là vấn đề nhạy cảm, đòi hỏi sự khéo léo của người giáo
viên. Một số yêu cầu cần đạt được trong dạy học là:
- Nội dung kiến thức khoa học chính xác, phù hợp với lứa tuổi, không né
tránh gây những hiểu biết sai lầm của học sinh.
- Phương pháp dạy học đa dạng, sinh động, lôi cuốn.
- Không làm thay đổi tính đặc trưng môn học, không biến bài học của bộ
môn thành bài giáo dục kiến thức về giới tính.
- Khai thác nội dung giáo dục giới tính có chọn lọc, có tính tập trung vào
những chương, mục nhất định.
- Khuyến khích việc tự tìm hiểu, nghiên cứu của học sinh.
- Kích thích tối đa tính tích cực, bạo dạn nhưng nghiêm túc của học sinh.
- Giáo viên sử dụng thuật ngữ chính xác nhưng khéo léo và dí dỏm làm giảm
tính căng thẳng trong tiết học.
- Kết hợp giữa kiến thức khoa học với kiến thức xã hội, tình yêu, hôn nhân
và gia đình.
Để một bài giảng có tích hợp được nội dung giáo dục giới tính thành công,
trước hết người giáo viên cần phải trang bị cho mình một vốn kiến thức sâu rộng,
thường xuyên cập nhật những thông tin về giáo dục giới tính từ sách báo, ti vi hay
mạng internet để có thể trả lời cho học sinh mọi thắc mắc có liên quan đến giới tính.
Bài giảng lên lớp hay hoạt động ngoại khoá cần được chuẩn bị kĩ lưỡng, nội dung
khoa học, thiết kế bài giảng hợp lí, chắc chắn sẽ thu hút được hứng thú của học
sinh, như vậy sự tiếp thu của học sinh sẽ nhanh hơn và chắc chắn kiến thức giáo dục
giới tính được tích hợp trong nội dung bài học sẽ đạt được hiệu quả cao nhất.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về vận dụng tích hợp giáo dục giới tính trong
giáo dục
1.2.1.1. Trên thế giới
Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong
việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thông và trong xây dựng
chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Quan điểm tích hợp được xây
dựng trên cơ sở những quan niệm tích cực về quá trình học tập và quá trình dạy học.
Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan điểm tích hợp
giáo dục giới tính trong giáo dục và dạy học sẽ giúp phát triển những năng lực giải
25
quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên ý nghĩa hơn đối với
học sinh so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng rẽ. Tích
hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học,
giúp đào tạo những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề
của cuộc sống hiện đại. Nhiều nước trong khu vực Châu Á và trên thế giới đã thực
hiện quan điểm tích hợp giáo dục giới tính toàn diện trong hoạt động giáo dục và
trong dạy học, bước đầu đã đạt được những hiệu quả nhất định.
Trong bất kỳ một vấn đề nào liên quan đến giáo dục ngoài nhà trường thì vai
trò của gia đình cũng hết sức quan trọng. Ở các nước phương Tây, việc nói chuyện
xung quanh những chủ đề về giới tính, về “XXX” không có gì phải “lăn tăn”. Các
em học sinh không hề thấy ngại ngần khi chia sẻ với bố mẹ. Không giống như văn
hoá phương Tây cởi mở và phóng khoáng, văn hoá phương Đông có xu hướng khép
kín hơn nhất là vấn đề giới tính và tình dục. Có lẽ bởi vậy mà vấn đề này không
phải là câu chuyện dễ chia sẻ giữa cha mẹ và con cái. Giáo dục giới tính trong gia
đình chỉ hạn chế trong những lời răn dạy về đạo đức và chỉ dừng lại ở góc độ dạy vệ
sinh thân thể ở tuổi dậy thì. Còn lại giáo dục tình dục hầu như chưa bao giờ được
đặt ra. [21]
Trên thế giới, các quốc gia như Hà Lan, nơi mà nhiều gia đình coi giáo dục
giới tính như là một trách nhiệm quan trọng - họ nói chuyện cởi mở với con cái về
giới tính, tình dục, điều này góp phần cải thiện sức khỏe tình dục cho thanh thiếu
niên. [12]
Tại Mỹ, 88% cha mẹ của học sinh Trung học tin rằng: Giáo dục giới tính
trong trường học sẽ giúp họ nói chuyện dễ dàng hơn đối với con cái ở tuổi dậy thì
về giới tính, tình dục và tính dục. Có 94% số người được cung cấp kiến thức giới
tính khi còn học Phổ thông, trong đó 84% là bậc Trung học. Đó là kết quả nghiiên
cứu của Hội đồng Giáo dục giới tính và Sức khoẻ sinh sản của Mỹ (SIECUS). Cũng
trong nghiên cứu này thì có tới 92% số học sinh muốn được trao đổi với cha mẹ về
giới tính, tình dục để có sự hiểu biết toàn diện hơn so với những gì các em đã được
học tại trường lớp. [23]
Theo ông Sani B. Hermawan, nhà tâm lý học Indonesia, cho biết cha mẹ cần
trang bị cho mình những kiến thức về giới tính và nên trở thành người thông minh
hơn khi đưa ra những câu trả lời cho trẻ. Bởi vì các câu hỏi của trẻ em ngày nay
cũng được ghi nhận là thông minh hơn, mặc dù chúng ở độ tuổi vẫn còn rất trẻ.
Cung cấp sự hiểu biết về các vấn đề tình dục sớm, có thể giúp cha mẹ giao tiếp với
con trẻ linh hoạt hơn trong tương lai. Giáo dục giới tính là nhu cầu của con trẻ,
thậm chí đối với một người đã kết hôn, giáo dục giới tính vẫn cần thiết đối với các
cặp vợ chồng. [22]