Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Đầu tư phát triển vào lĩnh vực GD-ĐT ở Việt Nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.79 KB, 47 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm
1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới
về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao
cấp, sang kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện CNH-HĐH đất
nước, đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện
mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm
nhanh được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối
trong xã hội. Tiền đề phát triển đất nước trong thời kỳ mới chính là do sức
mạnh của con người Việt Nam quyết định. GD- ĐT là con đường quan trọng
nhất để xây dựng nguồn nhân lực và làm nên sức mạnh ấy.
Ngành GD- ĐT muốn phát triển được và đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới nhất thiết phải được đầu tư cả về sức người và sức của. Đầu tư cho GD-
ĐT là một nội dung trong đầu tư phát triển con người. Từ trước đến nay đào
tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn được Đảng và Nhà
ta coi là hoạt động đầu tư cơ bản nhất. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001-2010 là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại hoá”. “ Con đường CNH- HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vưac có những bước
nhẩy vọt…”. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, giáo dục và khoa học công
nghệ có vai trò quyết định,nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết.
Việc đầu tư vào lĩnh vực GD- ĐT đã gặt hái nhiều thành tựu đáp ứng
công cuộc CNH- HĐH ở Việt Nam cụ thể như quy mô GD-ĐT được mở
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rộng, đa dạng hóa các hình thức GD-ĐT đồng thời không ngừng nâng cao dân
trí và tăng cường cơ sở vật chất hạ tầng nhà trường. Tuy nhiên thực tế vốn


đầu tư phát triển GD- ĐT chưa tương xứng với vị thế của nó và nó phản ánh
một cơ cấu vốn đầu tư phát triển GD- ĐT chưa hợp lý, việc quản lý hoạt động
này còn hạn chế là nguyên nhân chất lượng GD-ĐT ở trong vòng luẩn quẩn
nên đã dẫn đến những hạn chế trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước
ta.
Hiện nay Việt Nam vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO một
đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời
gian tới càng cấp thiết hơn, để làm được điều này cần phải tăng cường đầu tư
phát triển ngành GD-ĐT, để làm được điều này cần có sự nỗ lực của toàn xã
hội. Vì vậy em đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu về: “Đầu tư phát triển
vào lĩnh vực GD-ĐT ở Việt Nam trong những năm gần đây”.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương I
Tổng quan về đầu tư phát triển lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Việt Nam
1. Đặc điểm hệ thống GD- ĐT ở Việt Nam
Hệ thống giáo dục quốc dân hiện có đủ các cấp, bậc học, ngành học và
phương thức giáo dục. Bao gồm
1.1. Giáo dục mầm non
+Nhà trẻ: có thời gian khung của quá trình GD-ĐT là 3 năm, tuổi chuẩn
3-4 tháng
+Mẫu giáo: có thời gian khung của quá trình GD-ĐT là 3 năm, tuổi
chuẩn 3 tuổi
1.1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo
dục mầm non thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng
tuổi đến 6 tháng tuổi(Điều 21 - Luật Giáo dục, 2005).
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm ,
trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị

cho trẻ em vào lớp một (Điều 22- Luật Giáo dục ,2005)
1.1.2. Quy mô giáo dục mầm non
Số lượng các trường mầm non, mẫu giáo, nhà trẻ tăng đáng kể, góp phần
giảm dân số xã trắng về cơ sở giáo dục mầm non. Hiện cả nước có hơn
10.000 cơ sở giáo dục mầm non. Số cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập
tăng nhanh, năm học 2003- 2004 có 35.66% số nhà trẻ và 40.56% trường mẫu
giáo thuộc loại hình ngoài công lập. Tổng số trẻ ra lớp trên toàn quốc đạt
khoảng 2.600.000 cháu. Trở ngại lớn nhất hiện nay là đội ngũ giáo viên mầm
non chưa đủ so với định mức, nhiều giáo viên chưa đạt tiêu chuẩn, phòng học
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và đồ dùng dạy học còn thiếu nhiều. Ngoài ra, trong giáo dục mầm non còn có
khoảng cách đáng kể giữa vùng nông thôn và thành thị, giữa các vùng khác
nhau.
1.1.3.Chất lượng giáo dục mầm non
Chất lượng giáo dục mầm non được đánh giá qua chất lượng nuôi
dương, chăm sóc và tổ chức các hoạt động vui chơi để giáo dục trẻ; thể hiện ở
trình độ phát triển nhiều mặt của trẻ.
Trong mấy năm gần đây, tính trung bình hằng năm tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng đối với từng vùng trong các cơ sở giáo dục mầm non giảm xuống rõ
rệt, từ 2- 3%/năm. Kết quả điều tra trên một mẫu lớn cho thấy, năm học 2003-
2004, tỷ lệ suy dưỡng ở nhà trẻ là 13.5%, mẫu giáo là 13%, thấp hơn nhiều so
với tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong cộng đồng( 28,4%).
Sự phát triển của trẻ ở các cơ sở giáo dục mầm non về các mặt thể chất,
nhận thức cao hơn so với những trẻ không ra lớp. Đại đa số trẻ ở các cơ sở
giáo dục mầm non đã có một số kỹ năng xã hội, hình thành được nề nếp, thói
quen, hành vi văn minh; có khả năng quan sát sự vật và hiện tượng tự nhiên
khá tinh tế so với lứa tuổi, trí tưởng tượng và sáng tạo phát triển khá tốt, có
cảm nhận thẩm mỹ. Trẻ 5 tuổi vào học mẫu giáo đã được chuẩn bị tương đối
đầy đủ để vào học ở bậc tiểu học như ngồi học tư thế đúng, tập trung nghe

giảng, biết cầm bút để vẽ, biết cầm sách vở và phát âm tương đối đúng.
1.2. Giáo dục phổ thông
+Tiểu học: có thời gian khung của quá trình GD-ĐT là 5 năm, tuổi chuẩn
vào lớp đầu 6 tuổi
+Trung học cơ sở: có thời gian khung của quá trình GD-ĐT là 4 năm,
tuổi chuẩn vào lớp đầu là 11 tuổi
+Trung học phổ thông: thời gian khung của quá trình GD-ĐT là 3 năm,
tuổi chuẩn vào lớp đầu là 15 tuổi
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.1. Quy mô giáo dục phổ thông
Trong giáo dục phổ thông có 2 loại hình quản lý: quản lý hệ thống và
quản lý nhà trường. Trong đó quản lý nhà trường là hạt nhân cơ bản. Bởi lẽ,
nhà trường phổ thông là “rường cột” của hệ thống giáo dục quốc dân. Đây
chính là nơi trực tiếp thực hiện quá trình cung cấp kiến thức và những nhân tố
căn bản của nhân cách con người. Cùng với gia đình, đó là khâu có tầm quan
trọng quyết định đối với sự hình thành nhân cách học sinh.
Hiện nay cả nước có 14.346 trường tiểu học, tăng 9.8% so với năm học
1998-1999; Đáng chú ý là tốc độ phát triển khá nhanh của loại hình trường
THPT ngoài công lập. Ở các tỉnh miền núi, hệ thống trường phổ thông dân tộc
nội trú và trường phổ thông bán trú dân nuôi ngày càng phát triển. Hiện đã có
11 trường phổ thông DTNT thuộc Trung ương, 44 trường thuộc tỉnh, 295
trường thuộc huyện và khoảng 500 trường bán trú dân nuôi ở 25 tỉnh.
Sách cho thư viện và thiết bị dạy học trong trường phổ thông đã được bổ
sung đáng kể. Hệ thống sách giáo khoa mới đã tiếp cận trình độ các nước tiên
tiến trong khu vực, tuy nhiên một số cuốn sách vẫn còn sai sót và việc triển
khai chưa đồng bộ giữa đổi mới chương trình và bồi dưỡng giáo viên, chuẩn
bị cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
Số lượng giáo viên và tỷ lệ giáo viên đạt tiêu chuẩn tăng đáng kể. Tuy
nhiên, đội ngũ giáo viên phổ thông hiện nay vừa thiếu vừa thừa; thiếu giáo

viên THCS, THPT ở các vung khó khăn, thiếu giáo viên âm nhạc, mỹ thuật,
… Số học sinh tiểu học đang giảm dần và đi vào ổn định tạo điều kiện thuận
lợi cho việc nâng cao chât lượng của bậc học này và thực hiện phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ
1.2.2. Chất lượng giáo dục phổ thông
Về kiến thức, kỹ năng, khối lượng kiến thức cơ bản của học sinh phổ
thông hiện nay lớn và rộng hơn so với trước đây, nhất là về các môn khoa học
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tự nhiên, tin học và ngoại ngữ. Tỷ lệ học sinh khá giỏi có chiều hướng gia
tăng, tỷ lệ học sinh trung bình ổn định, tỷ lệ học sinh yếu kém và lưu ban
giảm.Trình độ của học sinh giỏi, học sinh các trường trọng điểm quốc gia,
trường chuyên, trường chuẩn quốc gia vẫn được duy trì và phát triển. Học
sinh Việt Nam luông đứng trong tốp 10 nước dẫn đầu về số huy chương đạt
được trong các kỳ thi toán quốc tế.
1.3. Giáo dục nghề nghiệp
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp bao gồm dạy nghề và giáo dục trung cấp
chuyên nghiệp. Dạy nghề gồm 3 trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao
đẳng nghề.
1.3.1. Quy mô giáo dục nghề nghiệp
Dạy nghề đã được phục hồi sau nhiều năm suy giảm. Năm 2003, quy mô
tuyển sinh dạy nghề dài hạn và ngắn hạn đã tăng hơn 2 lần, tuyển sinh THCN
tăng 1.67 lần so với năm 1998. Ngoài hệ thống đào tạo chính quy, hệ đào tạo
nghề ngắn hạn trong những năm qua tập trung ở vùng Đồng Bằng Sông
Hồng(69 trường), vùng Đông Nam Bộ(52 trường) và vùng Đông Bắc(37
trường). Ba vùng này đã chiếm tới 70% tổng số trường dạy nghề của cả nước.
Các trường THCN cũng chỉ tập trung chủ yếu ở cac khu đô thị và thành phố
lớn như Hà Nội và TP.HCM. Tuy nhiên quy mô đào tạo nghề tuy tăng nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao
động trong quá trình công nghiệp hoá và yêu cầu phát triển đa dạng về ngành

nghề, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Đa số giáo viên còn hạn chế về kỹ năng
thực hành và khả năng tiếp cận với công nghệ mới, phương pháp dạy học tiên
tiến. Tỷ lệ dạy nghề còn thấp, vào khoảng 69%
1.3.2. Chất lượng giáo dục nghề nghiệp
Kiến thức, kỹ năng của học sinh ở một số trường được đánh giá tôt,
tương đương trình độ tiên tiến trong khu vực. Tuy nhiên, nhìn chung chất
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lượng giáo dục nghề nghiệp còn thấp, đặc biệt là về kỹ năng thực hành và tác
phong công nghiệp. Một số chương trình, tài liệu dạy nghề đã được xây dựng
theo phương pháp mới phù hợp với quy trình và công nghệ sản xuất hiện đại.
Tuy nhiên, tình trạng chung của giáo dục nghề nghiệp ở nước ta hiện nay là
thiếu giáo trình, trong khi đó giáo trình hiện có chưa đảm bảo liên thông giữa
các cấp và các ngành đào tạo. Danh mục ngành nghề chưa được bổ sung hoàn
chỉnh, hệ thống chuẩn đào tạo nghề chưa được ban hành.
Lĩnh vực đào tạo nghề đóng một vai trò quan trọng đào tạo ra một nguồn
nhân lực có chất lượng cho xã hội. Tuy nhiên, có thể thấy trong những năm
qua chúng ta thiếu hụt một đội ngũ quản lý, lãnh đạo cũng như đội ngũ giáo
viên có trình độ cao trong lĩnh vực dạy nghề. Đồng thời, mạng lưới các
trường dạy nghề trong nước còn mỏng, cơ sở vật chất còn thiếu và yếu,
phương pháp đào tạo chưa gắn chặt được giữa lý thuyết và thực hành nên chất
lượng đào tạo chưa cao.Thực tế trên đã dẫn đến một tình trạng là chúng ta có
quá nhiều cử nhân, kĩ sư trong khi lại thiếu hụt hẳn một đội ngũ công nhân có
kĩ thuật cao mà chúng ta vẫn quen gọi là tình trạng "thừa thày -thiếu thợ"!.
1.4. Giáo dục đại học
1.4.1. Quy mô giáo dục đại học
Từ năm 1998 đến nay, quy mô giáo dục đại học và sau đại học đã tăng
đáng kể. Hiện cả nước có 127 trường cao đẳng, 87 trường đại học, học viện.
Có 147 cơ sở đào tạo sau đại học, trong đó có 95 cơ sở được đào tạo tiến sĩ.
Bằng nhiều nguồn vốn, các trường đã cố gắng nâng cấp thư viện, phong

thí nghiệm, cơ sở thực hành, mua sắm thiết bị hiện đại và nối mạng internet.
Với số lượng khoảng 40.000 giảng viên so với quy mô trên 1 triệu sinh viên,
hầu hết các trường ĐH, CĐ đều thiếu giảng viên. Thêm vào đó, chưa có chính
sách thích hợp để thu hút đội ngũ cán bộ khoa học của các cơ quan nghiên
cứu tham gia giảng dạy tại các trường ĐH. Hoạt động nghiên cứu khoa học tại
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các trường ĐH chưa được quan tâm đúng mức. Đa số giảng viên chỉ tập trung
vào giảng dạy, ít tham gia nghiên cứu khoa học.
1.4.2. Chất lượng giáo dục đại học và sau đại học
Chất lượng đào tạo đại học có sự phân tầng rõ rệt giữa các hệ chính quy
và không chính quy, giữa các trường công lập trọng điểm với trường công lập
địa phương và dân lập
Trong đào tạo cao học, đa số các ngành chưa mở rộng được chương trình
và nội dung đào tạo. Điều kiện cần thiết để nghiên cứu của học viên cao học
rất thiếu thốn như người hướng dẫn, tài liệu tham khảo, yêu cầu thực hành thí
nghiệm. Chất lượng đào tạo cao học nói chung còn hạn chế.
Trong tất cả các bậc học, ngoài hệ thống các trường công lập còn có
trường bán công, dân lập và tư thực. Bên cạnh hệ thống các trường chín quy,
ở tất cả các địa phương còn phát triển các trung tâm, cơ sở giáo dục không
chính quy, đáp ứng nhu cầu của người học từ xoá mù chữ, nâng cao trình độ
đến học nghề, tin học và ngoại ngữ
• Quy mô phát triển giáo dục không chính quy
Tính trung bình hàng năm có gần 300.000 người theo học các lớp bổ túc
văn hoá; khoảng 700.000 người theo học các chương trình bồi dưỡng ngoại
ngữ, tin học, giáo dục từ xa. Ngoài ra, còn có một số lượng lớn sinh viên các
khoá đào tạo liên kết giữa các trường và địa phương.
•Chất lượng giáo dục không chính quy
Trong những năm qua, các địa phương đã làm tốt công tác xoá mù chữ,
đồng thời giúp nhiều người có được những kiến thức thuộc các lĩnh vực cấn

thiết để góp phần cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, quy mô giáo dục không
chính quy phát triển nhanh nhưng khâu quản ký kém đã dẫn đến tình trạng
học giả bằng thật ở một số cơ sở liên kết đào tạo có cấp bằng. Các chương
trình giáo dục từ xa vẫn đang trong quá trình xây dựng, tiến độ còn chậm.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chất lượng còn thấp. Đội ngũ giáo viên không chính quy nhìn chung còn thiếu
và trình độ thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều kiện để tổ chức thực hành
còn rất hạn chế.
2. Vai trò đầu tư phát triển đối với sự phát triển lĩnh vực GD-ĐT ở
Việt Nam
2.1. Thách thức và cơ hội đối với Giáo dục nước ta
Khoa học- công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế-
xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học- công nghệ, phát triển
nguồn lực đáp ứng nhu cầu của xã hội, tinh thần trách nhiệm và năng lực của
các thế hệ hiện nay và mai sau.
Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu đã tạo nên những
thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây
dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư
cho phát triển
Xã hội tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi giáo
dục phải phục vụ đắc lực cho xã hội; Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo
thời cơ lớn vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta. Sự
đổi mới và phát triển giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt
để giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới,
những cơ sở lý luận, phương thức tổ chức, nội dung giảng dạy hiện đại và tận
dụng các kinh nghiệp quốc tế để đổi mới và phát triển.
Đảng, Nhà nước và nhân dân tao ngày càng coi trọng vai trò của giáo
dục, quan tâm nhiều hơn và đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển đáp

ứng nhu cầu ngày càng lớn của mọi tầng lớp nhân dân về học tập và tiếp thu
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện những phẩm chất, năng lực
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cần thiết trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Giáo dục nước ta phải vượt qua không chỉ những thách thức riêng của
giáo dục Việt Nam mà cả những thách thức chung của giáo dục thế giới. Một
mặt phải khắc phục những yếu kém bất cập, phát triển mạnh mẽ để thu hẹp
khoảng cách với những nền giáo dục tiên tiến cũng đang đổi mới và phát
triển. Mặt khác, phải khắc phục sự mất cân đối giữa yêu cầu phát triển nhanh
quy mô và đòi hỏi gấp rút nâng cao chất lượng; giữa yêu cầu vừa tạo được
chuyển biến cơ bản, toàn diện vừa giữ được sự ổn định tương đối của hệ
thống giáo dục.
Thực tiễn chuyển đổi cơ chế và phát triển kinh tế đòi hỏi giáo dục phải
tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, phải luôn phát triển và đi trước một
bước đón đầu sự phát triển của xã hội.
2.2. Đầu tư phát triển góp phần tạo ra các điều kiện đảm bảo phát triển GD-
ĐT
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích
quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư điều này góp phần giải quyết công ăn việc
làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội
Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH là yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Góp phần
không nhỏ vao việc nâng cao chất lượng giáo dục là các điều kiện bảo đảm
phát triển giáo dục, đó là đội ngũ giáo viên, chương trình, sách giáo khoa, cơ
sở vật chất, các chính sách quản lý và đầu tư cho giáo dục. Bản thân các điều
kiện này có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau.
a.Phát triển đội ngũ giáo viên

10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để đáp ứng nhu cầu vừa tăng về quy mô vừa nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục. Để làm được điều này một mặt phải đổi mới phương pháp
dạy theo hướng hiện đại hoá. Thông qua tăng ngân sách của nhà nước tạo
điều kiện cho các giáo viên tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới, ưu tiên các các địa bàn kho khăn và các ngành đào tạo có trọng
điểm. Mặt khác hiện nay nếu tính theo mức lương cơ bản thì thu nhập của đội
ngũ giáo viên thấp hơn đặc biệt khi mà nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát gia tặng,
đây cũng là một nguyên nhân làm cho chất lượng giáo viên không đảm bảo.
Vì vậy ngoài việc hoàn thiện định mức lao động thì cần phải có các chính
sách ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đặc biệt là các vùng
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giáo dục các đối tượng đặc biệt. Như vậy ở
nước ta sẽ hạn chế được tình trạng vừa thiếu vừa thừa giáo viên, thừa ở các đô
thị, thiếu ở các vùng khó khăn.
b. Cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học
Cơ sở vật chất- kỹ thuật của các trương ĐH, CĐ và dạy nghề cũng tiếp
tục được cải thiện, đặc biệt là các trường thuộc diện được hỗ trợ từ các dự án
viện trợ hoặc ODA. Mặc dù vậy cơ sở vật chất nhìn chung vẫn chưa thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, tỷ lệ trường đạt tiêu chuẩn quốc gia tính
chung còn thấp. Phần lớn các trường đều chưa có phòng học bộ môn, phòng
bảo quản thiết bị, nhất là ở vùng núi, nông thôn. Cơ sở vật chất cần phải được
đầu tư hơn nữa để nâng cấp chất lượng giáo dục. Nếu giải quyết tốt khâu này
thì sẽ tạo một loạt các tác động tích cực dây chuyền. Đó là việc tăng chất
lượng giảng dạy của giáo viên, góp phần đổi mới chương trình học theo
hướng hiện đại làm tăng sự thu hút tìm tòi học hỏi và nghiên cứu của giáo
viên và học sinh.Một môi trường đào tạo tốt sẽ đáp ứng nhu cầu nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam trong tương lại. Ngoài kinh phí từ ngân sách nhà nước
còn có các tổ chức quốc tế, vốn vay của Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng
11

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phát triển Châu Á qua các dự án phát triển giáo dục ở các cấp học, bậc học.
Bằng việc thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư các dự án vào lĩnh vực
giáo dục cùng với các chính sách của nhà nước đối với giáo dục sẽ tạo đà cho
bước phát triển mới cho giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương II
Thực trạng đầu tư phát triển Giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam
Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn
nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
I. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển cho GD- ĐT ở
Việt Nam
1. Nguồn vốn đầu tư phát triển GD- ĐT
Nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục và đào tạo bao gồm:
- Ngân sách nhà nước
- Học phí, lệ phí tuyển sinh; các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển
giao công nghệ, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các cơ sở giáo dục; đầu tư
của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để phát triỂn giáo dục; các
khoản tài trợ khác của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo
quy định của pháp luật.
Bảng 2: Nguồn vốn đầu tư phát triển GD- ĐT giai đoạn 2001-2005
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
1.TổngVĐT(tỷ đồng) 25.882 34.088 37.552 54.223 68.968
Ngân sách 15.337 19.898 22.777 32.819 41.547
các nguồn khác 10.545 14.19 14.775 21.404 27.421
2. Tốc độ tăng(%) 31,7 10,2 44,4 27,2

Ngân sách 29,7 14,5 44,0 26,5
các nguồn khác 34,6 4,1 4,5 28,1
3. Tổng VĐT(%) 100 100 100 100 100
Tỷ trọng Vốn NS trên
tổng VĐT(%) 59 59 61 61 60
Tỷ trọng nguồn vốn khác
trên tổng VĐT(%) 41 41 39 39 40
(Nguồn: www.moet.gov.vn,sách , www.moet.gov.vn và NSNN)
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dựa vào kết quả bảng tổng hợp trên ta thấy rằng những kết quả trên cho
ta so sánh được mức trách nhiệm đóng góp cho giáo dục và đào tạo từ ngân
sách nhà nước và từ đóng góp của nhân dân. Người dân hiện nay ở Việt Nam
chi trả 40% chi phí giáo dục, trong khi ở các nước phát triển cao trung bình
dân chúng chỉ chi trả 20%, phần còn lại là từ ngân sách nhà nước. Mặc dù
tổng nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo tăng từ năm này qua
năm khác tuy nhiên tốc độ tăng của các nguồn qua 4 năm trong giai đoạn
2001-2005 không đều nhau cụ thể như sau: năm 2002 tốc độ tăng của tổng
nguồn cho giáo dục và đào tạo là 31.7% thì đến năm 2003 giảm xuống 10.2%
nhưng đến 2004 lại tăng đến 44,4%. Cơ cấu của các nguồn vốn đầu tư phát
triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001- 2005: Trong 5 năm từ năm 2001 đến
2005 thì mức độ đóng góp của nguồn vốn NSNN khá ổn định chiếm khoảng
50% trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển cho giáo dục và đào tạo.
1.1. Nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Như chúng ta đã biết ngân hàng sách nhà nước là một nguồn vốn quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và GD-ĐT nói
riêng. Sự hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn này không chỉ có ý nghĩa
riêng đối với sự nghiệp GD-ĐT mà còn có một ý nghĩa to lớn trong việc thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế của đất nước.
Theo Luật Giáo dục 2005 thì Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc

bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ tăng chi ngân sách giáo dục hằng
năm cao hơn tỷ lệ tăng chi ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc
công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát
triển kinh tế- xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước đối với giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí giáo dục đầy đủ, kịp
thời, phù hợp với tiến độ của năm học. Cơ quan quản lý nhà nước có trách
nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả phần ngân sách giáo dục được giao và các
nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.
Bảng 3: Ngân sách nhà nước đầu tư phát triển GD- ĐT giai đoạn
2000-2005
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
1.Tổng chi NSNN cho GD-
ĐT( tỷ đồng) 12.398 15.337 19.898 22.777 32.819 41.547
2.Chi thường xuyên ( tỷ
đồng) 8.88 10.816 14.128 18.625 25.927 32.406
Tỷ trọng so với tổng
NSNN(%) 71,6 70,5 71,0 81,7 79,0 78,0
3.Chi đầu tư (tỷ đồng) 3.518 4.521 5.77 4.152 6.892 9.141
Tỷ trọng so với tổng
NSNN(%) 28,4 29,5 29 18,3 21 22
(Nguồn Vụ kế hoạch- tài chính,Bộ GD-ĐT và sách: hệ thống những văn bản về chủ
trương, chính sách chiến lược phát triển GD Việt nam(đến 2020) và www.moet.gov.vn)
Qua bảng trên ta thấy rằng NSNN chi cho giáo dục đào tạo đã tăng thêm
trong các năm từ 2000 là 12.398 tỷ đồng sau 5 năm là năm 2005 là 41.547 tỷ
đồng. Như vậy ta có thể đánh giá rằng cùng với thời gian và sự phát triển nền

kinh tế Nhà nước ngày càng quan tâm hơn về vấn đề đầu tư cho tương lai của
đất nước. Trong đó bao gồm các khoản chi thường xuyên 2000 là 8.88 tỷ
đồng đến 2005 là 32.406 tỷ đồng.
Cùng tốc độ tăng của chi thường xuyên thì chi đầu tư cũng tăng qua các
năm từ năm 2000 là 3.518 tỷ đồng đến năm 2005 có 9.141 tỷ đồng tăng
61.5% so với năm 2000.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo các báo cáo của Bộ GD-ĐT, NSNN cho giáo dục năm 2006 tăng so
với năm 2005 là 13.940 tỷ đồng, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 11.400 tỷ
đồng, năm 2008 dự kiến tăng so với năm 2007 là 9.430 tỷ đồng. Riêng phần
ngân sách cho chi thường xuyên của năm 2006 là 42.625 tỷ đồng, của năm
2007 là 51.860 tỷ đồng. Sự gia tăng này chứng tỏ rằng trong tổng thể vốn
ngân sách thì chi đầu tư cho giáo dục được ưu tiên ở một vị trí rất quan trọng,
điều này đã góp phần thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục tới năm 2010 của
Đảng và Nhà nước.
Tuy ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tăng dần hàng năm nhưng do
quy mô giáo dục tiếp tục phát triển nên bình quân chi trên đầu học sinh, sinh
viên tăng không đáng kể. Trên thực tế, ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng được
khoảng 70% nhu cầu tối thiểu của giáo dục, trong đó tỷ lệ chi về tiền lương và
các khoản phụ cấp có tính chất lương vẫn chiếm khoảng 85-90%. Tức là kinh
phí chi cho các hoạt động góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vẫn hết sức
hạn hẹp. Mức chi giáo dục bằng ngân sách nhà nước trên 1 học sinh, sinh viên
của nước ta còn kém xa các nước tiên tiến trong khu vực.
Việc phân bổ ngân sách giáo dục hiện nay vẫn còn những bất hợp lý đối
với các tỉnh, thành cũng như các trường thuộc khối đào tạo. Các tỉnh vùng
sâu, vùng xa vẫn chưa thực sự được ưu tiên đúng mực. Việc cấp kinh phí còn
dựa vào định mức tổng hợp thô sơ, chưa tính toán được đầy đủ các nguồn
khác cũng như nhu cầu của các trường và cơ cấu giá thành đào tạo. Giáo dục
từ xa vẫn chưa được chú ý đầu tư.

Mặt khác tình trạng trong thời gian qua đang làm xôn xao dư luân xã hội
đã làm cho gây mất lòng tin của Đảng và Nhân dân vào chất lượng giáo dục,
để giải quyết hiện tượng tiêu cực Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp như
tăng cường việc kiểm tra giám sát, phát động phong trào chống tiêu cực trong
ngành giáo dục. Năm học mới 2007- 2008 ngành giáo dục và đào tạo sẽ tiếp
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tục thực hiện cuộc vận động đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong
giáo dục, với "căn bệnh" thành tích để nâng cao chất lượng dạy và học.
1.2. Các nguồn vốn khác
Bên cạnh nguồn vốn ngân sách nhà nước thì nhà nước cũng khuyến
khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân đầu tư, đóng góp trí tuệ , công sức,
tiên của cho giáo dục. Ngoài ra học phí, lệ phí tuyển sinh cũng là một nguồn
đầu tư vô cùng quan trọng của giáo dục. Học phi, lệ phí tuyển sinh là khoản
tiền của gia đình người học hoặc người học phải nộp để góp phần bảo đảm chi
phí cho các hoạt động giáo dục. Học sinh tiểu học trường công lập không phải
đóng học phí. Ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người học hoặc gia đình
người học không phải đóng góp khoản tiền nào khác.
Chính phủ quy định cơ chế thu và sử dụng học phí đối với tất cả các loại
hình nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Hiện nay, mức đóng góp cho chi phí
giáo dục của gia đình và người đi học, theo ước lượng của một vài chuyên
gia, là 44,5% cho tiểu học; 48,7% cho Trung học cơ sở; 51,5% cho Trung học
phổ thông; 30,7% cho cao đẳng và đại học. Như vậy tổng số chi phí của tư
nhân cho giáo dục là khoảng 44%, nghĩa là 2,4%GDP. Tính đến năm 2005 chi
tiêu cho giáo dục và đào tạo ở Việt Nam chiếm 8,3% GDP, vượt cả Mỹ chỉ có
7,2%. Trong chi tiêu đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo thì ở các nước phát
triển cao chi trả 20% còn ở Việt Nam dân chi trả tới hơn 40%.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, thu hút
đầu tư từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Theo ước tính, từ năm
1990 đến nay, tổng giá trị đóng góp của các doanh nghiệp và nhà hảo tâm cho

ngành giáo dục lên tới trên 1.200 tỉ đồng và khoảng 1,5 triệu m
2
đất.
Bên cạnh đó, trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay nước ta ngày
càng mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực, trong
đó có cả lĩnh vực giáo dục đào tạo. Hầu hết nguồn vốn này đến từ các nước
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dưới hình thức hỗ trợ, cho vay chứ rất ít có ở dạng đầu tư trực tiếp nước
ngoài, điều này chứng tỏ thị trường giáo dục ở nước ta chưa hấp dẫn được các
nhà đầu tư. Trong khi đó thì tại rất nhiều các công ty tư vấn giới thiệu du học
nước ngoài, cùng với rất nhiều các cuộc hội thảo du học do các trường, các
trung tâm tổ chức.
Tóm lại, xét trên phạm vi cả nước và trong toàn bộ hệ thống GD-ĐT, các
trường công lập đang đào tạo khoảng 86,27% tổng số HS, SV. Tổng chi của
Nhà nước cho GD-ĐT chiếm 75% tổng chi xã hội cho GD-ĐT, 13,73% tổng
số HS, SV đang học trong các trường ngoài công lập, tổng đóng góp của
người dân chiếm 25% tổng chi cho GD- ĐT.
Bắt đầu từ năm học 2007-2008, HS học nghề, SV CĐ-ĐH có hoàn cảnh
khó khăn được vay vốn để học với quy mô lớn. Điều này sẽ hỗ trợ học sinh
thông qua đó giảm mức đóng góp của gia đình có hoàn cảnh khó khăn cho
học tập giảm như vậy sẽ đảm bảo được cuộc sống cho bộ phận dân cư này.
Để sử dụng có hiệu qủa các nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục huy
động được để nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo tạo tiền đề cho
phát triển kinh tế là một vấn đề đặt ra nhiều thách thức mà cần phải có sự nỗ
lực và cố gắng bền bỉ của không chỉ nhà nước mà là của toàn dân.
2. Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển vào lĩnh vực GD-ĐT tại Việt
Nam trong thời gian qua.
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vì vậy việc thực hiện vốn đầu

tư phát triển GD-ĐT đạt hiệu qủa sẽ góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT.
Sau đây là bảng tổng kết:
18

×