Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Lời Cảm Ơn
Với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục và
đào tạo của đất nước. Thực sự góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay. Tôi đã mạnh dạn
chọn đề tài Nghiên cứu tâm lí học sinh để nâng cao hiệu quả giảng dạy bằng
giáo án điện tử. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này, tôi đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ của đông đảo các bạn sinh viên , các thầy cô giáo
trong khoa vật lí- tổ vật lí kỹ thuật và các thầy cô giáo trong tổ tâm lí học. Đặc
biệt là ThS Nguyễn Mẫu Lâm- GV khoa Vật Lí, người đã trực tiếp hướng dẫn,
dìu dắt, chỉ bảo tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Qua đây, tôi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô cùng các bạn sinh viên
khoa Vật Lí. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc
nhất tới thầy Nguyễn Mẫu Lâm.
Xuân Hoà, ngày 07 tháng 05 năm 2007
Nguyễn Thị Toàn
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
1
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
A - Mở đầu
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của các nghành khoa học kỹ thuật đã và
đang phục vụ lợi ích thiết thực của con người trong tất cả các lĩnh vực về kinh
tế, văn hoá, xã hộiĐặc biệt nó đã phát huy sức mạnh trong giáo dục và đào
tạo.Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học trong
giáo dục và đào tạo là xu thế tất yếu trong giai đoạn hiên nay. Giảng dạy bằng
giáo án điện tử đã và đang được sử dụng rộng rãi do những tính năng ưu việt
của nó. Thế nhưng, qua tìm hiểu thực tế dạy học ở trường phổ thông hiện nay
tôi nhận thấy không ít giáo viên còn lúng túng trong việc soạn giảng giáo án
điện tử, không tận dụng hết những tính năng ưu việt của giáo án điện tử. Làm
hạn chế khả năng tự tin trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
Dạy học là một quá trình được lập kế hoạch tỉ mỉ và khảo nghiệm chặt chẽ.
nhằm thiết lạp một cách thức truyền đạt thông tin hợp lí trong một môi trường
sư phạm thích hợp. Từ đó dẫn dắt người học đạt được mục tiêu, kết quả học tập
tốt nhất. Chỉ xét riêng đến cách thức truyền đạt thông tin của mỗi giáo viên khi
giảng dạy bằng giáo án điện tử cũng đã có những phương pháp dạy học khác
nhau. Nó tuỳ thuộc vào mức độ khảo nghiệm học sinh, các thức lập kế hoạch
giảng dạy của mỗi người. Trong những năm gần đây những thành tựu của tâm
lý học và lý luận dạy học đã cho thấy phương pháp dạy học bằng giáo án điện
tử đạt hiệu quả tốt nhất khi giáo viên biết dựa vào đặc điểm tâm lý lứa tuổi học
sinh. Từ đó tìm ra cách thức truyền đạt thông tin hợp lý và cách thức soạn giáo
án điện tử phù hợp với từng lứa tuổi học sinh. Mỗi học sinh là một chủ thể tiếp
nhận chủ động và sáng tạo. Chịu sự qui định của hoàn cảnh, môi trường, đặc
điểm cấu trúc tâm lý, sinh lý của chính con người đó. Thực vậy, những nghiên
cứu về tâm sinh lý trong dạy học dã chỉ ra rằng, mỗi giác quan của con người
có khả năng tiếp nhận một khối lượng thông tin rất khác nhau trong cùng một
thời gian. Để đánh giá khả năng tiếp nhận thông tin của học sinh trong một đơn
vị thời gian, người ta dùng khái niệm năng lực dẫn thông. Năng lực dẫn thông
là khả năng tiếp nhận thông tin trong một dơn vị thời gian. Năng lực dẫn thông
củ đường tiếp thu bằng thị giác khoảng 3.000000 bit/s, của đường tiếp thu bằng
thính gíc khoảng 30.000 50.000 bit/s, của đường khứu giác khoảng 10 100
bit/s. Như vậy năng lực dẫn thông của đường tiếp thu thông tin bằng thị giác lớn
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
2
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
gập 100 lần đường thính giác. điều này chứng tỏ ưu điểm của phương pháp dạy
học trực quan, giảng dạy bằng giáo án điện tử hơn rất nhiều so với phương pháp
dạy học dùng ngôn ngữ trước đây. Mặt khác thông tin truyền đạt theo đường
thính giác chỉ có thể tiếp thu được sau khi nghe truyền đạt hết một thông báo
hay một mệnh đề nào đó về mặt logic. Thông tin truyền đạt theo đường thị giác
cùng một lúc cho hình ảnh trọn vẹn với tất cả các chi tiết của nó. Nghệ thuật
của giáo viên là phải kết hợp, sử dụng khả năng truyền đạt thông tin theo các
đường tiếp nhận thông tin khác nhau của học sinh. Để qua bài giảng học sinh
lĩnh hội được lượng thông tin lớn nhất mà giáo viên muốn truyền đạt.
Chính vì những lý do trên, và với ý nghĩa nghiên cứu thực tiễn để thực sự
nâng cao hiệu quả giảng dạy bằng giáo án điện tử, phục vụ tốt nhất cho việc
dạy và học mà tôi chọn đề tài này.
1. Mục đích đề tài:
Nhằm tìm ra cách thiết kế và xây dựng bài giảng bằng giáo án điện tử sao
cho tối ưu nhất. Đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm lí học sinh ở từng lứa tuổi.
Giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và nắm vững các thông tin do người dạy truyền
đạt.
2. Nhiệm vụ đề tài:
+ Tìm hiểu về đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh và tâm lí học sư phạm.
Mối liên hệ giữa hai chuyên nghành tâm lí này.
+ Tìm hiểu về cách thiết kế một giáo án điện tử
+ ứng dụng của giáo án điện tử để giảng dạy sao cho phù hợp với tâm lí
lứa tuổi của học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh và tâm lí học sư phạm.
- Các bài giảng bằng giáo án điện tử.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu lí luận: dựa trên những đặc điểm tâm lí học sinh để đưa ra
cách thiết kế một bài giảng bằng giáo án điện tử.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
3
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
5. Kết cấu
Luận văn bao gồm các phần sau đây:
Chương 1:
Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh và tâm lí học sư phạm.
Chương 2:
Nâng cao chất lượng giảng dạy bằng giáo án điện tử
Chương 3:
Thiết kế bài giảng điện tử
Phần kết luận:
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
4
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Chương 1
Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh và tâm lí học sư phạm
1-Khái quát về tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm.
1.1-Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm.
Tâm lí học và tâm lí học sư phạm là 2 chuyên nghành tâm lí cùng nghiên cứu
tâm lí người.Nhưng không phải là con người đả trưởng thành mà là con người ở
các giai đoạn phát triển về tư duy, trí tuệ.
a-Đối tượng
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của các quá trình, và các phẩm chất
tâm lí riêng lẻ, của các cá nhân, ở các lứa tuổi khác nhau và sư khác biệt của
chúng trong phạm vi cung một lứa tuổi.Nghiên cứa những khả năng lứa tuổi
của linh hội các tri thức , phương thức hành động.
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của tri giác nhìn, tri giác nghe, và sư
tác động qua lại giữa chúng ở từng lứa tuổi
Tâm lí học lứa tuổi nghiên cứu các dang hoạt động khác nhau của các cá nhân
đang được phát triển. Mỗi dạng hoat động có vai trò tác dụng khác nhau đối với
sự phát triểnnhân cách ơ từng lứa tuổi. Mỗi một giai đoạn phát triển có một
dạng hoạt động vừa sức và đặc trưng của nó.
Tâm lí học sư pham nghiên cứu những vấn đề tâm lí học của việc điều khiển
các quá trình dạy học. Nghiên cứu sự hình thành các quá trình nhận thức, tìm
tòi những tri thức mới của học sinh.
Tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện để
đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy học. Xem xét mối
quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, cũng như mối quan hệ qua lại giữa
học sinh với nhau.
b-nhiêm vụ
Từ những nghiên cứu trên, tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm có nhiệm
vụ rút ra những qui luật trung của sư phát triển nhân cách theo lứa tuổi .Rút ra
những qui luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng , kỹ sảo trong quá trình dạy học và
giáo dục.
Những biến đổi tâm lí của học sinh do quá trình day học tác động. Từ đó cung
cấp kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lí quá trình sư phạm . Nhằm mục đích
nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học và giáo dục.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT 5
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
1.2-quan hệ giữa tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm
Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm đều thuộc chuyên nghanh tâm lí
học.2
chuyên nghành này gắn bó chặt chẽ thống nhất với nhau vì chúng có chung
khách thể nghiên cứu . Con người ở những giai đoạn phát triển khác nhau như :
trẻ nhỏ thiếu niên, thanh niênlà những khách thể nghiên cứu của tâm lí học
lứa tuổi (nếu nghiên cứu theo động thái của sự phát triển theo lứa tuổi). Còn
chúng là khách thể của tâm lí học sư phạm (nếu chúng được nghiên cứu với tư
cách là người được dạy, và được giáo dục trong quá trình tác động có mục đích
của nhà giáo dục).
Cả tâm lí học lứa tuổi va tâm lí học sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá
trinh dạy học và giáo dục. Cùng phuc vụ đặc lực cho sự phát triển của chính đứa
trẻ đó. Do vây sự phân danh giới giữa 2 chuyên nghành có tính chất tương đối.
2-Đậc điểm tâm lí lứa tuổi vườn trẻ(1-3 tuổi)
2.1-những thành tựu quan trọng nhất của tuổi vườn trẻ
Trong quá trình phát sinh cá thể, trong những khoảng thời gian như nhau thì
tâm lí con người đã trải qua nhiều chặng đường phát triển khác nhau. Những
biến đổi về chất diễn ra trong 3 năm đầu tiên rất đáng kể. Vì vậy nhiều nhà tâm
lí học khi nghĩ về trung tâm của con đường phát triển trí tuệ tư lúc lọt lòng cho
đến khi tưởng thành là khi nào? - đó là khi 3 tuổi.
Sự biết đi có ảnh hưởng lớn đến sự phat triển tâm lí trẻ. Đứa trẻ thường xuyên
bị mất cân bằng và ngã. Cái gì buộc đứa trẻ khắc phục sư sợ hãi và cố găng để
đi tiếp, đó là khả năng đạt được mục đích của chính đứa trẻ và sự khuyến khích
của một lời nói, một nụ cườikích thích ý muốn đạt được mục đích của nó.
Sau khi đã đạt được mục đích của mình, làm chủ được bước đi. Chúng ta cần
phat triển khả năng định hướng trong không gian cho trẻ. Khi trẻ đi gần đến đồ
vật mà nó đang nhìn, đứa trẻ hiểu được phương hướng và khoảng cách của vật
đó 1 cách thực tế. Để kich thích trẻ cần cho chúng nhìn thấy những hình ảnh
động hấp dẫn. Buộc đứa trẻ cố gắng bước tới những hình ảnh mà nó nhìn thấy.
Tuổi vườn trẻ thời kì nhạy cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ. Chính trong
thời gian này sự lĩnh hội ngôn ngữ diễn ra có hiệu quả nhất. Đứa trẻ bắt đầu
thích thú nghe bất kỳ một lời nói nào từ người lớn kể cả những lời nói không
nhằm vào nó.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
6
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Trước 1 tuổi rưỡi trẻ lĩnh hội được 40-100 từ, vào khoảng 1 tuổi rưỡi trẻ bắt
đầu có sáng kiến hơn . Nó bắt đầu thường xuyên đòi hỏi người ta gọi tên những
đồ vật cho nó biết. Nhịp độ phát triển ngôn ngữ tăng lên. Đến cuối lên 2 trẻ sử
dụng 300 từ, cuối tuổi lên 3 là 1500 từ.
Sự phát triển ngôn ngữ đòi hỏi sự lĩnh hội của các khía cạnh âm thanh và cấu
tạo ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ. Nếu lúc đầu trẻ tiếp nhận ngôn ngữ bằng cách
nghe được cấu trúc và âm điệu chung của từ. Thì đến cuối tuổi lên 2 trẻ bắt đầu
tri giác ngữ âm.Trên cơ sở này trẻ làm chủ đươc vốn từ, tích cực phát âm đúng
các từ
Sự hình thành và phát triển ngôn ngữ tích cực là cơ sở cho toàn bộư phát triển
tâm lí của trẻ.
2.2- Sự hình thành tư duy trong tuổi vườn trẻ
Sự hình thành tư duy trong tuổi vườn trẻ phụ thuộc vào 2 yếu tố:
+Một là, vào hoạt động của bẩn thân trẻ (kinh nghiệm cảm tính của trẻ)
+Hai là, phụ thuộc vào ảnh hưởng của người lớn dạy nó, cách thức hành động
và nêu những tên gọi khái quát của đối tượng.
Dù kinh nghiêm thưc hành cá nhân có ý nghĩa như thế nào trong sự phát triển
tư duy thì môi trường xã hội xung quanh vẫn có ảnh hưởng đặc biệt đến sự phát
triển tư duy của trẻ.
Những hành động công cụ đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tư duy.
Công cụ gián thực hiện tác động của trẻ đên thế giới đối tượng. Được sử dụng
trong những hoàn cảnh khác nhau, công cụ trở thành vật đầu tiên chứa đựng sự
khái quát hoá.
Trong tuổi vườn trẻ, từ ngữ của người lớn có thể thúc đẩy sự phát triển tư duy
hành động trực quan của trẻ. Người lớn có thể nhắc cho trẻ cách giải những bài
toán tình huống không phải bằng hành động mà bằng lời.
Do vậy chúng ta có thể dựa trên cơ sở này để thiết kế 1 giáo án điện tử trong
đó ngoài những hình ảnh dẹp, sống động còn chú ý cài đặt lời nói, âm thanh
nhằ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ.
3 Những đặc điểm tâm lí của trẻ em ở tuổi mẫu giáo ( 3-7 tuổi )
Từ 3 -7 tuổi, ở trẻ em xảy ra sự trưởng thành nhanh chóng về hình thái cũng
như não bộ: trọng kượng của não tăng nahnh chóng (từ 1.100gram lên
1.300gram), vai trò điều chỉnh và kiểm tra của bán cầu đại não được tăng cường
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
7
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
đối với các trung tâm dưới vỏ. Bộ xương được cốt hoá, cơ to ra, cơ quan hô hấp
và tuần hoàn phát triển tốc độ hình thành những phản xạ có điều kiện tăng
nhanh, các bộ máy nhạy cảm phát triển mạnh. những sự phát triển như vậy của
hệ thần kinh và cơ thể là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển những chức năng
tâm lí cao.
Trong tuổi mẫu giáo trò chơi là dang hoạt động chủ đạo. Trò chơi tạo nên
những thay đổi về chất trong tâm lí trẻ. Trong trò chơi đã có những cơ sở của
hoạt động học tập .
Khát vọng của trẻ tham gia cuộc sống chung của người lớn không thể thoả
mãn trên cơ sở hoạt động chung. Trẻ đầu thoả mãn nhu cầu này trong trò chơi ,
trẻ học ở người lớn cách thay thế vật thật . Hoạt động vui chơi góp phần phát
triển chú ý có chủ định và trí nhớ có chủ định. Trong điều kiện vui chơi trẻ tập
trung chú ý tốt hơn và ghi nhớ nhiều hơn.
Trong trò chơi mục đích tri giác tập trung chú ý, ghi nhớ và nhớ lại đối với
trẻ được tách ra sớm hơn và dễ dàng hơn. Chính những điều kiện của trò chơi
đòi hỏi những người tham gia phải tập trung vào các đối tượng được đưa vào
hoàn cành trò chơi. Nếu đứa trẻ không nhớ những điều kiện của trò chơi thì rứt
khoát là bạn bè sẽ đuổi nó ra. Nhu cầu giao tiếp và nhu cầu được động viên về
mặt tình cảm buôc trẻ phải tâp trung chú ý và ghi nhớ có mục đích.
Trò chơi có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ . Hoàn cảnh vui chơi
đòi hỏi mỗi đứa trẽ tham gia vào trò chơi phải có năng luạc giao tiếp nhất định
.Nếu đứa trẻ không nói lên được ý muốn của mình về tiến trinh của trò chơi. Nó
không hiểu được lời chỉ dẫn của ban bè thì nó sẽ không được tham gia trò chơi.
trong trương hơp nay sư bất lơi sẽ là động lực để phát triển ngôn ngữ.
Trò chơi ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ. Trong trò chơi trẻ học được cách
khái quát các đối tượng và hành động tập trung sử dụng nghĩa khái quát của
từgia nhập vào tinh huống trò chơi là điều kiện phát triển những hình thức
hoạt động trí tuệ khác nhau của trẻ. Trong trò chơi phân vai đã bắt đầu phát
triển khả năng hanh động trong bình diện tư duy. Tất nhiên, lúc ban đầu những
hành động trong bình diện tư duy chỉ diễn ra dựa trên những đối tượng có thực
và từ những hành động thực mà nó đặt cho cái tên mới và cả những chức năng
mới. Đứa trẻ dần dần chuyển sang những hành động bên trong, thật sự là những
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
8
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
hành động trí tuệ. Cơ sở để chuyển sang những hành động trí tuệ là sự rút gọn
và khái quát những hành động trò chơi
Cái chủ yếu trong nội dung trò chơi của trẻ em ở tuổi mẫu gáo lớn là sự phục
tùng các quy tắc, sự tự giới hạn mình, kỷ luật trong những quan hệ được đưa lên
hàng đầu.Trong trò chơi trẻ dễ dàng phối hợp hành động, phục tùng nhường
nhịn nhau.
Đăc biệt trong những trò chơi khác nhau: kể chuyện, vẽ tranh,giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ và tư duy của trẻ. Khả năng suy luận và tưởng tượng, tài khéo
léo của trẻ để đạt mục đích của chúng.
Hoạt động vẽ của trẻ thu hút thực sự chú ý của các nhà nghiên cứu nhiều hơn
cả. Đặc biệt những bức vẽ của trẻ mẫu giáo có những nét độc đáo. Trong hình
vẽ đó thường vi phạm tỉ lệ đúng đắn về độ lớn của các đối tượng như: bông hoa
có thể to hơn ngôi nhàTrong những trường hợp thế này khi day trẻ học vẽ
.Chúng ta sẽ đưa một số tranh ảnh đẹp lên máy chiếu. Nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ
cho các đối tượng được vẽ trên tranh. Kết hợp vơi sự hướng dẫn và lời nói của
cô giáo giúp trẻ hình dung dễ dàng: cần phải phân biệt đươc cái gì nhỏ hơn cái
gì, giúp trẻ tư duy tương tượng dễ hơn.
Day học có vai trò quyết định trong sư hình thành tư duy. Những công trình
nghiên cứu trong những năm gần đây đã chỉ ra rằng, nhiều đặc điểm tư duy của
trẻ em mẫu giáo mà trước đây người ta đã coi là những dấu hiệu không thể
tranh khỏi lứa tuổi nhưng thực ra chúng lại do những điều kiện của cuộc sống
và hoạt động của trẻ tạo ra và có thể bị thay đổi khi thay đổi nội dung và các
phương pháp dạy học ở mẫu giáo.Trẻ em từ 5-6 tuổi dễ dàng lĩnh hội được
những tri thức về một vài tính chất vật lí chung và trạng thái của vật thể ..Với
những hình thức dạy học phù hợp
(hình thành hành động trí tuệ theo theo giai đoạn) trẻ em mẫu giáo sẽ nắm vững
được những khái niệm có giá trị và những phương pháp tư duy logic.
Tuổi mẫu giáo là lứa tuổi mà chú ý và ghi nhớ không chủ định chiếm ưu thế.
Trẻ chú ý đến những cái nó có hứng trhú trực tiếp trực tiếp. Những cái kích
thích cảm xúc cảm xúc và trẻ ghi nhớ, những cái lôi cuốn sự kích thích của nó
và tự ghi nhớ được. Những hình ảnh trực quan được trẻ ghi nhớ dễ dàng hơn
nhiều những hình ảnh bằng lời. Thậm trí khi ghi nhớ một đoạn văn thì âm điệu
và âm vận thường có ý nghĩa lớn hơn so với nội dung. Bước ngoặt trong sự phát
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
9
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
triển trí nhớ là sự nảy sinh hành động trí nhớ đặc biệt. Khi có những hành động
đó trẻ có thể đặt cho mình mục đích ghi nhớ và bắt đầu cho mình những
phương thức để ghi nhớ .
4- Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học
Mỗi giai đoạn phát triển tâm lí của trẻ được đặc trưng bởi một dạng hoạt động
cơ bản, chủ đạo.đối với tuổi mẫu giáo thì trò chơi là hoạt động chủ đạo. Chỉ khi
bước vào 7 tuổi đứa trẻ mới là học sinh. Từ đó trò chơi mất dần vai trò hàng đầu
của nó trong đời sống của trẻ. Hoạt động học tập là hoạt động học tập chủ đạo
của học sinh nhỏ. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển
của trẻ so với hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo. Mở ra nguồn phát triển
mới của học sinh tiểu học .
Quá trình nhân thức của học sinh tiểu học có 5 đặc điểm tâm lí sau:
4.1- chú ý của học sinh tiểu học
Chú ý là một trạng thái tâm lí của học sinh giúp học sinh tập trung vào một
hay một số đối tượng . Tạo điều kiện cho các đối tượng này được phản ánh tót
nhất
Có 2 loại chú ý là: chú ý không chủ định và chú ý có chủ định:
Chú ý không chủ định có trước tuổi học và vẫn tiếp tục hình thành , phát triển
ở học sinh tiểu học.Những gì mang tnhs mới lạ dễ gây cho họ sinh loại chú ý
này.Trong tiết học giáo viên sư dụng đồ dùng dạy học phải đảm bảo tinh mỹ
thuật. Cho học sinh quan sát tranh ảnh, các hình ảnh động trên máy tính Sẽ
làm xuất hiện loại chú ý này.
Chú ý có chủ định là loại chú ý đặt ra từ trước, khi cần có sự nỗ lực của ý chí .
Loại này được hình thành và phát triển do yêu cầu của hạt động học vì có chú ý
thì mới hiểu được bài giảng của giáo viên.
Học sinh lớp 1 3 chưa ý thức được tại sao phải chú ý nên ở giai đoạn này còn
phát triển non yếu chưa bền vững.
Học sinh từ lớp 4 5 đã ý thức được tại sao phải chú ý nên ơ giai đoạn này
chú ý có chủ định phát triển ổn định và bền vững hơn.
4.2- tri giác của học sinh tiểu học
Mức độ phát triển ao của tri giác là quan sát. Quan sát là tri giác có mục đích ,
có kế hoạch nhằm thu thập dữ liệu, số liệu, hình ảnh sự vật của đối tượng
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
10
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Tri giác của học sinh tiểu học còn gắn liền với tổng thể của sự vật mà không đi
sâu vào các chi tiết, các thành phần của sự vật đối tượng.
Tri giác của học sinh còn gắn liền với hoạt động vật chất nghĩa là tri giác sự
vật, phải làm gì với sự vật đó.
Tính cảm xúc cao thể hiện khi tri giác nghĩa là những sự vật, hiện tượng gây ra
cảm xúc thì học sinh tri giác nhanh hơn. Do vậy khi thiết kế bài giảng cho học
sinh cần đảm bảo tính mỹ thuật, trình bày khoa học là một trong những điều
kiện để học sinh tri giác nội dung bài tốt hơn.
Các loại tri giác được hình thành và phát triển từ lớp 1- 5 . Học sinh ở các cấp
học này khó tri giác những vật có kích thước quá lớn hoặc quá bé, khó phân
biệt được thời điểm và thời gian.
4.3- trí nhớ của học sinh tiểu học
Học sinh tiểu học ghi nhớ máy móc rất tốt. Đặc điểm này thấy rõ ở học sinh
lớp 1 lớp 2. Nghĩa là học sinh lập đi lập lại tài liệu để ghi nhớ nhưng không hiểu
được nội dung của bài. Nguyên nhân là do:
+ học sinh chưa ý thức được ghi nhớ tài liệu để làm gì
+ ngôn ngữ còn hạn chế nên nhớ chính xác từng câu, từng chữ trong sgk dễ hơn
bằng ngôn ngữ của mình.
Một biện pháp để khắc phục hạn chế nêu trên là hình thành cho học sinh tiểu
học ghi nhớ logic. Học sinh không chỉ ghi nhớ được tài liệu mà còn hiểu được
nội dung của tài liệu. Trí nhớ trực quan của hình ảnh phát triển hưn trí nhớ từ
ngữ rất nhiều .
Các hình ảnh động được xây dựng trên giáo án điện tử nếu vừa đảm bảo được
nội dung của tài liệu vừa hình thành cho hoc sinh cách ghi nhớ logic sẽ giúp
học sinh dễ tiếp thu tài liệu và ghi nhớ lâu hơn.
4.4- Tưởng tượng của học sinh tiểu học
- Tưởng tượng tái tạo : là học sinh hình dung lại những gì đã nghe, đã nhìn
thấy , đã cảm nhận được trong quá khứ
- Tưởng tượng sáng tạo : là quá trình học sinh tạo ra hình ảnh hoàn toàn mới
mà các em chưa từng gặp
Tính mục đích, tính có chủ định trong quá trình tượng tượng của học sinh tiểu
họ tăng lên rõ rệt.Vì học sinh muốn tiếp thu được tri thức thì phải tá tạo cho
mình các hình ảnh hiện thực.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
11
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Hình ảnh tượng của học sinh còn tản mạn, ít có tổ chức. Đặc điểm này thể
hiện rõ ở học sinh lớp 1, lớp 2 đến lớp 4, lớp 5. Hình ảnh của tưởng tượng hoàn
chỉnh hơn cấu trúc chặt chẽ hơn.
Tính trực quan trong hình ảnh tưởng tượng giảm dần từ lớp 1 đến lớp 5. ở lớp
1, lớp 2 hình ảnh tưởng tượng còn mang đậm tính trực quan . Muốn phát triển
tưởng tượng cho học sinh thì phải cung cấp cho học sinh các hình ảnh mang
tính chất mô tả. Các hoạt động của vật thể của đối tượng trên màn hình kết hợp
với sự hướng dẫn của giáo viên để đảm bảo cho giờ học gây được hứng thú cho
học sinh, phát triển tưởng tượng của học sinh.
Hình thành và phát triển tượng cho học sinh phả thông qua truyền thụ tri giác
các môn học cho học sinh và tạo cho học sinh cách tạo ra hình ảnh mói.
4.5- tư duy của học sinh tiểu học
Tư duy là quá trình học sinh phản ánh những thuộc tính, bản chất của đối
tượng. Sản phẩm của tư duy là khái niệm, do đó để tiếp thu hệ thống các khái
niệm, các môn học thì phải hình thành cho học sinh khả năng tư duy và năng
lực tư duy.
ở học sinh tiểu học có 2 loại tư duy:
+tư duy kinh nghiệm, tư duy cụ thể: đó là loại tư duy hướng vào giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể bằng các thao tác bằng tay hoặc phản ánh các thuộc tính
trung bề ngoài của các đối tượng
+ tư duy trừu tượng, tư duy lí luận: đó là loại tư duy hướng vào giải quyết các
nhiệm vụ lí luận, bằng cách sử dụng các khái niệm các kết cấu lôgic, được thay
thế bằng các ngôn ngữ kí hiệu.
Giai đoạn này thì tư duy kinh nghiệm, tư duy cụ thể vẫn chiếm ưu thế.Còn tư
duy trừu tượng, tư duy lí luận mới bắt đầu được hình thành. Do vậy giáo viên
có nhiệm vụ hình thành và phát triển tư duy trừu tượng nhưng phải dựa vào tư
duy cụ thể và được tiến hành như sau:
- Giáo viên nêu nhiệm vụ nhân thức và sử dụng các phương tiện trực quan vật
thật hoặc các hình ảnh của vật thật trên máy tính
- Tổ chức cho học sinh các hoạt động với vật thật hoặc các hình ảnh về vật
thật như thao tác trên que tính, quan sát các mô hình được trình chiếu.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
12
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
- Giáo viên thay thế vật thật hoặc hình ảnh thật ằng sơ đồ kí hiệu. Tổ chức
cho hóc sinh bằng hình ảnh động với sơ đồ kí hiệu để tiếp thu khái niệm.
Đó cũng chính là quá trình hình thành và phat triển tư duy tưởng tượng .
*Đặc điểm các thao tác tư duy:
+ Các thao tác tư duy đã liên kết với nhau thành tổng thể bằng tính thuận
nghịch. Nhờ đó học sinh nhân thức được cái không thay đổi khi biến đổi xuôi
và ngược.
Từ đó trong tư duy có một bước tiến quan trọng là phân biệt được định tính và
định lượng. Đó là điều kiện ban đầu để học sinh tiếp thu khái niệm.
+Tuy nhiên các thao tác tư duy mới chỉ là liên kết với nhau theo từng phần với
từng bộ phận của học sinh. Chưa thể hình dung cùng một lúc các tổ hợp có thể
có. Cho nên phương pháp thử là sai, mò mẫm vẫn chiếm vai trò quan trọng
trong quá trình tư duy.
*Đặc điểm khái quát hoá:
Phần lớn các em đều căn cứ vào các dấu hiệu bề ngoài để khái quát thành khái
niệm để khắ phục thực trạng này giáo viên cần phải hình thành cho học sinh
khái quát hoá nội dung bằng cách chọn sự vật, hiện tượng điển hình hướng dẫn
học sinh phân tích chứ không phải so sánh để làm bộc lộ các dấu hiệu bản chất
của khái niệm. Và hướng dẫn học sinh phân tích liên kết các khái niệm đó để
hình thành khái niệm.
*Đặc điểm phán đoán và suy luận:
Tư duy ở giai đoạn này còn gắn liền với chuẩn mực thực tế kinh nghiệm của
các em khó chấp nhân quá trình không thực. Khi suy luận từ nguyên nhân ra
kết quả thì dễ dàng hơn từ kết quả ra nguyên nhân
sự phát triển tư duy và ngôn ngữ không đồng đều.Một số nói nhiều nhưng lại
thiếu về mặt nội dung.Còn một số em không đủ ngôn ngữ để diễn đạt ý hiểu
của mình. Do vậy nhiệm vụ của chúng ta không chỉ hìng thành tri thức cho học
sinh mà còn hình thành ngôn ngữ cho các em thông qua giáo án điện tử.
Về bản chất, hoạt động học tập có đặc điểm là đối tượng hoạt động của nó
chính là các khái niệm khoa học, các qui luật khoa học và các phương thức
chiếm lĩnh nó. ở đây việc lĩnh hội tri thức, những kỹ năng, kỹ sảo là mục đích
cơ bản và là kết quả chủ yếu của hoạt động. Do đó khi chuyển sang hoạt động
mới ở giai đoạn đầu học sinh nhỏ gặp phải một số khó khăn và trở ngại nhất
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
13
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
định. Những khó khăn liên quan đến việc giảm sút hứng thú học tập của học
sinh vào khoảng tháng3,4 của năm học.
Biểu hiện của nó là một số học sinh đầu năm học rất hứng thú học tập, rất chăm
chỉ gương mẫu tực hiện đầy đủ những yêu cầu của giáo viên. Nhưng sau vài
tháng học tập hứng thú của trẻ giảm sút, trẻ thờ ơ với những bài học, uể oải và
chểnh mảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập. Nguyên nhân chủ yếu
là do quá trình dạy của giáo viên không khơi gợi, kích thích trí tò mò, sự ham
học hỏi, hiểu biết củ học sinh. Phần nhiều nguyên nhân này nằm trong chính
nội dung phương thức giảng dạy của giáo viên. Nhiều công trình nghiên cứu
tâm lí dạy học đã cho thấy cách dạy học áp đặt, truyền thụ những tri thức đã có
sẵn quá dễ so với những năng lực phát triển của học sinh, cũng như cách giao
tiếp thiếu nhân ái căng thẳng đã gây nên tình trạng trên.
5- Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
ở thời kỳ đầu của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở chưa có kỹ năng cơ bản để
tổ chức tự học. Các em chỉ tự học khi được giao bài tập, sau khi chuyển sang
mức độ cao hơn các em bắt đầu hình thành mức độ họ tập cao nhất.
thái độ học tập của học sinh THCS cũng rất khác nhau được biểu hiện như sau:
+ trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập :từ chỗ có kỹ năng học tập độc lập
có nhiều cách học đến mức hoàn toàn chưa có kỹ năng học tập độc lập. Chỉ biết
học thuộc lòng từng câu từng chữ.
+trong hứng thú học tập : từ hứng thú biểu hiệm rõ rệt đối với một lĩnh vực tri
thức nào đó cho đến mức độ hoàn toàn không có hứng thú nhận thức học tập.
+ trong thái độ học tập : từ thái độ tích cực đến thái độ thờ ơ lười biếng
+ trong sự hiểu biết trung : từ mức độ phát triẻn cao và sự ham hiểu biét nhiều
lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em. Nhưng ở một số em khác thì mức độ
phát triển rất yếu, tầm hiểu biết còn hạn chế.
Để giúp các em có thái độ đúng đắn với việc học tập thì:
+tài liệu học tập hay giáo án phải xúc tích về mặt nội dung khao học
+giáo án phải gắn liền với tâm lí của các em, giúp các em hiểu rõ ý nghĩa nội
dung của giáo án
+giáo án phải gợi cảm gây cho học sinh hứng thú học tập
+giáo án trình bày phải gây cho học sinh nhu cầu tìm hiểu nội dung của bài dạy
mà giáo án vừa trình chiếu.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
14
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
+giáo án phải thật thiết thực để giúp đỡ các em biết cách học và có phương
pháp học tập phù hợp
5.1- Tri giác của học sinh THCS
Học sinh THCS có khả năng phân tích tổng hợp có hiệu quả hơn khi tri giác
các sự vật hiện tượng, Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch,
có trình tự và hoàn thiện hơn. ở lứa tuổi này trí nhớ dần dần mang tính chất của
những quá trình được điều khiển, điều chỉnh và có tổ chức.
Học sinh THCS có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ
những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy nhằm ghi nhớ tài liệu nhất định. Kỹ
năng nắm vững phương tiện ghi nhớ được phát triển cao hơn nhiều so với học
sinh tiểu học. Học sinh THCS bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt
để ghi nhớ
và nhớ lại. Khi ghi nhớ các em đã biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ
thống hoá, phân loại. Tốc độ ghi nhớ và tài liệu ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy
móc ngày một nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa, hiệu quả ghi nhớ
ngày càng trở nên tốt hơn.
Nếu trước đây các em học sinh tiểu học thường cố gắng ghi nhớ từng chữ,
từng bài thì bây giờ các em HSTHCS thường phản đối yêu cầy của giáo viên là
bắt thuộc lòng và có khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của mình. Do
vậy người giáo viên phải:
+Dạy cho học sinh phươnh pháp pháp đúng đắn của việc ghi nhớ logic kỹ năng
biết phân đoạn theo ý nghĩa. Biết tách ra các ý làm điểm tựa để nhớ, biết ôn tập
lập dàn bài để ghi nhớ.
+Cần giải thích cho các em sự cần thiết phải ghi nhớ chính xác những định
nghĩa, những qui luật. Phải làm cho các em thấy nếu ghi nhớ thiếu một từ nào
đó thì ý nghĩa của nó không còn chính xác nữa.
+Rèn luyện cho các em kỹ năng trình bày chính xac nội dung bài học theo cách
diễn đạt của mình.
+Khi tổ chức quá trình ghi nhớ, học sinh THCS thường kiểm tra hiệu quả ghi
nhớ bằng sự nhận lại. Nhưng hiệu quả ghi nhớ không phảiđo bằng sự nhận lại
mà bằng sự tái hiện. Vì vậy kiểm tra ghi nhớ phải bằng sự tái hiện thì mới biết
hiệu quả của ghi nhớ.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
15
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
+ Một đặc điểm quan trọng của ghi nhớ học sinh THCS là sự thiết lập các mối
liên tưởng phức tạp hơn. Gắn tài liệu mới với tài liệu cũ, đưa tài liệu cũ vào hệ
thống. Được phát triển từ mức độ hình thành mối liên tưởng bên trong bộ môn
sang mối liên tưởng giữa các môn học. Giúp học sinh thấy được mối liên hệ
giữa các tri thức
của các môn học khác nhau. Hiểu biết về cái chung, sự thống nhất tri thức của
nhiều môn khoa học khác nhau.
5.2-chú ý của học sinh THCS
Chú ý của học sinh THCS phụ thuộc vào điều kiện làm việc, nội dung tài liệu.
tâm trạng thái độ của các em đối với công việc học tập. Mà nó gây nên chú ý có
chủ định bền vững và chú ý không bền vững.
Biện pháp tốt nhất để tổ chức sự chú ý của học sinh THCS là tổ chức hoạt
động học tập sao cho các em ít có thời gian nhàn rỗi, bị thu hút vào một đối
tượng nào đó.
những công việc hứng thú, giờ học hứng thú có tác dụng gây nên sự say mê và
tập trung sự chú ý của các em vao bài học. Nhưng chú ý rằng không phải bao
giờ các em cũng thích cái vui, cái dễ hiểu. Những bài giảng có nội dung, có sự
chuyển tiếp từ hình thức làm việc này đến hình thức làm việc khác, đòi hỏi các
em phải nhận thức tích cực. Đó chính là hình thức tốt làm cho các em có khả
năng tự tổ chức sự chú ý của mình.
Những công trình nghiên cứu của N.F.ĐôBrưnhin và những người khác đã cho
biếttừ sự chú ý có chủ đinhh bằng sự duy trì của ý chí các em ngày càng chuyển
sang chú ý sau chủ định. Nó được xuất hiện cho sự lôi cuốn dần dần của công
việc có tính phát minh. Và vì vậy không đòi hỏi các em phải nỗ lực ý chí dể duy
trì sự chú ý của mình.
5.3-Tư duy của học sinh THCS
Do nội dung học các môn học phong phú, đa dạng, phức tạp đòi hỏi tính chất
mới mẻ của công việc lĩnh hội tri thức, đòi hỏi phải dựa vào tư duy độc lập. Khả
năng khái quát hoá, trừu tượng hoá, so sánh phán đoán mới rút ra được kết luận,
mới hiểu được tài liệu.
Qua mỗi năm học ở THCS khả năng tư duy, trừu tượng được phát triển. Sự
thay đổi quan hệ giữa tư duy hình tượng cụ thể sang tư duy hình tượng không
cụ thể là đặc điểm cơ bản của lứa tuổi học sinh THCS. Sự coi thường những đặc
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
16
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
điểm của tư duy trực quan hình tượng của lứa tuổi này sẽ dẫn đến tình trạng khi
phân tích những dấu hiệu bản chất của đối tượng mà không có biểu tượng trực
quan về đối tượng, làm cho việc hiểu các dấu hiệu bản chất trừu tượng này một
cách hình thức.
ý nghĩa của thành phần hình tượng cụ thể là ở chổtong nhiều trường hợp tác
động của những ấn tượng trực tiếp cảm tính mạnh mẽ hơn tác động của từ ngữ.
Kết quả là sẽ thu hẹp hay mở rộng không đúng một khái niệm nào đó. Vì vậy
nếu chỉ dừng ở mức độ tư duy trực quan- hình tượng mà không quan tâm đến sự
phát triển tư duy trừu tượng cho các em là một sai lầm nghiêm trọng. Bởi vì nếu
các em không phát triển tư duy trừu tượng thì không thể nào lĩnh hội được các
khái niệm khoa học trong chương trình học tập của các em. Do vậy giáo án điện
tử phải đáp ứng được nhu cầu trên, phải đảm bảo phát triển tư duy trừu tượng
cho các em.
6- Tâm lý lứa tuổi học sinh THPT
Khi xét nhiều yếu tố tác động hình thành các đặc điểm phát triển ở lứa tuổi
này, xuất phát từ những trường phái khác nhau, có nhiều lý luận khác nhau về
lứa tuổi thanh niên.
- Quan niệm sinh vật học coi yếu tố đầu tiên xác định tuổi thanh niên là sự
tiến hoá của cơ thể, các quá trình sinh vật của sự trưởng thành quyết định tất
cả mọi cái khác.
- Các lý luận tâm lý học tập trung xem xét những qui luật tiến hoá của tâm
lý, của ý thức là cái cơ bản quyết định sự phát triển.
- Các nhà phân tâm học quan tâm nhiều nhất đến sự phát triển của tính dục
và sự chi phối của nó đối với sự phát triển của lứa tuổi này.
- Các nhà xã hội học lại chú ý trước hết đến tinh xã hội hoá của giai đoạn
phát triển này và coi mức độ xã hội hoá của mỗi cá thể là tiêu chí chủ yếu
quy định sự phát triển này.
Nhiều nhà tâm lý học hiện đại cho rằng cần nghiên cứu lứa tuổi này một cách
phức hợp, các yếu tố sinh học, tâm lý học, phân tâm học và xã hội học đều phải
được nghiên cứu và xá định rõ vai trò, vị trị của nó, tìm ra những qui luật hoạt
động bên trong cũng như mối tác độnh qua lại của chúng. Trong đó vai trò tích
cực hoạt động của chủ thể trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của môi trường xã
hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có lẽ đây là cách tiếp cận hợp lý trong quá
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
17
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
trình nghiên cứu nói chung cũng như đối với chính lứa tuổi đầu thanh niên nói
riêng.
6.1.Đặc điểm hoạt động học tập
Hoạt động học tập ở lứa tuổi này đòi hỏi tính năng độnh và tính độc lập ở
mức độ caohơn nhiều so với lứa tuổi học sinh THCS và tiểu học. Muốn nắm
được chương trình một cách sâu sắc thì cần phát triển tư duy lý luận. Hoạt
động học tập ở đây đòi hỏi sự phát triển khả năng nhận thức cao, sự suy đoán
logic, cũng như khả năng trừu tượng, khái quát phát triển.
Học sinh càng trưởng thành càng ý thức được tằng mình đang đứng trước
ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày
càng phát triển.
Thái độ học tập của học sinh đượpc thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc
khác lứa tuổi trước. Đặc biệt là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, ý nghĩa
xã hội của môn học Nhưng thái độ học tập không ít em có nhược điểm là:
một mặt các em rất tích cực học các môn mà các em cho là quan trọng. Mặt
khác các em sao nhãng các môn học khác như môn KTCN, Mỹ thuậtDo đó
khi thiết kế giáo án điện tử chúng ta cần tạo cảm hứng học tập các môn học
này.Giúp các em hiểu được ý nghĩa và chức năng của giáo dục phổ thông đối
với mỗi môn giáo dục chuyên ngành.
6.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ
Do sự hoàn thiện về cấu tạo vá chức năng của hệ thần kinh trung ương và các
giác quan, do sự tích lũy phong phú kinh nghiệm sống và tri thức, do yêu cầu
ngày càng cao của hoạt động học tập, lao động xã hội, nhận thức cảm tính của
học sinhTHPT có những nét mới về chất.
a.Tri giác của học sinh THPT.
Tri giác có mục đích đã đạt được mức độ rất cao, quan sát trở nên có mục
đích, có hệ thống và hoàn thiện hơn. Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt của
những cảm giác nghe, nhìn, vận độngphát triển cao, năng lực cảm thụ hội
họa, âm nhạc thể thaophát triển mạnh.
Đặc điểm nổi bật cuă sự phát triển cảm giác, tri giác của học sinh THPT là
tính có ý thức, có mục đích, có hệ thống biểu hiện rõ rệt trong quá trình học
tập cũng như trong mọi hoạt động khác.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
18
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Do sự nhạy cảm của óc quan sát, học sinh THPT dễ phát hiện những đặc điểm
của sự vật, hiện tượng cũng như con người(cố tật của ai đó, cái riềng cá nhân
vật và bắt trước rất giống ). Điều này làm cho sắc thái của lứa tuổi thể hiện rất
rõ ở tính dí dỏm tinh nghịch, hài hước.
b. Ghi nhớ của học sinh THPT.
Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Ghi nhớ ý
nghĩa ngày một tăng rõ rệt, các em biết sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi
nhớ: tóm tắt ý chính, so sánh, đối chiếu đặc biệt các em đã tạo ra được tâm
thế phân hoá trong ghi nhớ. Các em biết tài liệu nào cần nhớ từng câu, từng từ,
cái gì không cần nhớ.
Ghi nhớ có chủ định, có ý nghĩa chiếm ưu thế. Biết tìm ý chính của bài văn,
sử, địa biết lập giàn ý làm điểm tựa cho trí nhớ. Nhiều học sinh THPT tìm
các phương pháp các kỹ thuật để ghi nhớ, xác định rõ cái gì cần hiểu, cái gì
phải nhớ nguyên văn, cái gì nhớ ý nghĩa, cái gì không cần nhớ.
Cùng với óc quan sát, trí nhớ chủ định, năng lực chú ý chủ định cũng phát
triển. Đặc biệt học sinh biết phân phối chú ý. Năng lực này càng lên lớp trên
càng phát triển (vừa nghe giảng, vừa ghi chép, vừa quan sát bài giảng qua
Project, phân tích, nhận xet). Có lựa chọn của chú ý và tính ổn định của tuổi
này phát triền cao hơn hẳn học sinh lớp dưới.
c. Tư duy của học sinh THPT.
Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển, tư duy của học
sinh lứa tuổi này có sự thay đổi quan trọng. Các em có khả năng tư duy lý luận,
tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo với những đối tượng quen biết đã
được học hoặc chưa được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn. Có
căn cứ và nhất quán hơn. Tạo cho học sinh thực hiện thao tác tư duy toán học
phức tạp. Phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối
quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong xã hội đó là cơ sở để hình thành thế
giới quan.
Các thao tác trí tuệ: phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát
hoá phát triển mạnh. Giúp các em lĩnh hội được những khái niệm phức tạp và
trừu tượng của chương trình học. Vấn đề là đầu tư, bồi dưỡng để phát triển như
thế nào cho đúng hướng. Đây là vấn đề của toàn xã hội nhưng liên quan và
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
19
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
quyết định trực tiếp là do nội dung, phương thức, phương pháp dạy học nhằm
phát triển tối đa năng lực trí tuệ của học sinh.
Tóm lại, sự phát triển trí tuệ của học sinh THPT đã đạt ở mức cao và đang
được hoàn thiện dần trong quá trình học tập. Càng lên các lớp cuối cấp năng lực
trí tuệ càng phát triển. Chính vì vậy, khi soạn giáo án điện tử chúng ta phải hết
sức chú ý để tạo cơ hội cho học sinh phát triển tư duy độc lập, tư duy khái quát
hoá, tư duy sáng tạo chuẩn bị cho việc học lên cao, học nghề và vào đời của các
em.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
20
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Chương 2
Nâng cao chất lượng giảng dạy bằng giáo án điện tử
1. Xu thế đổi mới phương pháp dạy học:
Hiện nay trong điều kiện phát triển khoa học kỹ thuật mạnh mẽ, bên
cạnh phương pháp dạy học truyền thống. Người ta đã nghiên cứu tìm tòi các
phương pháp dạy học mới nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Các
phương pháp dạy học mới được xây dựng theo ba hướng chủ yếu sau:
1) Các phương pháp dựa trên những thành tựu của tâm lý học và lý luận dạy
học như: phương pháp dạy học nên vấn đề
2) Các phương pháp dựa trên những thành tựu của điều khiển học, lôgic học
như: phương pháp dạy học chương trình hoá, dạy học Angơrit hoá
3) Các phương pháp dựa trên sự hỗ trẻ của các phương tiện hiện như:
phương pháp nghe, nhìnDạy học dưới sự hỗ trẻ của máy tính điện tử.
Ngày nay các phương tiện nghe, nhìn như: phim video, phim đèn chiếu,
hình ảnh trên máy tính được sử dụng rộng rãi trong dạy học. ở các nước phát
triển và ở nước ta bắt đầu có điều kiện thực hiện. Đối với dạy học ở các cấp học
khác nhau cho các lứa tuổi học sinh khác nhau thì phương pháp nghe, nhìn đều
rất hiệu quả vì nó cho khả năng mô phỏng, trực tiếp quan sát các sự vật hiện
tượng diễn tả nội dung bài dạy.
Trong những năm gần đây, công nghệ thông tin được coi là một trong
những nghành khoa học với tốc độ phát triển nhanh nhất. Được như vậy vì đây
là một nghành khoa hoc phục vụ và mang lai hiệu quả rõ rệt cho hầu hết các
nghành nghề khác nhau trong xã hội.Tuy vậy, tại Việt Namtiềm năng to lớn mà
công nghệ thông tin có thể mang lại cho giáo dục chưa được khai thác một cách
thoả đáng. Xét cho quá trình giáo dục vớ sự đa dạng và phong phú của các phần
mềm dạy học, công nghệ thông tin hoàn toàn có thể trẻ giúp cho quá trình dạy
học bởi những lý do sau đây:
Thứ nhât, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học sẽ khiến máy
tính trở thành một công cụ hỗ trẻ đắc lực cho quá trình dạy học, cụ thể là:
Khả năng biểu diễn thông tin: Máy tính có thể cung cấp thông tin dưới
dạng văn bản, đồ thị, hình ảnh, âm thanhSự tích hợp này của máy tính cho
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
21
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
phép mở rang khả năng biểu diễn thông tin, nâng cao việc trực quan hoá tài liệu
dạy học.
Khả năng giải quyết trong một khối thống nhất các quá trình thông tin,
giao lưu và điều khiển trong dạy học: Dưới góc độ điều khiể học thì quá trình
dạy học là một quá trình điều khiển nhận thức của học sinh. Với một chương
trình phù hợp máy tính có thể điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh
trong việc cung cấp thông tin, thu nhận thông tin ngược, xử lý thông tin và đưa
ra các giảI pháp cần thiết giúp hoạt động nhận thức của học sinh đật kết quả
cao.
Tính lặp lại trong dạy học: Khác với giáo viên, máy tính có thể lưu trữ một
thông tin nào đó, cung cấp và lặp lại nó đến mức đạt được mục đích sư phạm
cần thiết. Trên cơ sở này sự phát triển của tong cá thể học sinh trong quá trình
dạy học trở thành hiện thực. Điều đó tạo điều kiện thuật lợi cho việc cá thể hoá
trong quá trình dạy học.
Khả năng mô hình hoá các đối tượng: Đây chính là khả năng lớn nhất của
máy tính. Nó có thể mô hình hoá các đối tượng, xây dung các phương án khác
nhau so sánh chúng từ đótạo ra phương án tối ưu. Thật vậy có nhiều vấn đề,
hiện tượng không thể truyền tải được bởi các mô hình thông thường, ví như các
quá trình xả ra trong lò phản ứng hạt nhân, hiện tượng diễn ra trong xylanh,của
động cơ đốt trong, từ trường quay trong động cơ không đồng bộ ba pha, chuyể
động điện tử xung quanh hạt nhântrong khi đó máy tính có thể hoàn toàn mô
phỏng chúng.
Khả năng lưu chữ và khả năng thông tin: Với bộ nhớ ngoài có dung lượng
như hiện nay, máy tính có thểlưu chữ một lượng lớn dữ liệu. Điều này cho phép
thành lập ngân hàng lớn dữ liệu. Các máy tính có thể nối với nhau tạo thành các
mạng cục bộ hay kết nối mạng thông tin toàn cầu Iternet. Đó chính là những
tiền đề giúp giáo viên và học sinh dễ dàng chia sẻ và khai thác thông tin cũng
như sử lí chúng có hiệu quả.
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học có thể hỗ trẻ nhiều
hình thức dạy học khác nhau như dạy học giáp mặt, dạy học từ xaĐáp ứng
được nhu cầu học tập ngày càng cao của các thnàh phần khác nhau trong xã
hội.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
22
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học dẫn đến việc giao cho
máy tính thực hiện một msố choc năng của người thầy ở các khâu khác nhau
của quá trình dạy học. Nhờ đó có thể xây dung những chương trình dạy học mà
máy có thể thay thế một số công việc của người giáo viênCách dạy này thể
hiện nhiều ưu điểm về mặt sư phạm như khuyến khích sự làm việc chủ động
của học sinh, đảm bảo mối quan hệ ngược và cá biệt trong học tập.
2.Nâng cao chất lượng giảng dạy bằng giáo án điện tử
2.1- Công nghệ trình chiếu và phần mềm PowerPoint
Trình chiếu là phương tiện để truyền đạt thông tin, một trình chiếu tốt có thể
thực sự thuyết phục, khích lệ, gây cảm hứng và giáo dục được khán thính giả.
Power Point là một phần mềm trình chiếu dẽ sử dụng tiện lợi trong dạy học
vì những ưu điểm chủ yếu sau:
Giao diện hẹp: Hiệu ứng hình ảnh, màu sắc, âm thanh phong phú có tác
dụng làm giờ học sinh động, hấp dẫn học sinh
Có thể chèn ảnh, sơ đồ cấu tạo, sơ đồ hệ thống các chi tiết kỹ thuật, biểu
đồ, lược đồ, lát cắt hay video clip trên một phông nền có màu sắc hài
hoà. Giúp giáo viên trong giản dạy mở rộng, giải thích, liên kết kiến thức
trong bài học
Cho phép kết nối từng nội dung dạy học để tạp thành một chương trình
logic làm cho bài học có tính hệ thống.
Cho phép kết nối một trang Web, một File bất kỳ trong tệp dữ liệu để tìm
kiếm trong tin bổ xung. Để minh hoạ làm giầu kiến thức, đồng thời để
xây dựng nhiệm vụ hướng dẫn học sinh tự học.
Cho phép tạo một trình diễn các hình ảnh, ký tự tiếp nối liên tục theo
những hiệu ứng khác nhau để tạo thành trang viết động. Nhờ vậy, có thể
biểu hiện sinh động các hiện tượng, các quá trình. Đặc biệt là, nguyên lý
hoạt động của các chi tiếp kỹ thuật như: bơm dầu, bơm tăng tốc Sử
dụng Power point song song với tiến trình dạy học một cách thích hợp.
Cho phép phóng to, thu nhỏ các hình ảnh, kết hợp các hình ảnh một cách
thích hợp. Phục vụ cho ý tưởng dạy học của giáo viên trong quá trình
giảng dạy.
Cho phép kết nối các phần mềm dạy học khác có hữu ích nhiều trong dạy
học kỹ thuật. Hiện nay có rất nhiều phần mềm cho khả năng kết nối.
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
23
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Có thể đặt câu hỏi, công bố câu trả lời, đặt nhiệm vụ cho học sinh, kèm
với sử dụng tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu thuận lợi cho giáo
viên. Đặc biệt còn mô tả sinh động nguyên lý hoạt động theo đúng thực
tế của đối tượng. Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo cho
học sinh.
Chính vì những ưu điêm trên đây của phần mềm Power Point, mà luận văn
lựa chọn ứng dụng của phần mềm này và kết hợp với những nghjiên cứ về tâm lí
học sinh để thiết kế bài giảng điện tử. Phần mềm thực sự mạnh và rất hữu ích
trong việc thay đổi phong cách giảng dạy của giáo viên nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học. Có thể nói, đối với quá trình dạy học, về mặt khả năng trình
diễn thông tin,MS PowerPoint là tất cả những gì chúng ta cần. Đây là một sự
thay thế tốt cho những gì chúng ta đã có trước đây.
Tuy nhiên không phảicó MS PowerPoint là có tất cả. Như mọi phương tiện
khác, MS PowerPoint cũng chỉ là công cụ. Mọi nguồn thông tin(hình ảnh, âm
thanh, chữ viết) lấy ở đâu? cách sắp xếp chúng theo thứ tự thế nào? kịch bản
ra sao, lời thuyết minh cho thông tin ấy thế nào thì hoàn toàn phụ thuộc vào con
người.ở đây nảy sinh vấn đề làm thế nào để có một trình diễn với chất lượng
cao?
* Qui trình thiết kế bài dạy bằng PowerPoint
Để có được một bài giảng tốt, việc thiết kế và xây dựng trình diễn phải được
lập kế hoạch cụ thể và thực hiện theo từng bước nhất định. Dưới đây là một gợi
ý:
Bước 1: Lựa chọn nội dung thông tin cần thể hiện trong bài dạy
Bước 2 : Chia nhỏ nội dung thông tin thành các mô đun. Mỗi mô đun thông
tin sẽ được thể hiện trong một Slide
Bước 3 : Lựa chọn tối đa các đối tượng Multimedia có thể có dùng để minh
hoạ cho nội dung học tập
Bước 4 : Chuẩn bị tài nguyên (văn bản; hình ảnh tĩnh, động; mô hình mô
phỏng; âm thanh; phim) bằng các công cụ phần mềm khác nhau
Bước 5 : Sử dụng MS PowerPoint để tích hợp nội dung trên vào các Slide
Bước 6 : Qui đinh cách thức hiển thị thông tin trong mỗi Slide
Bước 7 : Qui định hình thức chuyển đổi giữa các Slide
Bước 8 : Viết các thông tin giải thích cho mỗi Slide
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
24
Luận văn tốt nghiệp
Trường ĐHSPHN2
Bước 9 : In các nội dung liên quan tới bài giảng
Bước 10 : Trình diễn thử và sửa đổi
2.2-Nâng cao chất lượng, hiệu quả khi thiết kế và sử dụng bài dạy bằng
PowerPoint
2.2.1. Yêu cầu chung
- Thiết kế bài dạy bằng PowerPoint phải dựa trên lý luận dạy học hiện đại và
đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh. Do vậy, PowerPoint chỉ là phần mềm có tính
chất hỗ trẻ cho giáo viên thể hiện ý tưởng sư phạm của mình một cách thuận lợi
và hiệu quả hơn.
- Cấu trúc bài dạy phải chặt chẽ, logic. Thông tin ngắn gọn, cô đọng, được
bố trí và trình bày một cách khoa học phù hợp với tiến trình lên lớp
- Thể hiện đồng bộ và hợp lý các đối tượng đa phương tiện để hỗ trẻ các hoạt
động nhận thức
- Bài dạy cần khuyến khích sự trao đổi giữa giáo viên và học sinh; tăng
cường trao đổi, hợp tác giữa các học sinh; khích lệ tư duy, hoạt động độc lập
sáng tạo
- Nội dung bài dạy phải cuốn hút, đảm bảo học sinh tập trung vào nội dung,
logic của kiến thức
- Sử dụng bài dạy đúng kế hoạch, tiến trình với tư thế, cử chỉ, điệu bộ, giọng
nói, ánh mắt của giáo viên hợp lý
2.2.2.Thiết kế nội dung bài dạy
a) Cấu trúc thể hiện nội dung bài dạy
Thực tiễn cho thấy, ý tưởng và con đường thể hiên ý tưởng là những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bài giảng điện tử. Về cấu trúc thể hiện ý
tưởng, có thể thực hiện theo một trong hai cách tiếp cận sau:
- Cấu trúc bài trình bày phải thể hiện rõ ràng,logic
- Đảm bảo thể hiện rõ vị trí của nội dung đang trình bày trong toàn bộ cấu
trúc của trình diễn
Trên thực tế, rất nhiều cấu trúc bài giảng có cách tiếp cận được coi là hay, thế
nhưng lại không mang lại kết quả như mong muốn. Để đáp ứng được yêu cầu
của thực tế và thực sự góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy bằng giáo án điện
tử cho quá trình dạy và học.Dưới đây tôi xin đưa ra một cấu trúc bài giảng
mang lại hiệu quả cao và đã được sử dụng rất nhiều trong thực tế:
Nguyễn Thị Toàn Lớp K29E - SPKT
25