Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Đọc hiểu văn bản vội vàng (xuân diệu) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.33 KB, 57 trang )

Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới
Ban giám hiệu trường Đại Học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi có
cơ hội học tập, rèn luyện và có cơ hội được thực hành nghiên cứu khoa học
tại trường.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Phương pháp
dạy học ngữ văn cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã nhiệt tình
giảng dạy. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Nguyễn Thị
Mai Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tôi những
kinh nghiệm khoa học quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận đúng thời hạn.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người
thân, bạn bè đã động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa
luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Thu Huyền

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

1

Lớp K35C



Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
đưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hương, chưa từng được công
bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học.

Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Thu Huyền

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

2

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT

STT


Kí hiệu

Ý nghĩa

01

CMT8

Cách mạng tháng Tám

02

GS

Giáo sư

03

GV

Giáo viên

04

HS

Học sinh

05


NxbGD

Nhà xuất bản giáo dục

06

THPT

Trung học phổ thông

07

SGK

Sách giáo khoa

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

3

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 6
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 9
5. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 9
6. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 9
7. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 9
8. Dự kiến đóng góp ............................................................................... 10
9. Bố cục khóa luận ................................................................................ 10
NỘI DUNG
Chương 1. Một vài vấn đề về phương pháp dạy học Ngữ Văn ............... 11
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................... 11
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................... 15
1.3. Đọc - hiểu văn bản trữ tình gắn với đời sống thực tiễn .................... 17
Chương 2. Đọc- hiểu văn bản Vội vàng (Xuân Diệu) trong
trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn ................................... 19
2.1 Đặc điểm văn bản trữ tình .............................................................. 19
2.1.1 Khái niệm văn bản trữ tình .................................................. 19
2.1.2 Đặc trưng của văn bản trữ tình ............................................ 20
2.2 Đọc - hiểu văn bản Vội vàng (Xuân Diệu) trong
trường THPT ................................................................................... 27
2.2.1 Đọc tiếp cận văn bản Vội vàng (Xuân Diệu) .......................... 27
2.2.2 Tái hiện hình tượng nhân vật trữ tình ................................... 27
2.2.3 Phân tích cắt nghĩa văn bản Vội vàng .................................. 28

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

4

Lớp K35C



Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

2.2.4. Đánh giá cảm xúc nhân vật trữ tình ..................................... 31
2.3. Đọc hiểu văn bản Vội vàng (Xuân Diệu) gắn liền với
đời sống thực tiễn ............................................................................. 31
2.3.1 Thực trạng tiếp nhận văn bản Vội vàng (Xuân Diệu)
trong nhà trường THPT ........................................................... 31
2.3.2 Định hướng dạy văn bản Vội vàng (Xuân Diệu)
trong chương trình THPT gắn với đời sống thực tiễn .............. 33
2.3.3 Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong văn bản Vội vàng
(Xuân Diệu) .................................................................................... 47
Chương 3. Giáo án thực nghiệm ............................................................... 49
Văn bản Vội vàng của Xuân Diệu ........................................................ 49
(SGK Ngữ văn lớp 11 tập 2 NXBGD) .......................................................
KẾT LUẬN ................................................................................................. 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 57

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

5

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học


GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề giảng dạy ngữ văn có một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhà
trường THPT. Bởi văn học là tri thức của đời sống. Tiếp nhận vốn tri thức văn
học là tiếp nhận vốn tri thức có khả năng đem lại cho con người vốn hiểu biết
sâu rộng trong cuộc sống. Từ xưa tới nay môn ngữ văn luôn được coi là đặc
thù với nhiều chức năng: Vừa rèn luyện ngôn ngữ vừa rèn luyện tư duy hình
tượng cũng như khả năng sáng tạo của học sinh. Hơn thế nữa, văn chương có
khả năng giáo dục nhân cách và đạo đức của con người, giúp con người tìm
lại được chính mình.
Tuy nhiên, vấn đề dạy và học Ngữ Văn trong trường THPT hiện nay vẫn
chưa đáp ứng được nhu cầu trên. Có lẽ nguyên nhân lớn nhất là do một bộ
phận không nhỏ học sinh chưa thực sự hứng thú với môn Văn, chưa tìm được
lợi ích trong việc học Văn.
Nhận thức được vấn đề trên ta có cái nhìn toàn diện về xác định vai trò
của bộ môn Ngữ Văn với thực tế đời sống. Khi nhắc tới học văn là ta nhắc tới
“Học văn là học cách làm người”. Quan niệm đó quá bao quát chưa đủ sức
thuyết phục học sinh hướng vào bộ môn này. Văn chương trong nhà trường
quá xa rời đời sống thực tiễn, nặng kiến thức giáo điều. Chính điều này dẫn
tới một cách học ăn sâu vào tiềm thức của học sinh là cách học đối phó, văn
chương tầm chương chích cú, thiếu kiến thức thực tế.
Đặc biệt, đối với những văn bản văn chương thuộc thể loại trữ tình, học
sinh thường có quan niệm là chúng quá lãng mạn, bay bổng, xa rời với hiện
thực cuộc sống và cho rằng đó chỉ là những ảm nhận của giới văn nghệ sỹ
nên tiếp nhận văn bản trữ tình theo hướng “Học cho xong”.
Trước thực trạng trên chúng tôi lựa chọn đề tài: “Đọc- Hiểu văn bản Vội
vàng (Xuân Diệu) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn”, với


SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

6

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

mong muốn đi tiếp con đường mà các nhà giáo dục quan tâm trong trong việc
chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật. Nghiên cứu này chúng tôi muốn góp một
phần nhỏ vào việc đổi mới dạy học, với hi vọng tác phẩm văn học có ý nghĩa
thiết thực với học sinh trong trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
Bàn về vấn đề phương pháp dạy học và dạy học văn có từ rất sớm, xuất
phát đầu tiên ở các nước phương tây. Xuất hiện với một số cuốn sách như:
Phương pháp luận dạy học văn của IA Rez: Trình bày phương pháp học một
cách rất cụ thể. Nhấn mạnh vai trò đọc sáng tạo. Coi đó là phương pháp đặc
thù nhằm phát triển năng lực cảm thụ văn học của học sinh. Cảm thụ văn học
trên phương diện nghệ thuật thông qua Đọc - Hiểu.
Phương pháp dạy học văn ở trường THPT của V.A Nhicônxki (Ngọc
Toàn và Bùi Lê dịch) có vị trí và vai trò chủ đạo của người học trong nhà
trường và hoạt động đọc diễn cảm trong quá trình tiếp nhận.
Ở Việt Nam những năm 80, những cuốn sách bàn về đọc văn và học văn
như: Cảm thụ văn học giảng dạy văn học, GS Phan Trọng Luận: Tầm quan
trọng của việc đọc, đọc từng câu, từng chữ không thể nhảy cóc. Đọc không
chỉ dừng lại ở việc quan sát bề mặt câu chữ mà phải thấy được bề sâu tầng ý
nghĩa mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm: Văn học và nhân cách, GS

Nguyễn Thanh Hùng cũng nhấn mạnh đế sự phát triển của quá trình đọc được
hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và giới thiệu nghệ thuật.
Ngoài ra còn có nhiều bài báo, chuyên đề, chuyên luận như: Báo văn
nghệ (14/02/1988) “Môn văn thực trạng và giải pháp”, GS Trần Đình Sử: Đề
cập tới một trong ba mục tiêu của việc dạy văn, rèn khả năng Đọc- Hiểu, bám
sát tác phẩm không suy đoán tùy tiện.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

7

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Trong bài viết “Dạy đọc hiểu là nền tảng văn hóa cho người đọc” tác giả
chỉ ra việc đọc hiểu sẽ giúp hình thành và củng cố, phát triển năng lực, nắm
vững và sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo. Từ bình diện văn hóa ấy,
bài viết xác định: Đọc là một hoạt động văn hóa có ý nghĩa cơ bản cho sự
phát triển cho nhân cách.
Chuyên đề “Đọc và tiếp nhận văn chương” tác giả khẳng định: Tiếp
nhận tác phẩm văn học là một quá trình vì nó chỉ diễn ra một hoạt động duy
nhất là hoạt động đọc văn. GS Phan Trọng Luận trong chuyên đề Cảm thụ
văn học, giảng dạy văn học đã phân tích tầm quan trọng của hoạt động đọc.
Đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc để tri giác bằng mắt, tai tất cả hình ảnh, chi
tiết, từ ngữ. Qua quá trình đọc là quá trình thâm nhập từng bước vào nội dung
ý nghĩa tác phẩm.

Tất cả các nghiên cứu văn chương cho rằng đọc là hoạt động đầu tiên
của tiếp nhận văn chương. Các nhà nghiên cứu đã đã nhấn mạnh vai trò của
Đọc- Hiểu và giảng dạy văn bản trữ tình trong nhà trường THPT. Dựa vào
nghiên cứu trên trong khóa luận này chúng tôi tiến hành tổ chức: Đọc- hiểu
văn bản Vội vàng (Xuân Diệu) trong nhà trường THPT gắn liền với đời
sống thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích:
Xác lập các hoạt động các dạy bước văn bản Vội vàng (Xuân Diệu) theo
hướng Đọc- Hiểu.
Làm rõ các vấn đề xung quanh dạy văn gắn với đời sống thực tiễn. Khóa
luận sẽ đi nghiên cứu đặc điểm của thể loại trữ tình góp phần xây dựng quy
trình dạy văn gắn liền với đời sống.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học thể loại trữ tình ở trường
THPT theo hướng dạy văn là dạy học sinh biết cách làm người - con người

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

8

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

không chỉ có tri thức mà còn có khả năng thích ứng cao, biết giao tiếp ứng xử
trong đời sống.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu cơ sở của dạy văn gắn với đời sống và quy trình dạy học ĐọcHiểu văn bản trữ tình ở trường THPT gắn với đời sống thực tiễn.
Vận dụng những hiểu biết trên để Đọc - Hiểu văn bản Vội vàng của
Xuân Diệu (SGK Ngữ Văn 11 tập 2 N Nxb GD) trong trường THPT gắn liền
với đời sống thực tiễn.
5. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu:
Phương pháp dạy học ngữ văn.
Lý thuyết Đọc - Hiểu, Đọc - Hiểu tác phẩm gắn liền với đời sống thực tiễn.
Vận dụng và hướng dẫn học sinh biết cách đọc hiểu văn bản Vội vàng
của Xuân Diệu (SGK Ngữ văn lớp 11 tập 2 Nxb GD) trong trường THPT gắn
liền với đời sống thực tiễn.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các đặc trưng chung của thể loại trữ
tình mà cụ thể là các đặc trưng của thơ trữ tình. Đặc biệt, đi sâu vào hoạt động
hướng dẫn đọc - hiểu văn bản Vội vàng (Xuân Diệu) trong trường THPT gắn
liền với đời sống thực tiễn. Do năng lực có hạn, chúng tôi chỉ tập trung ngiên
cứu thực nghiệm ở một văn bản, nếu có cơ hội chúng tôi sẽ mở rộng phạm vi
nghiên cứu ở những đề tài sau.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lí thuyết: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
so sánh đối chiếu.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

9

Lớp K35C



Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Phương pháp thực nghiệm: Vận dụng lí thuyết Đọc - Hiểu vào thiết kế
bài giảng văn bản Vội vàng của Xuân Diệu (SGK Ngữ văn lớp 11 tập 2 Nxb
GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn.
8. Dự kiến đóng góp
Định hướng việc day học văn bản trữ tình trong nhà trường THPT gắn
liền với đời sống thực tiễn.
Chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy
học. Đồng thời, bản thân có dịp nâng cao kiến thức, trau dồi kinh nghiệm
phục vụ sự nghiệp trong tương lai.
Bên cạnh đó, khóa luận góp phần hình thành và phát triển khả năng tìm
tòi và nghiên cứu khoa học của người viết.
9. Bố cục khóa luận
Khóa luận gồm 4 phần:
- Mở đầu
- Nội dung
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

10

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học


GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT VÀI VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN

1.1. Cơ sở lí luận
Trong thời đại cơ sở thông tin bùng nổ như hiện nay, con người có rất
nhiều cách để tiếp nhận một tác phẩm văn học. Trong đó Đọc- Hiểu là một
phương pháp đặc trưng giúp bạn chiếm lĩnh một tác phẩm văn học. Bởi văn
chương là nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy để tiếp nhận một tác phẩm văn học thì
không có cách nào khác là Đọc- Hiểu.
Theo SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10: Đọc là “hoạt động nắm bắt ý ngĩa
trong các kí hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm bắt ý nghĩa từ
tín hiệu âm thanh”. Đó là hoạt động lấy văn bản viết, in, khắc làm đối tượng
khác với việc đọc của người thoát nạn mù chữ là biết đọc chữ. Đọc ở đây đòi
hỏi hiểu sâu nội dung từ ngữ, tình cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng
văn bản đó vào đời sống cá nhân và xã hội.
Hiểu là nắm được thông tin và ý nghĩa của văn bản, giải thích, biểu đạt
được cái hay và ý tưởng của văn bản. Hiểu là ngộ ra, nhận ra những chân lí đời
sống, những triết lí nhân sinh được viết và gửi gắm trong văn bản. Đồng thời
cũng có thể là sự bổ sung, tiếp thêm cho văn bản những ý nghĩa, giá trị mới.
Theo GS. TS Nguyễn Thanh Hùng thì “Đọc - Hiểu là đọc cái chủ quan
của người viết bằng cách đồng hoá tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào
trang sách. Đọc - Hiểu không chỉ là tái tạo âm thanh, từ và chữ viết mà còn là
quá trình nhuần thấm tín hiệu nghệ thuật chưa mã hoá đồng thời với việc huy
động vốn sống, kinh nghiêm các nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng
thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của văn chương. Đọc - Hiểu là đón đầu những gì
đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi quay về với những gì đã đọc


SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

11

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo
trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng”. 5, tr.5
Trong cuốn Hiểu văn dạy văn GS Nguyễn Thanh Hùng khẳng định:
Đọc - Hiểu không những là những hình thức tiếp nhận nội dung, vẻ đẹp thẩm
mĩ của văn bản mà đó còn là hoạt động tâm sinh lí, có tính trực giác và khái
quát. Nó hàm chứa trong đó kinh nghiệm cá nhân của bạn đọc. Đây là mối
quan hệ giữa chủ thể sáng tác và chủ thể tiếp nhận, tạo ra quá trình giao tiếp
ngầm giữa nhà văn và bạn đọc. Người đọc chính là người đồng sáng tạo trong
văn chương.
Còn theo GS Nguyễn Thái Hoà: Đọc - Hiểu là một phương pháp “Nói
một cách khái quát dù đơn giản hay phức tạp đều là hành vi ngôn ngữ, sử
dụng linh hoạt một thủ pháp, thao tác bằng cơ quan thị giác và thính giác để
tiếp nhận phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn bản”
. GS đã chỉ ra Đọc - Hiểu là một hành vi ngôn ngữ. GS coi đó là một thao tác
dùng các cơ thị giác và thính giác. Người đọc đi tìm hiểu nội dung và nghệ
thuật của văn bản, không chỉ vậy Đọc - Hiểu còn là quá trình ghi nhớ nội
dung thông tin và cấu trúc văn bản.
Sách giáo viên Ngữ Văn 6 là cuốn sách đầu tiên nêu khái niệm về Đọc Hiểu. Về phương pháp Đọc - Hiểu “Cách làm chủ yếu vẫn là bằng hình thức

nêu câu hỏi hướng dẫn nhưng nhấn mạnh phương châm đề cao công việc
hoạt động của học sinh, nhằm tìm hiểu văn bản theo ba hướng sau: Đọc Hiểu; suy nghĩ - vận dụng; liên tưởng - tích luỹ các phương pháp dạy học
hiện đại”.
Từ những ý kiến và những hiểu biết trên, chúg tôi đi đến xác lập khái
niệm về phương pháp Đọc - Hiểu trên tinh thần tham khảo và học hỏi:

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

12

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Theo nghĩa rộng, Đọc - Hiểu là thuật ngữ chỉ chung cho phương thức và
mục đích của việc lĩnh hội tri thức và nắm bắt thông tin. Đó là hoạt động nhận
thức nói chung thông qua con đường giải mã văn bản ngôn từ.
Theo nghĩa hẹp, Đọc - Hiểu là hoạt động thưởng thức nghệ thuật ngôn
từ, hưởng thụ thẩm mỹ của con người. Nó bao gồm nhiều hành động thể chất
và thao tác tư duy (tưởng tượng, liên tưởng, phán đoán...) để đi đến đích là
cảm hiểu và thể nghiệm được nội dung, ý nghĩa của văn bản.
Như vậy, Đọc - Hiểu không đơn giản là một kỹ năng như nhiều người đã
quan niệm mà nó chính là một con đường nhằm thu nhận kiến thức.
Mô hình chung cho hoạt động đọc văn: Biết - nhớ - hiểu - vận dụng; từ
những năng lực có thể rút ra trong quá trình Đọc - Hiểu văn bản văn học: năng
lực cảm nhận, lí giải, tưởng thức, ghi nhớ; chúng ta có thể bước đầu xác định
những thao tác chính sử dụng trong phương pháp Đọc - Hiểu gồm các bước:

Bước 1: Cần tạo tâm thế tiếp nhận văn bản văn học cho học sinh tức thu
hút sự chú ý của học sinh vào bài học bằng nhiều cách: giới thiệu vào bài hay,
ấn tượng, tổ chức một cuộc thi nhỏ, ứng dụng các phương tiện kĩ thuật gây
hứng thú cho học sinh.
Bước 2: Tri giác ngôn ngữ nghệ thuật hay chính là giúp học sinh đọc
hiểu khái quát văn bản.
Đọc hiểu khái quát văn bản bao gồm đọc văn bản, tìm hiểu xuất xứ, thể
loại, bố cục văn bản, tìm hiểu chú thích.
Lưu ý: khi đọc văn bản cần đọc rõ ràng mạch lạc, đúng chính tả, thông
hiểu ý nghĩa văn bản. Đối với văn bản có dung lượng không lớn như: văn bản
thơ có thể yêu cầu học sinh đọc thuộc. Với văn bản tự sự cần nhớ các sự kiện
chi tiết trong truyện và nhớ các xung đột mâu thuẫn, hành động trong kịch.
Điều này sẽ giúp học sinh chủ động hơn trong việc khám phá chi tiết văn bản
văn học.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

13

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Bước 3: Tái hiện hình tượng văn học.
Để tái hiện hình tượng văn bản văn học thì học sinh cần đọc kĩ văn bản
văn học tức đọc nhiều lần để có khả năng ghi nhớ kết cấu văn bản, các chi tiết
biến cố cơ bản. Có thể tái hiện hình tượng văn học bằng nhiều cách như: sơ

đồ hóa những diễn biến trong truyện, mối quan hệ của nhân vật; tổ chức cho
học sinh thực hiện các bào tập tái hiện, kết nối các sự việc cho đúng nội dung
văn bản muốn truyền tải (có thể trực quan hóa bằng tranh, ảnh, hình tượng
phù hợp với từng văn bản kiểu loại văn bản).
Bước 4: Phân tích, cắt nghĩa, khái quát hóa ý nghĩa nghệ thuật bằng
phương pháp đàm thoại diễn giảng.
Học sinh đọc kĩ văn bản, khảo sát tất cả các yếu tố tạo thành văn bản, lựa
chọn một số yếu tố được xem là cơ bản quan trọng có lượng tư tưởng chủ đề
cao để khảo sát kĩ vì những yếu tố đó tập trung tài năng tư tưởng của tác giả
và làm nên chính giá trị của tác phẩm.
Lưu ý: Cần giúp học sinh hiểu sâu văn bản, phát hiện ra kết cấu bên
trong của văn bản tức là cắt nghĩa lí giải được hình ảnh, chi tiết nghệ thuật của
văn bản văn học.
Văn bản văn học thường đa nghĩa, cần giúp học sinh đọc hiểu để nắm
được ý nghĩa tư tưởng văn bản cung cấp kết hợp tư duy chủ quan của người
đọc. Mỗi tác phẩm văn học là nơi gửi gắm tư tưởng tình cảm, quan niệm của
người nghệ sỹ qua hình tượng văn học nên sau khi phân tích cắt nghĩa nắm
được ý nghĩa văn bản cần khái quát hóa ý nghĩa nghệ thuật của văn bản tức
đồng nghĩa với việc đọc sáng tạo. Người đọc phải biết liên tưởng, tưởng
tượng lấp đầy khoảng trống do người nghệ sỹ tạo ra từ đó đồng cảm sẻ chia
với người nghệ sỹ.
Biện pháp thực hiện: Xây dựng những tình huống có vấn đề hoặc cho
học sinh thảo luận nhóm.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

14

Lớp K35C



Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Bước 5: Tự bộc lộ nhận thức hay chính là bước đánh giá liên hệ thực tiễn.
Người đọc đưa ra ý kiến của mình đối với một văn bản có hai cấp độ:
Thứ nhất, đánh giá khách quan: đánh giá dựa trên những căn cứ qua nội
dung văn bản vừa phân tích để có nhận xét thỏa đáng.
Thứ hai, bộc lộ thái độ của cá nhân mang màu sắc chủ quan thể hiện
quan điểm của người đọc: yêu, ghét, phản đối hay đồng tình.
Biện pháp thực hiện: Giúp học sinh liên hệ thực tế: yêu cầu học sinh
nhập vai để học sinh bộc lộ bản thân; yêu cầu học sinh viết bài luận đánh giá
tác phẩm hoặc viết bài thu hoạch cá nhân sau khi học xong.
Trên đây là những bước cơ bản của việc Đọc - Hiểu một tác phẩm văn
chương trong dạy học. Xung quanh đó còn khá nhiều ý kiến khác nhau về vấn
đề này. Trong dạy học, nguời giáo viên hoàn toàn có thể vận dụng linh hoạt
các bước trên, kết hợp với những phương pháp của mình để giờ học đạt hiệu
quả cao nhất.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Văn học luôn là người thư kí trung thành của thời đại, thời đại xã hội thế
nào sẽ được thể hiện vào trong tác phẩm văn học như vậy. Tác phẩm văn học
ra đời là để con người thỏa mãn nhu cầu tinh thần giàu có và cao đẹp vô hạn
của chính mình, vậy nên, văn chương không thể, nếu như không muốn nói là
không được phép, ngoảnh mặt lại với con người và xã hội. Vấn đề duy nhất
đặt ra là: cần phải đáp ứng nhu cầu của đời sống bằng chính đặc trưng của văn
chương. Cần phải gắn văn chương với đới sống thực tiễn.“Văn học là nghệ
thuật, là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội”.
Và trong giáo dục cũng vậy, tất cả các môn học trong nhà trường đều
phải gắn việc dạy và học với đời sống xã hội. Thừa nhận ý nghĩa đào tạo to

lớn của nguyên tắc dạy học văn gắn liền với đời sống là điều không phải bàn
cãi nhưng để thống nhất một cách hiểu thấu đáo về bản chất và đặc điểm mối

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

15

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

quan hệ giữa văn chương và đời sống thật không dễ dàng. Đã biết sức mạnh
riêng của môn văn trước hết tồn tại “bản chất người” trong từng tác phẩm.
Văn chương là tập hợp hội tụ của con người với sự độc đáo và phong phú của
hình tượng nghệ thuật. Nhờ qui luật tình cảm diễn ra trong khi đọc “con
người được soi mình và nhận ra bản thân mình” (Socrates). Như vậy học văn
- đọc văn là phương tiện giao lưu xã hội để phát hiện và tự hoàn thiện bản
thân. Sức mạnh riêng của môn văn được nhân lên gấp nhiều lần trong nhà
trường với tư cách là một môn học cơ bản. Những tác phẩm được lựa chọn
trong chương trình có một giá trị tiêu biểu “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Nội
dung đã được sàng lọc, xác định qua thời gian nên mang tính thời sự và có giá
trị thực tiễn.
Xã hội càng phát triển, đặc biệt trong thời đại hội nhập, nhu cầu vươn tới
một nền giáo dục chất lượng cao, đào tạo ra những người có khả năng thích
nghi với cuộc sống, giải quyết những vấn đề thiết thực của cuộc sống ngày
càng cấp thiết. Đó là cái đích hướng tới của giáo dục, trong đó Ngữ văn là
một môn học giữ vai trò rất quan trọng.

Từ trước tới nay, môn Ngữ Văn được coi là môn học đặc thù với rất
nhiều chức năng: vừa rèn luyện về ngôn ngữ, rèn luyện tư duy hình tượng
cũng như khả năng sáng tạo của HS, vừa rèn luyện năng lực cảm thụ cái đẹp
của văn chương lại vừa có nhiệm vụ giáo dục nhân cách, đạo đức. Mục đích
cuối cùng của việc dạy văn trong nhà trường là đào tạo ra những con người có
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, có kĩ năng đọc, kĩ năng viết và kĩ năng nói
đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, do những nguyên
nhân chủ quan và khách quan, việc dạy và học Ngữ văn trong nhà trường (các
cấp) hiện nay chưa đáp ứng được những yêu cầu trên.
Theo điều tra của nhiều công trình nghiên cứu về việc dạy - học văn hiện
nay, kết quả học tập môn Ngữ Văn của HS rất đáng báo động. Nhiều HS không

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

16

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

biết cách tự viết, không thích đọc và cũng không biết cách tiếp cận một văn bản
ngoài nhà trường để có thể tự đọc - hiểu. Thậm chí nhiều Học sinh, Sinh viên
ra trường không biết cách viết một lá đơn xin việc, không trình bày được ý
tưởng trong công việc một cách mạch lạc… tức là đã thiếu đi những kĩ năng
sống cơ bản lẽ ra phải được trang bị qua môn Ngữ Văn. Vì vậy dạy học Ngữ
văn trong nhà trường THPH gắn liền với đời sống thực tiễn là vấn đề cần thiết.
1.3. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn

Như đã trình bày ở lí do chọn đề tài: đối với những văn bản văn chương
thuộc thể loại trữ tình, học sinh thường có quan niệm là chúng quá lãng mạn,
bay bổng, xa rời với hiện thực cuộc sống và cho rằng đó chỉ là những cảm
nhận của giới văn nghệ sỹ nên tiếp nhận văn bản trữ tình theo hướng “học
cho xong”.
Trong khi thực tế, những văn bản trữ tình lại mang những giá trị nhân
sinh rất thiết thực mà học sinh chưa khám phá ra. Người giáo viên với vai trò
hướng dẫn tổ chức hoạt động học của học sinh chính là chiếc cầu nối giúp học
sinh nhận ra và tiếp thu những giá trị đó qua phương pháp Đọc - Hiểu văn
bản. Nếu như trong những giờ dạy Đọc- Hiểu văn bản trữ tình, giáo viên có
thể dẫn dắt học sinh tới những giá trị nhân sinh thực tiễn, học sinh có thể áp
dụng vào trong đời sống của mình thì chắc chắn giờ văn sẽ thu hút được rất
nhiều sự chú ý của học sinh và không còn hiện tượng “học cho xong” những
văn bản trữ tình.
Mặc dù biết rằng, học văn là cần giúp các em giúp biết rung cảm với nhịp
đập trái tim con người trước cuộc sống muôn màu, bồi đắp lòng tin yêu con
người và cuộc sống, biết căm ghét những gì hạ thấp nhân phẩm và ngăn cản sự
phát triển toàn diện của con người. Nhưng nếu không gắn liền với lợi ích thực
tiễn đặc biệt trong môi trường xã hội công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

17

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương


thì việc dạy Đọc - Hiểu văn bản trữ tình trong nhà trường THPT vẫn sẽ trở nên
nặng nề, giáo điều và không đạt được hiệu quả giáo dục mong muốn.
Trong khuôn khổ của một khóa luận nghiệp tốt nghiệp, chúng tôi đi tìm
hiểu văn bản trữ tình Vội Vàng của nhà thơ Xuân Diệu (chương trình Ngữ
Văn lớp 11 tập 2 của NxbGD). Đề tài nghiên cứu: “Đọc- Hiểu văn bản Vội
Vàng (Xuân Diệu) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn” với
mục đích giúp học sinh thấy được quan niệm nhân sinh mới mẻ. Đồng thời,
với việc nghiên cứu này chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi
mới dạy học với hy vọng tác phẩm văn học sẽ gần gũi hơn với học sinh trong
trường THPT.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

18

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Chương 2
ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN “VỘI VÀNG” (XUÂN DIỆU) TRONG NHÀ
TRƯỜNG THPT GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
2.1. Đặc điểm của văn bản trữ tình
2.1.1. Khái niệm văn bản trữ tình
Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và
phát triển tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học thể

hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về các loại đặc điểm của
hiện tượng đời sống và tính chất của mói quan hệ giữa nhà văn và các loại
hiện tượng đời sống ấy.
Mỗi thể loại văn học lại có những những đặc điểm riêng về nội dung và
hình thức nhằm đáp ứng và phản ánh phù hợp với hiện tượng đời sống, quan
điểm tư tưởng mà văn học muốn gửi gắm, phản ánh. Chính vì thế, sự phân
chia thể loại là một yêu cầu không thể thiếu. Nhìn chung, đến nay còn rất
nhiều sự tranh luận xung quanh vấn đề phân chia thể loại nhưng với giới hạn
của đề tài về vấn đề dạy đọc hiểu văn theo đặc trưng thể loại gắn liền với đời
sống thực tiễn nên bài viết này chỉ đi sâu vào thể loại trữ tình mà cụ thể là văn
bản trữ tình.
Về nội dung, có thể thấy những tác phẩm trữ tình thường đi sâu vào
khám phá thế giới nội tâm, cảm xúc bên trong - những cảm xúc rất đa dạng,
mơ hồ. Đó có thể là niềm vui, nỗi buồn, sự chia li, hy vọng hay đau đớn...
Đặc biệt, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong những tác phẩm trữ tình thường
bộc lộ một cách trực tiếp, có thể thiên về tình cảm cá nhân, có khi suy tư về
nhân tình thế thái, về số phận con người, về thăng trầm xã hội, về cảm xúc
thời đại .v.v...
Về hình thức, tác phẩm trữ tình thường có hình thức ngắn gọn mang tính
chất tâm tình, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ mang tính cách điệu, hàm súc, tư
tưởng được mã hóa vào những biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

19

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học


GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Tác phẩm trữ tình gồm cả tùy bút, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc nhưng
tiêu biểu nhất là thơ trữ tình. Đặc điểm cơ bản của tác phẩm trữ tình là sự thổ
lộ ý nghĩ, cảm xúc trước thế giới, trong đó tình cảm là mạch phát triển then
chốt của tác phẩm nên biểu hiện tập trung nhất của thể loại trữ tình là thơ trữ
tình. Hiểu một cách đơn giản theo nghĩa hẹp: Văn bản trữ tình là những văn
bản thơ trữ tình có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý
nghĩ, cảm xúc, tâm trạng riêng của người nghệ sĩ trước cuộc sống.
2.1.2. Đặc trưng của văn bản trữ tình
2.1.2.1. Lấy việc bộc lộ nội tâm con người làm mục đích nội dung biểu đạt
Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng tình cảm nhưng tác phẩm
loại trữ tình lại thể hiện tình cảm theo cách riêng. Ở tác phẩm tự sự, tác giả
xây dựng bức tranh về đời sống trong đó các nhân vật thường có đường đi và
số phận của chúng. Bằng những đối thoại và độc thoại, tác giả kịch thể hiện
tính cách và thể hiện hành động con người qua những mâu thuẫn xung đột. Ở
tác phẩm trữ tình: thế giới chủ quan của con người, cảm xúc, tâm trạng, ý
nghĩ được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu:
“Hôm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ ….”
(Ca dao)
Ngoài cảm xúc và tâm trạng khắc khoải nhớ mong người đọc hoàn toàn
không biết gì về con người và nguyên nhân cụ thể dẫn đến những nỗi niềm
đó. Đặc biệt với những bài thơ trữ tình có khả năng đi sâu vào những ngõ
ngách tâm hồn của con người để phản ánh thế giới nội tâm phức tạp và phong


SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

20

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

phú. Những tình cảm ấy xuất phát từ những tình cảm có thật trong đời sống:
có thể là nỗi buồn, niềm vui, sự hồi hộp, lo âu hay hy vọng… Càng dễ nhận
thấy rõ điều này hơn trong những bài thơ đương đại:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới! Mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu)
Với việc tạo nên những hình ảnh rất đặc trưng của mùa thu: rặng liễu, lá
vàng. Xuân Diệu không chỉ vẽ lên một bức tranh thu rất truyền thống mà còn
giúp người đọc thấy được cái tình thu cái nét buồn trong bức tranh thu, sự nhận
rõ bước đi của thời gian trong cảm nhận của mình: thu tới. Đồng thời, những
câu thơ thể hiện rất rõ cái mới nét riêng cuả Xuân Diệu khi viết về mùa thu.
Miêu tả cảnh thu tới nhưng rõ ràng cách tái hiện ngoại cảnh này là để
chủ thể trữ tình bộc lộ cảm xúc, suy tưởng của mình được dễ dàng, gợi cảm,
dễ hiểu. Như vậy có thể thấy từ những câu ca dao xưa cho tới những bài thơ
đương đại, dấu hiệu chung của tác phẩm trữ tình là sự biểu hiện trực tiếp thế
giới chủ quan của con người: những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ.

Nói cách khác, biểu hiện trực tiếp những cảm xúc, suy tưởng của con
người là cách phản ánh thế giới của tác phẩm trữ tình.
2.1.2.2. Chủ thể trữ tình
Nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân
vật trữ tình hay còn được gọi là chủ thể trữ tình.
Chủ thể trữ tình là hình tượng nhân vật trực tiếp đứng ra để thổ lộ cảm
xúc, suy nghĩ, tâm trạng trong tác phẩm và chi phối toàn bộ cảm xúc của bài
thơ. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

21

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

như nhân vật tự sự và kịch. Cụ thể như trong bài thơ Tống biệt hành của
Thâm Tâm thì nhân vật trữ tình là người đưa tiễn:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.”
Trong một bài thơ thường có một nhân vật trữ tình nhưng những bài thơ
có kết cấu đối đáp thường xuất hiện hai nhân vật trữ tình như hai nhân vật trữ
tình: người ở lại và người ra đi qua hai đại từ xưng hô: mình - ta trong bài
Việt Bắc của Tố Hữu.

Cần phân biệt giữa chủ thể trữ tình và nhân vật trong thơ trữ tình. Nhân
vật trong thơ trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tình cảm là nguyên
nhân trực tiếp khơi dậy nguồn tình cảm của tác giả:
“Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”
(Tương tư - Nguyễn Bính)
Nhân vật trữ tình là người con trai và đối tượng để tâm tình ở đây là
người con gái. Mặc dù không đánh đồng chủ thể trữ tình là tác giả nhưng
nhân vật trữ tình trong thơ thường là hiện thân của tác giả.
Để thấy rõ hơn về đặc trưng này của văn bản trữ tình tình thì nhân vật trữ
tình cũng có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, đó là nhân vật trữ tình là nhân vật mang nhiều cảm xúc và vào
thời điểm xuất hiện trong tác phẩm luôn có nhu cầu tâm sự dãi bày. Bài thơ
Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, nhân vật trữ tình đã thể hiện rõ cảm
xúc đau đớn khi quê hương bị giặc tàn phá xen lẫn với niềm tự hào về truyền
thống quê hương và khát vọng, lòng quyết tâm đánh giặc.

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

22

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Thứ hai, nhân vật trữ tình thường bộc lộ cảm xúc trực tiếp xuất phát từ
hoàn cảnh cá nhân trong đời sống nhưng đồng thời hướng tới tính khái quát

đại chúng dành cho tâm trạng của nhiều người. Như Tương tư của Nguyễn
Bính là cảm xúc, tâm trạng rất riêng của chàng trai nhưng cũng là cảm xúc
chung của những người đang yêu đơn phương.
Hay câu thơ của Chế Lan Viên “Hỡi sông Hồng, tiếng hát bốn nghìn
năm, Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?” đã phản ánh hào khí của nhân
dân ta trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Như vậy, thơ trữ tình tuy
biểu hiện thế giới nội tâm chủ quan, lại cũng có thể theo cách riêng của mình
phản ánh thực tế khách quan của cuộc sống xã hội. Đúng như V. HuyGo
khẳng định “Cái tôi trữ tình trong thơ là cái ta của thời đại”.
Thứ ba, cảm xúc của nhân vật trữ tình ít nhiều gắn bó với cuộc đời tác
giả. Có thể nói lên tâm trạng tác giả nhưng không có nghĩa đồng nghĩa với tác
giả bởi lẽ trong nhiều trường hợp tác giả đứng ở vị trí trung gian nói hộ tâm
trạng của người khác để tạo nên tâm trạng trữ tình nhập vai. Cụ thể như trong
bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ: nhà thơ nói hộ tâm trạng của con hổ trong
vườn bách thú xót xa cho dĩ vãng quá khứ hoàng kim. Chỉ có thể thấy văn bản
là sản phẩm tinh thần của nhà thơ. Dù loại nhân vật trữ tình nào thì phẩm chất
và cá tính hà thơ cũng để lại dấu ấn sâu sắc trong tác phẩm. Nếu điều nhà thơ
viết ra không bắt nguồn từ phẩm chất tinh thần của mình, từ sự trải nghiệm
của bản thân, từ lí tưởng thẩm mỹ của mình thì tác phẩm khó có sự hấp dẫn
nghệ thuật và gây xúc động lòng người. Ngược lại nếu bài thơ chỉ ghi lại
những cảm xúc tủn mủn, những tâm trạng không bắt nguồn từ hiện thực xã
hội và lịch sử khách quan thì chẳng có giá trị.
2.1.2.3. Ngôn ngữ trữ tình
Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm tự
sự và kịch đều mang tính hình tượng, gợi cảm, hàm súc. Nhưng trong ngôn
ngữ thơ, có những đặc điểm thể hiện theo cách riêng:

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

23


Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Thứ nhất, ngôn ngữ thơ bão hòa cảm xúc: Đặc trưng nổi bật của thơ trữ
tình là mọi từ mọi câu đều chứa đựng cảm xúc. Ngôn ngữ thơ không bao giờ
là ngôn ngữ khách quan, yên tĩnh của tác phẩm tự sự. Lời thơ thường là lời
đánh giá trực tiếp thể hiện một quan hệ của chủ thể với cuộc đời:
“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca..”
(Tố Hữu)
Tình cảm nồng nhiệt trong thơ được dồn chứa vào ngôn từ, đặc biệt là
những nhãn tự - tiêu điểm để tư đó có thể nhìn thấu vào tâm hồn tác giả.
Chính vì thế, sự lựa chọn từ ngữ, phương thứ tu từ trong thơ bao giờ cũng
nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê
phán của chủ thể trở nên nổi bật. Đặc biệt, lời thơ trữ tình còn mang tính chất
“mê hoặc”. Lời thơ thường phải khác thường để đưa ta vào những chân lí
thâm thúy của đời sống. Đây là điểm khác biệt hẳn so với lời tự sự, kịch hay
lời đời thường.
Thứ hai, ngôn ngữ thơ mang tính cách điệu: Ngôn ngữ thơ không sử
dụng cách diễn đạt giản dị, sáo mòn trong đời sống mà thường tìm đến cách
diễn đạt mới, sáng tạo hoặc đem đến những ý nghĩa mới mẻ cho những cái
tưởng như cố định sáo mòn. Có thể coi đây là một yêu cầu lạ hóa trong thơ.
Thứ ba, ngôn ngữ thơ cô đọng hàm súc: Do giới hạn khuôn khổ bài thơ

đòi hỏi nhà thơ khi sáng tạo phải dồn nén tư tưởng, cảm xúc vào trong ngôn
từ. Vì thế thơ thường tìm đến những biện pháp đối, điệp, so sánh, ẩn dụ, hoán
dụ, liên tưởng và sử dụng những biểu tượng giàu ý nghĩa:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
(Tương tư - Nguyễn Bính)

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

24

Lớp K35C


Khóa luận tốt nghiệp đại học

GVHD: ThS. GVC. Nguyễn Thị Mai Hương

Thứ tư, ngôn ngữ trữ tình rất giàu nhạc tính, giàu hình ảnh: Tác phẩm trữ
tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Như nhịp đập
của trái tim khi xúc động, ngôn ngữ thơ có nhịp điệu riêng của nó. Thế giới
nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ - mà bằng cả
âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Có thể coi tính nhạc điệu là một nét đặc
trưng của tác phẩm trữ tình. Nhạc tính của ngôn ngữ trữ tình được biểu hiện
qua rất nhiều khía cạnh như thanh điệu, sự gieo vần, cách ngắt nhịp, sự trùng
điệp, sự đăng đối hài hòa.
Thanh điệu là sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ. Trầm bổng là sự thay đổi
những âm thanh cao thấp khác nhau giữa thanh bằng và thanh trắc tạo ra
những điều mà chữ nghĩa không thể nói hết:
“Tôi lại về quê mẹ tôi xưa

Một buổi trưa nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát”
(Mẹ Tơm - Tố Hữu)
Một trong những cái đẹp trầm bổng của âm thanh là cách ngắt nhịp:
“Người ra đi / đầu / không ngoảnh lại
Sau lưng / thềm nắng / lá rơi đầy”
(Tống biệt hành - Thâm Tâm)
Cách ngắt nhịp 3/1/3 - 2/2/3 góp phần thể hiện ý chí quyết tâm của người
ra đi và tình cảm lưu luyến bịn rịn khi rời xa Hà Nội.
Góp phần tạo nên nhạc tính cho ngôn ngữ thơ là cách gieo vần. Vần có
tác dụng dính nối các dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất có
âm hưởng riêng. Xét vị trí vần có vần chân (tức vần ở cuối dòng thơ) và vần
lưng (tức vần ở giữa dòng thơ):

SVTH: Nguyễn Thị Thu Huyền

25

Lớp K35C


×