Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu Luận: Tìm hiêu Nguyễn Ái Quốc với sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.12 KB, 14 trang )

Lời mở đầu
Bác Hồ,vị cha già kính yêu của dân tộc,người chèo lái con thuyền cách
mạng Việt Nam đi đến bến bờ thắng lợi,người lãnh đạo cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc trước những thế lực ngoại bang hùng mạnh khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đưa nước ta từ một nước nô lệ thành một nước hoàn toàn độc lập tự do. Để làm
được điều đó,Người phải có một nghị lực phi thường,một ý chí mạnh mẽ để vượt qua
những thử thách khắc nghiệt nhằm đi tới thắng lợi cuối cùng. Nhằm tìm hiểu thêm về
hoạt động của Bác Hồ trong những năm đầu ra đi tìm đường cứu nước,tôi xin chọn đề tài
“Hành trình Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước giai đoạn (1911-1920) và ý nghĩa đối với
cách mạng Việt nam” .Trong quá trình thực hiện chắc chắn có nhiều sai sót kính mong
quý thầy(cô) chỉ dẫn thêm
Quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vấn đề rất được
quan tâm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, những bài viết của các nhà nghiên cứu
đề cập đến. Trong bài viết nhỏ này chúng tôi không có ý định trình bày lại quá trình đó mà
xin đi vào một góc nhỏ của vấn đề lớn đó là: Nhận thức về quá trình tìm đường cứu nước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1911 - 1920, hay nói các khác là khẳng định sự mẫn
cảm chính trị hơn người của Hồ Chí Minh trong chặng đường đầu tiên đi tìm chân lý thời
đại.


NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 nǎm 1890 tại quê ngoại làng
Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà
nho yêu nước.

Thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh nǎm 1862 tại
Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng ông sớm có ý chí tự
lập, thông minh, ham học.

Cụ Nguyễn Sinh Sắc


Nǎm 1901 Nguyễn Sinh Sắc thi Hội và đậu Phó bảng. Tuy đỗ cao nhưng ông
vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của các quan lại
trong triều đình Huế. Ông chỉ làm quan trong một thời gian ngắn và sau đó sống
bằng nghề dạy học, bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Ông đã đi nhiều
nơi, liên lạc với những người yêu nước, tuyên truyền đoàn kết, kêu gọi nhân dân
sống có tình nghĩa thủy chung. Tư tưởng yêu nước tiến bộ, nhân cách cao thượng
của ông đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến những người con. Ông qua đời tại thị xã Cao
Lãnh (Đồng Tháp) vào nǎm 1929, thọ 67 tuổi.
Thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan sinh nǎm 1868 trong
một gia đình nho học. Bà là một phụ nữ thông minh, cần cù chịu khó, thương yêu
chồng con và giàu lòng nhân ái. Bằng nghề làm ruộng và dệt vải bà đã hết lòng
chǎm lo cho chồng và các con. Cuộc đời của bà tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại hình


ảnh về một phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa và có ảnh hưởng rất lớn tới tư cách
của các con mình. Bà Hoàng Thị Loan qua đời tại Huế nǎm 1901, lúc 33 tuổi.

Cụ Hoàng Thị Loan
Chị gái Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, sinh nǎm 1884. Chị đã
tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị thực dân Pháp và triều đình phong
kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương nǎm 1954, thọ 70 tuổi.

Bà Nguyễn Thị Thanh
Anh trai Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh nǎm 1888. Từ
tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều nơi truyền thụ kiến thức, mở mang
vǎn hoá. Do tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên
Nguyễn Sinh Khiêm đã từng bị tù đày nhiều nǎm. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời nǎm
1950, thọ 62 tuổi.



Ông Nguyễn Sinh Khiêm
2. Con đường tiếp nhận Chủ nghĩa Mác – Lênin và
khẳng định con đường cách mạng Việt Nam(1911-1920)
Cách đây tròn 1 thế kỷ, ngày 5/6/1911, người thanh
niên Nguyễn Tất Thành, khi đó vừa 21 tuổi, đã lên 1 chiếc
tàu biển ra đi tìm đường cứu nước. Vận mệnh của dân tộc
Việt Nam đã gắn liền với quyết định của một con người mà
lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường ấy.
Với bí danh Vǎn Ban người hận làm phụ bếp
cho tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville)
của hãng Nǎm sao, rời Sài Gòn đi Mác-xây (Marseille)
Pháp, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Từ nǎm
1911 đến nǎm 1920, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước
Bản yêu sách của
ở châu Âu, châu Phi , châu Mỹ, nghiên cứu và học hỏi để nhân dân Việt Nam
quyết định con đường Cứu nước.
do Nguyễn A'i Quốc
Cuối nǎm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại
gửi đến
Pháp. ở đây anh được biết ở nước Nga V.I Lênin đã lãnh Hội nghị Véc-xây
đạo cách mạng thành công, sáng lập Nhà nước công nông
(Versailles)
đầu tiên trên thế giới, bảo vệ quyền lợi của đại đa số nhân
dân lao động. Tin vui ấy đã cổ vũ lòng hǎng hái của Nguyễn Tất Thành.

Nguyễn A'i Quốc phát biểu tại
Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp
họp tại thành phố Tours nǎm 1920



Nǎm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Nǎm 1919 các nước đế
quốc thắng trận họp Hội nghị Véc-xây (Versailles). Nhân dịp này thay mặt những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn A'i Quốc (tên mới của Nguyễn Tất
Thành) đã gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Nguyễn A'i Quốc
được đọc Luận cương của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau này
nhớ lại niềm sung sướng khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: "Luận cương của V. I Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi
nói to lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau
khổ.! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta. Nguyễn A'i Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại
hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này
Anh đã cùng với những nhà hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp như:
Macxen Casanh (Marcel Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant
Couturier)... bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại những người cơ hội. Trên diễn đàn
của Đại hội, Nguyễn A'i Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương,
kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân
Việt Nam và nhân dân các thuộc địa khác. Người đề nghị: "Đảng xã hội cần phải
hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức ... Đảng
phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Chúng tôi
thấyrằng việc Đảng xã hội gia nhập Quốc tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách
cụ thể là từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa". Cũng
tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế cộng sản, trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sau Đại hội Tua, người cộng sản Việt Nam đầu tiên Nguyễn A'i Quốc bắt tay
ngay vào hoạt động nhằm đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các thuộc địa đấu
tranh chống áp bức, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.



1 - Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành và được vun đắp
qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Về giá trị to lớn của truyền thống đó
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Dân tộc có ta một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước." [1] Nhưng tiếp thu truyền thống đó ở mỗi thời đại có khác nhau, mỗi thế hệ
có khác nhau, thậm chí ở mỗi con người cũng có khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi
phối bởi yếu tố thời đại và sự nhận thức về chính thời đại ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh
sinh ra vào lúc thực dân Pháp hoàn thành việc chinh phục nước ta (1858 - 1883)
biến nước ta từ một quốc gia phong kiến độc lập trở thành xứ thuộc địa với cái tên
“Đông Dương thuộc Pháp”. Người lớn lên trong lúc phong trào chống Pháp của
nhân dân Việt Nam diễn ra quyết liệt sôi nổi từ Bắc đến Nam như khởi nghĩa Phan
Đình Phùng, khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám, khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân, khởi
nghĩa của Nguyễn thiện Thuật. Đồng thời đây cũng là lúc chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam được tầng lớp sĩ phu khơi dậy và thổi nó thành ngọn lửa đấu tranh cứu nước.
Cũng như những người thanh niên khác, Nguyễn Tất Thành rất khâm phục những
lãnh tụ khởi nghĩa, rất kính trọng những vị quan lại có tinh thần yêu nước từ bỏ
chốn quan trường để chiêu binh chống giặc, yêu mến và cảm phục những nghĩa
quân vốn là những người nông dân vì nghĩa lớn mà coi thường cái chết. Anh cũng
vô cùng ngưỡng mộ những ông vua dám từ bỏ ngai vàng kêu gọi toàn dân chống
Pháp... có thể nói đây chính là sự tác động thứ nhất. Sự tác động này vừa bồi đắp
vừa khơi dậy trong anh một tình cảm yêu nước thương dân căm thù bọn xâm lược.
Nhưng với Nguyễn Tất Thành tiếp thu chủ nghĩa yêu nước không chỉ dừng lại ở
những tình cảm đó, không chỉ dừng lại ở những khái niệm "yêu nước", "thương
dân", "căm thù giặc" mà vượt lên trên những hạn chế ấy Nguyễn Tất Thành tiếp thu
từ những bài giảng của thầy Vương Thúc Quý, của sự chỉ bảo cặn kẽ của ông ngoại
là Cụ Cử Hoàng Xuân Đường, của người Cha là ông Nguyễn Sinh Sắc. Đặc biệt
thông qua những buổi đàm đạo về thời thế của nhà nho Nguyễn Sinh Sắc với những



người khoa cử trong vùng như Nguyễn Quý Song, Phan Bội Châu.... Nguyễn Tất
Thành đã có những nhận thức mới về "yêu nước" về "thương dân" đặc biệt là làm
sao để giải phóng được những hạn chế mà cả dân tộc đang không tìm thấy, không
giải quyết được như “yêu nước tại sao không giữ được nước?” “Căm thù giặc sao
vẫn cúi đầu làm tôi cho giặc?”. Những cuộc khởi nghĩa quật khởi thừa ý chí, “thừa
sự hy sinh sao vẫn thất bại?”... Từ những nhận thức mới "về lập trường yêu nước"
của những người đương thời. Dù vô cùng kính trọng, khâm phục, nhưng anh vẫn
thấy được những mặt hạn chế của họ như: Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật để
đánh Pháp khác nào "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau"; Phan Chu Trinh muốn
dựa vào Pháp để đánh đổ phong kiến Nam triều "chẳng khác gì xin giặc rủ lòng
thương"; kể cả người anh hùng nông dân trên núi rừng Yên Thế là Hoàng Hoa
Thám "vẫn còn nặng cốt cách phong kiến"[2]. Có thể xem đây là sự tác động thứ
hai. Chính sự tác động này đã khẳng định một tư duy mới, nhận thức về truyền
thống yêu nước, giải quyết được mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, có đối
chiếu, có so sánh để tìm ra những yếu tố mới, xu thế mới để xác định được hướng đi
và bước đi sau này. Ở một nội dung khác cũng rất đáng lưu ý khi phân tích sự tác
động của truyền thống yêu nước đối với Nguyễn Tất Thành, đó là sẽ xuất hiện sự
bắt rễ của "Tây học" song song với "Nho học" truyền thống tạo ra những ảnh hưởng
không nhỏ đối với những người yêu nước đương thời. Nguyễn Tất Thành tuy được
bắt đầu bằng một nền giáo dục nho giáo nhưng đồng thời vẫn tiếp thu "tân học" một
cách chủ động có ý thức bắt đầu từ người thầy nho học tiến bộ của mình là Tiến sỹ
Nguyễn Quý Song. Người thầy dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp đầu tiên cho Nguyễn
Tất Thành rồi sau đó đến những chương trình chính thức ở trường Tiểu học Vinh,
Tiểu học Đông Ba và cuối cùng là Trường Quốc học Huế. Nguyễn Tất Thành đã
thực sự tiếp xúc và tiếp thu “một nền giáo dục tân học”. Chính sự tiếp thu này đã
tác động không nhỏ đến nhận thức về "yêu nước", về "thương dân" của Nguyễn Tất
Thành. Những ảnh hưởng mới về thời thế, về xã hội, về giai cấp. Cảm nhận rõ hơn
về thân phận mình, dân tộc mình và cả những gì đang diễn ra sôi động ở thế giới
bên ngoài, mà vừa xa lạ vừa cần thiết cho công cuộc cứu nước... Như sau này



Nguyễn Ái Quốc khi trả lời phỏng vấn một nhà báo quốc tế Người đã nói: "Vào trạc
tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp: Tự do- Bình đẳng - Bác ái... Thế
là tôi muốn là quen với văn minh Pháp, muốn xem những gì ẩn náu đằng sau những
từ ấy"[3]. Có thể xem đây là sự tác động thứ ba. Chính sự tác động này đã làm cho
Nguyễn Tất Thành có cái nhìn hoàn toàn mới mẻ về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
truyền thống và Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời đại mới. Sự tác động này
giúp anh càng quyết tâm, càng khẳng định không thể theo "lối cũ", không thể trượt
lại trên vết xe đổ của cha anh mình, dù đó là những nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc.
Như vậy, khi ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Tất Thành chỉ có một thứ hành
trang duy nhất là lòng yêu nước, thương dân hoặc có thể gọi là chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam. Nhưng chủ nghĩa yêu nước ấy thông qua sự tiếp thu, thông qua sự sàng
lọc thực tiễn và thông qua lăng kính của thời đại mới. Chủ nghĩa yêu nước ấy đã
chứa đựng các giá trị mới, tinh thần mới, có hơi thở của thời đại mới. Bởi vậy có
thể nói : Nguyễn Tất Thành tiếp thu truyền thống “yêu nước, không chỉ bằng tình
cảm, bằng tinh thần, mà còn bằng ý chí của một nhà yêu nước có tầm nhìn thời đại.
2.Quyết định đi về phía trời Tây là quyết định hoàn toàn mới mẻ, ngược với truyền
thống "xuất dương" của các thế hệ trước là Nhật, là Tầu, là Xiêm. Đây là sự dấn
thân vào một thế giới còn rất xa lạ với nhân dân ta, một thế giới mà văn hoá học
thuật hoàn toàn khác với các giá trị của Việt Nam ta nếu không muốn nói là đối lập
và hoàn toàn chưa có sự giao lưu nào cả. Ngày 05/6/1911, rời bến cảng Nhà Rồng
(Sài Gòn) rời xa Tổ quốc, với tên gọi Văn Ba, Nguyễn Tất Thành xuống làm phụ
bếp cho tầu buôn "Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin". Con tầu chạy 13 hải lý một giờ
xuyên sang Ấn Độ Dương, biển cả mênh mông - mỗi giờ càng đưa anh xa dần Tổ
quốc. Nhưng niềm hy vọng lớn lao nhen nhóm dần lên: anh xa Tổ quốc bao nhiêu
thì chính anh đang làm cho dân tộc mình nhích gần với thế giới bấy nhiêu... Tầu đi
qua một loạt các nước thuộc địa của Anh như Singapore, Cô-lôm-bô, Pô-xa-ít. Đến
ngày 06/7/1911 đúng một tháng và một ngày, Nguyễn Tất Thành đến bến Đa-răng



trong cảng Mác-xây. Đất Pháp, lần đầu tiên anh đến, lạ lẫm và ngỡ ngàng. Nhưng
với chủ định từ khi lên tầu với niềm khát khao tìm hiểu : "đằng sau những từ Tự do
- Bình đẳng - Bác ái" ấy là gì? Nguyễn Tất Thành đã có những nhận xét đầu tiên là:
"Thì ra, người Pháp ở bên Pháp không ác như thực dân Pháp ở Việt Nam. Thì ra,
bên Pháp cũng có người nghèo như bên ta"[4]. Đến Lơ Havrơ, Nguyễn Tất Thành
có thể lên tầu trở về Việt Nam nếu anh muốn. Hoặc cũng có thể ở lại đây tìm một
công việc gì đó cho đỡ nặng nhọc vất vả và nguy hiểm như nghề thuỷ thủ trên tầu.
Nhưng không, anh chấp nhận khó khăn và nguy hiểm, anh chấp nhận con đường "tự
nguyện vô sản hoá để thực hiện mục đích cao cả của đời mình, đồng thời cũng là
mục đích chung của cả dân tộc là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"?[5] Để được đi
nhiều, nhìn thấy nhiều, hiểu biết nhiều, Nguyễn Tất Thành lại xin làm thuỷ thủ cho
một tầu chở hàng của hãng Năm Sao chạy vòng quanh châu Phi. Từ Pháp tầu qua
Địa Trung Hải, qua kênh Xuyên, Biển Đỏ đến Ấn Độ Dương rồi Đại Tây Dương.
Nguyễn Tất Thành qua hầu hết các thuộc địa của Pháp ở Châu Phi, ở đâu anh cũng
được chứng kiến cảnh nghèo khổ của nhân dân lao động, ở đâu anh cũng rơi nước
mắt trước những người nô lệ, bị đối xử quá bất công và tàn nhẫn. Theo anh, chính
những người da đen là những người bị bần cùng hoá triệt để nhất, họ bị đối xử như
những con vật! chứ không phải con người. Sau này khi viết về những cảnh đời đen
bạc đó anh đã bày tỏ: "Khi chép những đoạn này tôi run lên, mắt mờ lệ, nước mắt
chảy xuống hoà với mực. Tôi không thể nào viết được nữa. Ôi! nước Pháp đau khổ!
Đông - Tây đau khổ! Nhân loại đau khổ!"[6]. Con tầu đưa Nguyễn Tất Thành vượt
Đại Tây Dương đến nước Mỹ, nơi được mệnh danh là "thế giới tự do" nhưng trong
mắt anh nó không phải thế, ngay phía sau tượng thần Tự do, ở ngay lối vào cảng
Niu-oóc là đầy rẫy những tội ác man rợ của CNĐQ Mỹ. Ở Brúc-klin, ở khu ổ chuột
Hác-len đầy rẫy những nghèo đói, những bất công và điều anh không ngờ nhất là
ngay trên đất Mỹ, chủ nghĩa đế quốc Mỹ đang phục hồi lại chế độ nô lệ. Và anh đi
đến kết luận: "Tất cả bọn đế quốc đều phản động và tàn ác"[7]. Rời Mỹ, Nguyễn
Tất Thành trở về Anh - một đế quốc rất "giàu có" về thuộc địa "mặt trời không bao
giờ tắt trên đế quốc Anh". Một nước công nghiệp phát triển hàng đầu trong thế giới



tư bản. Nhưng nước Anh cũng không phải là thiên đường cho tất cả mọi người.
Nước Anh cũng không mặn mà hào phóng gì với anh cả. Để sống anh phải làm đủ
nghề: cào tuyết giữa mùa đông giá lạnh, đổ than và xúc than dưới hầm tối, rồi làm
thuê ở khách sạn Đray-tơn Cớơc, làm phụ bếp ở khách nổi tiếng Các-tơn ở phố
Hay-ma-két, dưới sự điều khiển của người đầu bếp Pháp tài ba là ông E-xcôp-phie... Nước Anh, đằng sau những khu nhà trầm mặc uy nghi là một cuộc sống vất vả
và lam lũ của những người nghèo, những người công nhân và những thuộc địa từ
khắp thế giới. "Nước Anh không thiếu những người nghèo!" đó là điều Nguyễn Tất
Thành tâm sự thật thà với người đầu bếp đáng kính E-xcôp-phi-e... Vào tuổi 25
Nguyễn Tất Thành đã trở thành người Việt nam đi xa nhất, đi nhiều nhất, tiếp nhận
được những sự thật phong phú nhất ở một thế giới đang chuyển động, đang chứa
đựng những mầm mống của sự bùng nổ. Từ những thực tế ấy, Nguyễn Tất Thành
nhận thức được rằng: ở phương Đông hay ở phương Tây ở đâu cũng có người
nghèo, những người bị bóc lột và áp bức, nhưng những người dân thuộc địa chính là
những người bị bóc lột nặng nề nhất, họ bị ngược đãi nhất. Chủ nghĩa tư bản dù ở
Anh, ở Pháp, hay ở Mỹ cũng đều là bọn xâm lược và bọn áp bức thống trị, tham lam
và độc ác. Và Nguyễn Tất Thành đi đến một kết luận rất quan trọng là: Trên đời này
chỉ có 2 giống người, đó là những kẻ đi xâm lược và những người bị áp bức. Và
cũng chỉ có một thứ tình là tình hữu ái giai cấp mà thôi. Hàng ngày, ngoài những
giờ làm việc vất vả, Nguyễn Tất Thành vẫn giành thời gian để học tiếng Anh và tập
diễn thuyết ngoài trời. Và rất nhiều lần Anh lặng im trước tượng Kác-Mác với dòng
chữ vàng bất hủ: "Các nhà triết học mới chỉ giải thích thế giới bằng những cách
khác nhau, điều quan trọng là phải biến đổi nó"*. Với anh đúng là còn mới quá, lạ
lẫm quá. Nhưng rõ ràng có một cái gì đó đang nhen nhóm, đang bừng sáng lên
trong trái tim và khối óc của con người Việt Nam trác tuyệt này.
Như vậy, có thể nói chính sự táo bạo và dũng cảm ấy đã tạo điều kiện cho Nguyễn
Tất Thành thu dần thế giới vào tầm mắt và làm phong phú dần nhận thức của mình
về một cuộc cách mạng tương lai.



3 - Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đây là cuộc chiến tranh
của các nước đế quốc tranh giành nhau thuộc địa. Trong thư gửi cụ Phan Chu Trinh
vào tháng 8 năm 1914, Nguyễn Tất Thành viết: "Tiếng súng đã rền vang. Thây
người đang phủ đất. Năm nước lớn đang đánh nhau, chín nước đã vào vòng chiến,
cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng cháu đã nói với Bác về cơn giông sấm động".[8]
Lúc này ở Luân-đôn chịu ảnh hưởng của cuộc chiến, phong trào công nhân Anh
hoạt động sôi nổi, các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn liên tục tổ chức diễn thuyết,
tranh luận công khai về cuộc chiến... Nguyễn Tất Thành đã không bỏ qua cơ hội
này. Với tầm mắt đại dương của anh đã giúp anh hiểu nhanh mọi sự kiện và đưa anh
đến gần những quan điểm tiến bộ nhất của thời đại. Cuối năm 1917, chiến tranh thế
giới vào giai đoạn quyết liệt nhất, Nguyễn Tất Thành rời Luân-đôn về Paris. Anh
Thành ý thức được rằng Paris luôn là trung tâm của Châu Âu, những diễn biến
chính trị sẽ dồn về Paris - quê hương của Công xã Pa-ri 1871. Hơn thế Paris lúc này
đang tập trung nhiều người Việt Nam yêu nước sinh sống trong đó có những người
anh rất kính trọng như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền...
và hàng vạn người Việt nam bị bắt làm bia đỡ đạn cho thực dân Pháp trong cuộc đại
chiến dã man này. Ở Paris, Nguyễn Tất Thành sống chung với cụ Phan Chu Trinh
và luật sư Phan Văn Trường tại số 6 phố Vi-la Đơ Gô-bờ-lanh nhưng anh không tán
đồng với quan điểm của hai người này. Anh giành nhiều thời gian đi sâu sát những
khu vực có đông Việt kiều, vận động cổ vũ tinh thần yêu nước, tố cáo tội ác của bọn
thực dân đế quốc, dần dần mọi người yêu quí tin tưởng ở anh và anh trở thành linh
hồn của "Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp". Trong một báo cáo của
mật thám Pháp đã khẳng định: "Nguyễn Ái Quốc (tên của Nguyễn Tất Thành lúc
trở về Pháp) nổi lên là người lãnh đạo có uy tín đối với người Việt tại Pháp, trong
khi vai trò của Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường lu mờ dần"[9]. Nguyễn Ái
Quốc không ngừng mở mang những hiểu biết của mình bằng việc tích cực tham gia
các câu lạc bộ, tham gia diễn thuyết tranh luận tại các cuộc mít tinh, hội họp, ham
mê đọc báo chí cánh tả trong đó đặc biệt là những tác phẩm của nhà văn phản chiến



Hăng-ri- Bác-buýt đảng viên Đảng Xã hội Pháp, với Mác-xen Ca-sanh một nhà
cách mạng nổi tiếng, với Ga-xtông Mông-mát-xô chủ bút báo "Đời sống công
nhân"; với Giăng-công-ghê cháu ngoại Kác-Mác chủ nhiệm báo "Dân chúng"; Với
các nhà xã hội cánh tả khác như : Mô-nét và Buốc-đơ-rông... Từ những mối quan hệ
này mà Nguyễn Ái Quốc dần dần đi vào môi trường hoạt động chính trị sôi động và
anh đã tìm thấy những điều quan trọng, đó là sự gần gũi giữa giai cấp vô sản Pháp
với nhân dân thuộc địa; đó là ở Pháp còn có những đảng phái, những tổ chức cảm
thông chia sẻ với nhân dân thuộc địa và không ủng hộ chính sách thuộc địa của
chính phủ Pháp. Và điều Nguyễn Ái Quốc phấn khởi nhất là những lời tố cáo của
anh về chính sách độc ác của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Đông Dương, nỗi thống
khổ của nhân dân thuộc địa... được những người bạn Pháp rất lắng nghe và chia sẻ
ủng hộ. Năm 1918, Nguyễn Ái Quốc được kết nạp vào Đảng Xã hội Pháp. Anh hoà
mình vào cuộc đấu tranh rầm rộ của Đảng Xã hội và của các công đoàn Pháp... và
chính trong cuộc đấu tranh này Nguyễn Ái Quốc đã hiểu thế nào là xung đột lợi ích
và đấu tranh giai cấp. Anh viết nhiều bài trên báo "Dân chúng", báo "Đời sống thợ
thuyền", báo "Nhân đạo"... càng ngày anh càng thấy được thứ vũ khí lợi hại ấy là
ngòi bút. Anh hăng say viết, và cung cấp tư liệu cho những nhà báo tiến bộ viết.
Những bài báo chính luận của Nguyễn Ái Quốc như "Tâm địa thực dân"; "Bình
đẳng"; "Vực thẳm thuộc địa"; "Hành hình kiểu Lyn-xơ"; "Một phương diện ít người
biết đến của nền văn minh Mỹ"; "Công cuộc khai hoá giết người"... đã làm xúc
động cả thế giới, gây được tiếng vang lớn đối với công luận Pháp và đặc biệt là đối
với Đảng Xã hội Pháp. Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, các
nước thắng trận họp nhau tại Vécxay Nguyễn Ái Quốc nhận thấy đây là thời cơ tốt
để quốc tế hoá vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Ký tên vào "Bản yêu sách của
nhân dân An Nam" Nguyễn Ái Quốc không hề ảo tưởng vào "lòng tốt" của chủ
nghĩa đế quốc, nhưng ít ra cũng để thế giới quan tâm đến nhân dân các nước thuộc
địa, chú ý đến một xứ sở là Việt Nam, nhân dân yêu cầu được độc lập, đang đấu
tranh vì hoà bình và tự do cho chính bản thân họ. Liền sau đó, Nguyễn Ái Quốc bỏ
toàn bộ số tiền tích cóp được để in 6.000 yêu sách gửi tới các báo chí, gửi đến các



Hội nghị chuyển cho các chính khách... Bản yêu sách đó gây được tiếng vang lớn,
làm cho việt kiều ở Pháp vui mừng và đã vượt đại dương theo về từng nước. Chính
điều đó càng làm cho bọn thực dân lồng lộn. Với những thắng lợi ban đầu, Nguyến
Ái Quốc càng hăng hái tham gia các hoạt động chính trị khác. Anh tích cực có mặt
tại các buổi sinh hoạt của câu lạc bộ Phô-bua, nơi tập trung rất nhiều các nhà chính
trị, các nhà văn hoá và nghệ thuật. Rồi nhờ Pôn Vang-ăng Cu-tuya-riê anh xin được
thẻ đọc thường xuyên tại Thư viện Quốc gia Paris - kho tàng tri thức mở cửa cho
anh. Có thể đây là những ngày tháng Nguyễn Ái Quốc được mở rộng tầm nhìn nhất,
thu nhận được nhiều tri thức nhất, giải quyết được nhiều băn khoăn, thắc mắc nhất.
Như Pôn Vang-ăng Cu-tuya-riê kể lại: Anh Nguyễn vùi đầu trong thư viện từ sáng
sớm đến tối khuya, ngày nào cũng vậy (!)... Một hôm Nguyễn Ái Quốc đọc được
trên báo Nhân đạo - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp in toàn văn bản
"Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I. Lênin. Đó là vào ngày
16&17/7/1920. Anh đọc như uống từng câu từng chữ của Lênin, háo hức, say xưa
và xúc động... Sau này Anh kể lại: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:
"Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta". Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế
thứ ba".[10] Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi
ủng hộ Quốc tế thứ ba, ủng hộ Lênin và anh đã trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, lúc đó là 2h30 phút sáng ngày 30/12/1920 tại thành
phố Tua nước Pháp. Chính Chủ nghĩa Lênin đã soi sáng Nguyễn Ái Quốc, giúp anh
hệ thống lại những nhận xét thành quan điểm, thành tư tưởng. Từ những nhận định:
"nhân dân các nước thuộc địa dù màu da có khác nhau, tiếng nói có khác nhau,
nhưng đều bị CNĐQ bóc lột tàn tệ như nhau", hoặc "trên đời này chỉ có 2 giống
người đó là những kể đi xâm lược và những người bị áp bức", "và chỉ có một thứ
tình là tình hữu ái giai cấp"; rồi "phong trào công nhân ở chính quốc không thể tách

rời phong trào công nhân ở các thuộc địa nếu muốn đánh đổ CNTB; rồi "CNTB là


con đỉa có một vòi bám vào giai cấp vô sản chính quốc và một vòi hút máu nhân
dân thuộc địa"... Và đi đến một kết luận có tính nguyên lý là: "Chỉ có giải phóng
được giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới."[11]. Nghĩa
là muốn cứu nước thì phải làm cách mạng giải phóng, muốn giải phóng dân tộc
mình thì đồng thời phải giải phóng toàn bộ các dân tộc bị áp bức, công cuộc giải
phóng ấy được đặt trong thời đại mới – thời đại của cách mạng vô sản.

KẾT LUẬN
Thế là, từ một người yêu nước chân chính, có trí thức và rất tạo bạo trong
việc quyết định lựa chọn con đường sang phương Tây tới nước Pháp. Tự nguyện
thực hiện "vô sản hoá" để lao động, học hỏi và khám phá thế giới và trưởng thành
trong phong trào công nhân và phong trào cách mạng ở các nước Âu, Mỹ. Nguyễn
Ái Quốc gặp chủ nghĩa Lê-nin và đã tìm ra con đường giải phóng cho nhân dân ta
và nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc. Năm đó, Nguyễn Ái Quốc vừa tròn
29 tuổi



×