Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Đọc hiểu truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa (nguyễn minh châu) theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.99 KB, 69 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai và thực hiện đề tài “Đọc - hiểu truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) theo đặc trưng thể loại”, tác
giả đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của các
thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô giáo trong tổ Phương
pháp dạy học Ngữ văn và ThS Trần Hạnh Phương - người hướng dẫn trực
tiếp.
Tác giả khóa luận xin được bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn chân
thành đến các thầy cô giáo.
Do năng lực nghiên cứu có hạn, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu xót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo
và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Thúy

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp Đại học với đề tài “Đọc hiểu
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) theo đặc trưng
thể loại” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm
về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Thúy


2


MỘT SỐ THUẬT NGỮ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

THPT

: Trung học phổ thông

SGK

: Sách giáo khoa

CH

: Câu hỏi

DKTL

: Dự kiến trả lời

3



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 9
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ....................................... 10
6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 10
7. Đóng góp của khóa luận ........................................................................ 10
8. Bố cục của khóa luận............................................................................. 10
NỘI DUNG .................................................................................................. 11
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................... 11
1.1. Cơ sở lí luận .................................................................................... 11
1.1.1.Cơ sở tâm lí và lí luận dạy học hiện đại ...................................... 11
1.1.1.1.Cơ sở tâm lí ............................................................................. 11
1.1.1.2. Lí luận dạy học hiện đại ........................................................ 11
1.1.2. Vấn đề tiếp nhận văn học .......................................................... 12
1.1.2.1. Khái niệm ............................................................................... 12
1.1.2.2. Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học .................................... 15
1.1.3.Vấn đề thể loại ........................................................................... 16
1.1.3.1.Khái niệm ................................................................................ 16
1.1.3.2. Đặc trưng của thể loại truyện ngắn ......................................... 18
1.1.4. Quan niệm về đọc - hiểu ........................................................... 19
1.1.4.1. Khái niệm đọc - hiểu .............................................................. 19
1.1.4.2. Chức năng của đọc - hiểu ....................................................... 21
1.1.4.3. Các cấp độ đọc - hiểu ............................................................. 21
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 23


4


Chương 2. ĐỌC - HIỂU TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(NGUYỄN MINH CHÂU) THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI ..................... 25
2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu . 25
2.1.1.Cuộc đời ..................................................................................... 25
2.1.2. Sự nghiệp văn học ..................................................................... 25
2.2. Vị trí, vai trò của Nguyễn Minh Châu trong nền văn học Việt Nam
hiện đại và trong nhà trường phổ thông .................................................. 27
2.2.1. Nguyễn Minh Châu trong nền văn học hiện đại Việt Nam......... 27
2.2.2.Nguyễn Minh Châu trong nhà trường phổ thông ........................ 28
2.3. Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ....................... 29
2.3.1. Cốt truyện, tình huống truyện .................................................... 30
2.3.2. Nhân vật .................................................................................... 32
2.3.3. Ngôn ngữ .................................................................................. 36
2.4. Hướng dẫn đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại ..................... 38
2.4.1. Hướng dẫn đọc - hiểu cốt truyện, tình huống truyện .................. 38
2.4.2. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu nhân vật .................................... 40
2.4.3. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu ngôn ngữ truyện ....................... 46
Chương 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ....................................................... 48
KẾT LUẬN.................................................................................................. 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môn Ngữ văn là một trong những môn cơ bản của chương trình giáo dục

trong nhà trường THPT. Nó là môn học vừa mang tính khoa học, tính công
cụ, vừa mang tính nghệ thuật. Nó có khả năng thâm nhập vào thế giới tâm
hồn bạn đọc giúp họ tiếp nhận và lĩnh hội đời sống. Do vậy dạy học Ngữ văn
chính là giúp học sinh tiếp nhận văn chương một cách sáng tạo, bồi dưỡng
năng lực tư duy văn học, tư duy thẩm mĩ để các em có thói quen tiếp nhận chủ
động những giá trị văn minh của nhân loại.
Việc giảng dạy các tác phẩm trong nhà trường có ý nghĩa thời sự nóng
hổi luôn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới trong xã hội. Tuy
nhiên, trong thực tế giáo dục hiện nay, môn Ngữ văn chưa thể hiện được vị trí
quan trọng của nó. Chất lượng dạy và học Ngữ văn còn tồn tại nhiều bất cập
và hạn chế. Về phía người dạy vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ
kiến thức một chiều, biến giờ học Ngữ văn thành giờ đọc chép. Người dạy
chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như
chưa chỉ ra cho người học những con đường tích cực để thu nhận kiến
thức…Về phía người học không có sự tìm tòi, suy nghĩ sáng tạo mà chỉ tiếp
thu một cách thụ động làm các em chán nản mệt mỏi, nhiều em cảm thấy học
Ngữ văn như một cực hình, vô cùng nặng nề. Vì vậy vấn đề được đặt ra là
phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học. Dạy học Ngữ văn theo con
đường đọc - hiểu được xem là giải pháp hữu hiệu góp phần cải thiện và nâng
cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường THPT.
Hiện nay, chương trình và nội dung SGK được sắp xếp theo trục thể loại
là chính. Vì vậy hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản Ngữ văn theo đặc
trưng thể loại là một trong những hướng đi có nhiều ưu thế. Nó không chỉ
cung cấp cho học sinh những kiến thức ở từng bài mà còn là cơ sở giúp các

6


em nắm được những kiến thức chung về thể loại để có thể đọc - hiểu các văn
bản khác cùng thể loại.

Chương trình SGK Ngữ văn 12 hiện nay đã đưa vào nội dung học tập
một số tác phẩm mới. Đó là một số văn bản tự sự hiện đạị sau năm 1975. Đây
là một giai đoạn mới mở ra nhiều nội dung mới mẻ, cách nhìn nhận, phản ánh,
mô tả hiện thực phong phú, đa dạng, khác lạ. Tuy nhiên, dạy học những tác
phẩm trong giai đoạn này là thú vị nhưng hoàn toàn không dễ.
Là một sinh viên sư phạm, một giáo viên trong tương lai, thông qua
nghiên cứu đề tài này, người viết mong muốn tích lũy được những kinh
nghiệm quý báu trong việc tiếp cận tri thức, phương pháp dạy học mới, để
phục vụ tốt cho công việc giảng dạy SGK Ngữ văn.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được
viết sau năm 1975 và lần đầu tiên được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT.
Nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975,
người viết mong muốn những kiến thức này sẽ là cơ sở để đề tài “Đọc hiểu
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) theo đặc trưng
thể loại” đi vào thực tiễn góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy các văn
bản tự sự trong nhà trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu văn học theo thể loại
Ngay từ thời cổ đại, Aritxtốt trong cuốn “Nghệ thuật thi ca” đã nói đến
ba phương thức mô phỏng hiện thực là: Tự sự, trữ tình và kịch. Đến nay
những công trình nghiên cứu về đặc trưng thể loại là vô cùng phong phú, đa
dạng. Ở nước ta nghiên cứu văn học theo loại thể được các nhà nghiên cứu
quan tâm chủ yếu trên hai lĩnh vực lí luận và phương pháp.
Trên lĩnh vực lí luận, giáo trình “Lí luận văn học” của ĐH Tổng hợp do
Hà Minh Đức (chủ biên) và của ĐHSP do Phương Lựu (chủ biên) đã đưa ra

7


những đặc trưng của tự sự, song vấn đề được đề cập chỉ có tính chất lí thuyết

chưa đề cập đến phương pháp giảng dạy.
Trên lĩnh vực phương pháp, những công trình nghiên cứu về phương
pháp giảng dạy tự sự khá đa dạng. Có thể kể đến “Vấn đề giảng dạy tác phẩm
văn học theo thể loại”(Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Huỳnh Như Mai…).
Cuốn sách đã góp phần làm rõ nhiều vấn đề trong mối quan hệ giữa thể loại
và phương pháp dạy học văn. Các tác giả đã đi sâu vào ba loại: Tự sự, trữ tình
và kịch. Sau đó gợi ý phân tích nhiều thể nhỏ hơn như: Thơ, biền văn, truyện,
kí, hịch và đưa ra phương pháp giảng dạy theo đặc trưng thể loại.
Trong “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại”
(Nguyễn Viết Chữ) tập trung vào phương pháp dạy học các tác phẩm tự sự,
trữ tình và phương pháp chung dành cho các loại thể văn học nước ngoài.
Trong “Những vấn đề thi pháp của truyện”(Nguyễn Thái Hòa) cũng đề
cập đến một thể loại của tự sự là truyện ngắn song vẫn dừng ở mục đích khái
quát…
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu văn học theo thể loại đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm và đưa ra những kiến giải khác nhau và đã góp phần
quan trọng, là cơ sở cần thiết, định hướng cho việc dạy học Ngữ văn ở trường
THPT theo đặc trưng thể loại.
2.2. Các công trình nghiên cứu về đọc - hiểu
Cho đến nay, ở Việt Nam vấn đề đọc - hiểu đang đứng trước nhu cầu cần
được xây dựng thành một hệ thống lí thuyết văn bản. Ở bậc THCS, điều này
mới chỉ được định hướng một cách khái quát bằng hệ thống các câu hỏi đọc hiểu trong SGK Ngữ văn. Đến bậc học THPT các nhà biên soạn SGK đã cung
cấp tri thức về phương pháp đọc - hiểu cụ thể hơn bằng các bước đọc - hiểu
một văn bản. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
- Trần Đình Sử (2001) , “Đọc văn - học văn”, NXB Giáo dục.

8


- Nguyễn Thanh Hùng (2002), “Đọc và tiếp nhận văn chương”, NXB

Giáo dục.
- Nguyễn Trọng Hoàn (2010), “Tài liệu huấn luyện giáo viên thực hiện
dạy học và kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng chương trình
Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn”, NXB Giáo dục.
Qua một số công trình nghiên cứu kể trên đã chứng minh tầm quan trọng
của việc đọc văn. Để hoạt động dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông đạt hiệu
quả cao, giáo viên phải chú ý đến việc tổ chức, hướng dẫn cho học sinh những
cách thức đọc văn bản.
Với đề tài này, khóa luận muốn kế thừa và vận dụng có sáng tạo thành
quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước để dạy học Ngữ văn, đặc biệt
là đối với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu trong
nhà trường THPT.
3. Mục đích nghiên cứu
- Củng cố, nâng cao hiểu biết về phương pháp dạy học Ngữ văn theo
hướng đổi mới.
- Đưa văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” đến với học sinh theo đúng
hướng, đúng phương pháp.
- Bồi dưỡng năng lực đọc - hiểu, cảm thụ tác phẩm làm cơ sở cần thiết
cho giảng dạy Ngữ văn sau này ở trường phổ thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu lí thuyết tiếp nhận, lí thuyết đọc - hiểu, thể loại tự sự, thể loại
truyện ngắn, đặc điểm của thể loại truyện ngắn.
- Đọc - hiểu “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở trường
THPT theo đặc trưng thể loại.

9


5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu

- Lí thuyết đọc - hiểu, đặc trưng thể loại áp dụng vào việc đọc - hiểu văn
bản văn học theo đặc trưng thể loại.
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” - Nguyễn Minh Châu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đặc điểm loại hình tự sự qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu ở trường THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp phân tích

-

Phương pháp thống kê

-

Phương pháp thực nghiệm

7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận giúp người dạy thuận lợi hơn trong việc thiết kế bài học theo
hướng tổ chức cho người học phát huy sự sáng tạo. Từ đó góp phần vào việc
nâng cao chất lượng đọc - hiểu các văn bản văn chương trong nhà trường
THPT nói chung và đọc hiểu văn bản “ Chiếc thuyền ngoài xa” nói riêng.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
Chương 2: Đọc hiểu truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa”(Nguyễn
Minh Châu) theo đặc trưng thể loại.
Chương 3: Giáo án thực nghiệm.


10


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1.Cơ sở tâm lí và lí luận dạy học hiện đại
1.1.1.1.Cơ sở tâm lí
Học sinh ở từng độ tuổi, từng cấp học khác nhau lại mang những đặc
điểm tâm lí khác nhau. Đối tượng của hoạt động chủ yếu là các em học sinh
từ 6 - 18 tuổi. Ở cấp THPT là từ 16 -18 tuổi. Ở lứa tuổi này các em rất hiếu
động, ham học hỏi và có những biến đổi tâm lí rất phức tạp. Vì vậy để hoạt
động giáo dục nói chung và hoạt động dạy học Ngữ văn nói riêng đạt hiệu quả
cao cần căn cứ vào đặc điểm và khả năng của từng đối tượng để lựa chọn
phương pháp, phương tiện dạy học thích hợp.
Ở lứa tuổi THPT các em đã tích lũy được một lượng kiến thức và kinh
nghiệm sống tương đối phong phú, các em có khả năng tư duy cao và sức
sáng tạo dồi dào, khả năng tư duy lí luận và tư duy trừu tượng tăng lên rõ rệt.
Tư duy của các em chặt chẽ và có căn cứ hơn, các em hoàn toàn có khả năng
tư duy về một vấn đề văn học. Hơn nữa ở lứa tuổi này các em thích khẳng
định mình và có thái độ học tập tích cực, tự giác. Do đó việc áp đặt tri thức,
cách hiểu của giáo viên về một đối tượng có thể gây sự chán nản thậm chí là
phản ứng chống đối ở học sinh. Vì vậy trong hoạt động dạy học, giáo viên
phải biết cách tổ chức, điều khiển hoạt động dạy học nhằm khơi gợi khả năng
tư duy và tính tích cực chủ động của học sinh.
1.1.1.2. Lí luận dạy học hiện đại
Trong một thời gian dài, hoạt động dạy học ở trường phổ thông gắn liền
với phương pháp dạy học truyền thống theo kiểu truyền thụ kiến thức một
chiều. Dạy học theo phương pháp này giúp tiết kiệm thời gian, đảm bảo kiến

thức liền mạch, hệ thống. Song, phương pháp này dễ gây ức chế, chán nản,
không phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh mà còn biến học

11


sinh thành những nhân vật thụ động chỉ biết nghe và tiếp thu một cách máy
móc, rập khuôn những lời giảng của thầy. Cho đến nay phương pháp dạy học
truyền thống vẫn được sử dụng nhưng từ những hạn chế của nó đổi mới
phương pháp dạy học là một nhu cầu tất yếu.
Nếu như trước đây hoạt động “dạy học lấy thầy làm trung tâm” thì hiện
nay với phương châm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học
“dạy học lấy trò làm trung tâm” đã khiến vai trò của cả người dạy và người
học thay đổi. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, nhà trường không
chỉ có nhiệm vụ cung cấp tri thức cho học sinh mà còn phải trang bị cho các
em phương pháp học tập, phương pháp tư duy để các em có khả năng tự mình
giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Do đó việc phát huy tính chủ động sáng
tạo của học sinh là rất quan trọng.
Môn Ngữ văn trong trường phổ thông là một môn học vừa cung cấp kiến
thức vừa giúp các em có khả năng bộc lộ sự sáng tạo của bản thân, giúp cho quá
trình đồng sáng tạo với nhà văn trở nên có hiệu quả để các em tự mình vươn tới
những tầng cao trí tuệ và đặt chân tới những miền sâu thẳm của tâm hồn.
1.1.2. Vấn đề tiếp nhận văn học
1.1.2.1. Khái niệm
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” tiếp nhận văn học là “hoạt động
chiếm lĩnh giá trị tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm
thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng cảm hứng, quan niệm
nghệ thuật, tài năng tác giả cho đến tác phẩm sau khi đọc”.[4,325]
Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn
chương” lại quan niệm “Tiếp nhận tác phẩm văn học là quá trình đem đến

cho người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng
cố và phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần
và năng lực cảm xúc của con người trước đời sống”.[8,9]

12


Trong cuốn giáo trình “Lí luận văn học” do Phương Lựu (chủ biên) thì
“Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác của văn
học”.[17,215]
Như vậy, có rất nhiều quan niệm về tiếp nhận văn học nhưng thực chất
đó là quá trình mà người đọc bằng vốn văn hóa cùng trí tưởng tượng phong
phú của mình thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm để khám phá,
phát hiện, chiếm lĩnh những giá trị tư tưởng thẩm mĩ mà nhà văn gửi gắm qua
lớp ngôn từ, hình ảnh. Ở đó diễn ra một cuộc đối thoại tự do giữa người đọc
với nhà văn thông qua tác phẩm. Văn bản mà nhà văn viết ra chỉ có một
nhưng ở mỗi người đọc lại bồi đắp thêm cho nó những tầng ý nghĩa mới vượt
khỏi ý đồ của tác giả, góp phần bổ sung, hoàn thiện thêm những giá trị thẩm
mĩ của tác phẩm. Quá trình đồng sáng tạo ấy đem lại cho văn bản một cách
hiểu mới làm cho tác phẩm không đứng yên mà luôn luôn vận động, phong
phú thêm trong quá trình phát triển của lịch sử văn học.
Việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường thực chất là dạy cho học sinh
cách tiếp nhận văn học dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Người giáo viên phải
giúp học sinh nắm được những phương thức biểu đạt riêng của từng tác phẩm
để hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao.
Sáng tác tác phẩm văn học là một quá trình. Nhà văn đứng trước cuộc
sống, bằng óc quan sát cảm thụ, tài năng nghệ thuật thiên bẩm, trí tưởng
tượng phong phú đã tạo ra tác phẩm văn học - đứa con tinh thần của mình.
Song mỗi người có cách làm, cách sáng tạo riêng không ai giống ai. Quá trình
sáng tạo nghệ thuật còn phải tuân theo những bước nhất định để tạo ra một tác

phẩm văn học hoàn chỉnh từ việc hình thành ý đồ sáng tác đến giai đoạn
chuẩn bị đến giai đoạn viết rồi giai đoạn sửa chữa cần được hết sức lưu tâm.
Hoạt động tiếp nhận văn học là quá trình bắt đầu từ việc đọc, phân tích,
cắt nghĩa và cuối cùng là bình giá tác phẩm.

13


Đọc tác phẩm
Tác phẩm văn học là một hệ thống các kí hiệu ngôn ngữ được nhà văn tổ
chức, sắp xếp theo một kiểu loại nào đó tùy thuộc vào chức năng nó thực hiện
và theo dụng ý của nhà văn. Trước một tác phẩm văn học, bước đầu tiên để
tiếp cận tác phẩm là đọc để giải mã hệ thống kí hiệu ngôn ngữ đó. Ở mỗi thể
loại lại có cách đọc riêng do sự chi phối của đặc trưng thể loại. Với những
môn khoa học thực nghiệm, để khai thác thông tin người ta có thể tiến hành
thí nghiệm, trực quan thì với tiếp nhận văn học, đọc là bước đầu tiên không
thể thay thế. Vì vậy hoạt động đọc luôn được chú trọng.
Hoạt động phân tích
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung và hình
thức nghệ thuật. Phân tích tác phẩm văn học là hoạt động chia nhỏ đối tượng
để có cái nhìn cụ thể những yếu tố làm nên chỉnh thể một cách sâu sắc hơn.
Hoạt động này sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn cụ thể hơn về đối tượng. Song, sau
khi chia tách đối tượng, người đọc phải tiến hành lắp ghép, tổng hợp để có thể
nhìn nhận chúng ở tầm khái quát. Bởi vậy, trên nền tảng những hiểu biết cụ
thể về tác phẩm, học sinh phải tiến hành thao tác tổng hợp, khái quát hóa để
nhận định chủ đề tư tưởng của tác phẩm và cũng là thông điệp nghệ thuật mà
nhà văn muốn chuyển đến mỗi người đọc.
Hoạt động cắt nghĩa
Cắt nghĩa là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận văn chương.
Cắt nghĩa để làm rõ ý nghĩa tác phẩm, bắt đầu từ việc lí giải những chi tiết,

hình ảnh tiến tới cắt nghĩa các hình tượng trong tác phẩm, cao hơn nữa là cắt
nghĩa toàn bộ tác phẩm. Thông qua hoạt động cắt nghĩa, người đọc sẽ có cái
nhìn đa chiều đối với tác phẩm, tìm ra nội dung, ý nghĩa và dụng ý nghệ thuật
mà nhà văn gửi gắm. Cắt nghĩa là cơ sở đánh giá mức độ hiểu của mỗi người,
đem lại sự nhận thức chắc chắn làm cơ sở để hiểu tác phẩm văn học.

14


Hoạt động bình giá
Đây là bước cuối cùng của tiếp nhận văn học dựa vào các kết quả thu
được từ hoạt động đọc, hoạt động phân tích, hoạt động cắt nghĩa trước đó. Đó
là hoạt động mang tính chủ quan, thể hiện thái độ đánh giá của người đọc.
Người đọc có thể tự do bày tỏ những ý kiến, những nhận xét, đánh giá chủ
quan mang đậm màu sắc cá nhân về tác phẩm. Hoạt động bình giá hướng tới
việc đi tìm cái mới về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm. Tuy nhiên khi
bình giá cần hết sức tránh lối nói phiến diện, xuyên tạc. Việc bình giá phải
khoa học và có trách nhiệm.
Như vậy có thể thấy tiếp nhận văn học được lập trình theo một trình tự từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nó là cả một quá trình, trong đó hoạt
động đi trước là tiền đề cơ sở giúp người đọc thực hiện các hoạt động tiếp
theo. Nhờ vậy quá trình tiếp nhận văn học diễn ra một cách đầy đủ, trọn vẹn.
1.1.2.2. Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học
Qúa trình đồng sáng tạo là rất cần thiết nhưng để tiếp nhận một tác phẩm
văn học trước hết đòi hỏi người đọc phải có khả năng cảm thụ, những hiểu
biết nhất định về văn học, tiếp xúc và thấu hiểu ý đồ sáng tạo của người nhà
văn để lắng nghe những thông điệp của họ, thưởng thức cái hay cái đẹp mà
tác phẩm văn học đó mang lại.
Khi sáng tác một tác phẩm nghệ thuật người sáng tác luôn muốn tìm đến
những bạn đọc tri âm tri kỉ để tìm sự đồng cảm. Một tác phẩm chỉ thành công

khi được bạn đọc và công chúng đón nhận. Người đọc bằng trí tưởng tượng,
kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và những rung cảm sâu sắc trong tâm hồn sẽ
cùng tái hiện, bồi đắp những cảm nhận tinh tế của nhà văn thành những bức
tranh đời sống chân thực, sống động, những hình tượng hoàn chỉnh để rồi tự
rút ra cho mình những bài học nhân sinh quý giá, qua quá trình tiếp nhận tích
cực ấy sẽ có thêm những hiểu biết, trải nghiệm về cuộc đời.

15


Bạn đọc đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn học. Tác phẩm của
người nghệ sĩ chỉ thực hiện được chức năng của nó khi được bạn đọc tiếp
nhận. Quá trình sáng tạo của tác giả sẽ chỉ là những trang giấy bất động và
hoàn toàn không có giá trị nếu không có công chúng. Người nghệ sĩ sáng tạo
ra tác phẩm nhưng người đọc mới chính là những người thẩm định và quyết
định sự tồn tại của chúng. Có bạn đọc thì quá trình sáng tạo kia mới hoàn tất.
Như vậy hoàn toàn có thể coi người đọc là yếu tố nội tại của quá trình
sáng tác văn học.Người đọc có vai trò to lớn trong việc quyết định sinh mệnh,
sự sống còn của tác phẩm văn học. Khi sáng tác tác giả luôn quan tâm đến
tình cảm, tâm lí và thị hiếu bạn đọc. Cùng một tác phẩm, ở mỗi thời kì, mỗi
thời điểm khác nhau, thậm chí ngay ở cùng một bạn đọc sự lĩnh hội cũng khác
nhau. Tùy thuộc vào tư chất cá nhân, trình độ nhận thức, năng lực tiếp nhận,
vốn sống, sự hiểu biết văn học nghệ thuật, nghề nghiệp, thời đại, môi trường
xã hội đều dẫn đến những cách nhìn, cách hiểu khác nhau về tác phẩm văn
học. Chính điều này tạo nên tính đa nghĩa, đa chiều, đa cách hiểu về hình
tượng nghệ thuật. Đối với nhà văn, người đọc luôn là hiện thân của nhu cầu
xã hội để tác phẩm hướng tới đáp ứng, lí giải, tuyên truyền hay thuyết phục.
Sự phong phú trong nội dung tác phẩm và tính đa nghĩa của hình tượng nghệ
thuật cũng tạo nên những cách hiểu không giống nhau ở bạn đọc.
1.1.3.Vấn đề thể loại

1.1.3.1.Khái niệm
* Khái niệm thể loại
“ Thể loại là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và tồn
tại tương đối ổn định trong quá trình lịch sử của văn học thể hiện sự giống
nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng
được miêu tả về tính chất của mối quan hệ nhà văn với các hiện tượng đời
sống ấy”[2,299].

16


Từ xa xưa Aritxtốt (384 - 322 TCN) đã chia văn chương làm ba loại : Tự
sự, trữ tình, kịch tương ứng với ba phương thức phản ánh đặc trưng. Nếu hình
tượng thiên về mặt biểu hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả ta có tác phẩm trữ
tình. Nếu hình tượng thiên về mặt phản ánh con người, sự việc trong cuộc
sống ta có tác phẩm tự sự. Tác phẩm tự sự tập trung cô đọng đến mức bản
thân nhân vật, sự việc, câu chuyện có thể bộc lộ mình một cách độc lập trên
trang sách hoặc trên sân khấu không cần lời dẫn truyện của tác giả như thế ta
có tác phẩm kịch.
Từ ba loại trên ta có thể chia nhỏ như sau:
Tự sự
Tự sự dân gian: Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ
ngôn, truyện cười.
Tự sự trung đại và hiện đại: Truyện và kí.
Trữ tình
Trữ tình dân gian: Ca dao, câu đố.
Trữ tình trung đại và hiện đại: Thơ cổ thể truyền thống và thơ tự do.
Kịch
Kịch dân gian: Chèo, múa rối.
Kịch trung đại: Tuồng.

Kịch hiện đại: Bi kịch, hài kịch…
* Thể loại tự sự
Theo “Từ điển tiếng Việt” “Tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện thực
bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách qua cốt truyện tương đối hoàn
chỉnh” [24,1378].
Theo “Từ điển văn học” “Tự sự là phương thức tái hiện đời sống bên
cạnh hai phương diện là trữ tình và kịch, được dùng làm cơ sở để phân loại
tác phẩm văn học” [4,385].

17


Theo SGk Ngữ văn 10, tập 1: “Tự sự (kể chuyện) là phương thức trình
bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến
một kết luận, thể hiện một ý nghĩa” [26,61].
Như vậy tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp hiện thực
khách quan như một cái gì tách biệt ở bên ngoài đối với tác giả thành một câu
chuyện có sự diễn biến của sự việc, của hoàn cảnh, có sự phát triển của tâm
trạng, tính cách, hành động của con người.
* Thể loại truyện ngắn
“Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện
ngắn bao trùm hầu hết các phương diện đời sống, đời tư, thế sự hay sử thi,
nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền
một mạch, đọc một hơi không nghỉ.”[4,370]
Truyện ngắn là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn đời, một cách nắm
bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại cho nên truyện ngắn xuất hiện
tương đối muộn trong lịch sử văn học.
1.1.3.2. Đặc trưng của thể loại truyện ngắn
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không
gian hạn chế. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều

tuyến mà được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bút
pháp nghệ thuật của truyện ngắn là chấm phá.
Nhân vật: Khác với thể loại tiểu thuyết chiếm lĩnh đời sống một cách
toàn vẹn, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hình tượng, phát
hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con
người. Vì thế trong truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Nếu
mỗi nhân vật trong tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật của truyện ngắn là
một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhằm tới việc khắc
họa tính cách điển hình trong mối tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật trong

18


truyện ngắn thường là hiện thân cho trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội
hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Chi tiết, lời văn là yếu tố quan trọng cho nghệ thuật viết truyện ngắn. Lối
kể và cách kể chuyện là những điều được người viết đặc biệt chú ý khai thác
và xử lí nhằm đạt hiểu quả mong muốn. Yếu tố quan trọng nhất của truyện
ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang đầy ẩn
ý tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.
Truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác sau 1975 khi chiến
tranh kết thúc, đất nước đã thống nhất. Đến thời điểm này các nhà văn có
khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Trước đây trong hoàn cảnh chiến tranh
không cho phép họ khám phá tận cùng sự phức tạp, bề bộn, ngổn ngang của
đời sống thì nay hiện thực đời sống đi vào văn chương một cách nguyên vẹn.
Không chỉ tồn tại những tác phẩm nói về chiến tranh với con người sử thi mà
còn có những con người trong cuộc sống mưu sinh hằng ngày, chất đời
thường sâu lắng. Chính những biến đổi to lớn của hoàn cảnh lịch sử xã hội đã
dẫn đến những thay đổi trong đời sống văn học. Ở thể loại truyện ngắn dường
như sự thay đổi ấy diễn ra mạnh mẽ hơn cả.

1.1.4. Quan niệm về đọc - hiểu
1.1.4.1. Khái niệm đọc - hiểu
Theo “Từ điển tiếng Việt”: “Đọc là tiếp nhận nội dung của một tập hợp
kí hiệu” [24,431].
Đọc là khâu đầu tiên, là tiền đề trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học.
Đọc không chỉ để lĩnh hội thông tin, làm giàu hiểu biết, làm phong phú tâm
hồn mà còn góp phần hoàn thiện nhân cách con người. Đọc là một hoạt động
đặc trưng của con người, một hoạt động mang tính văn hóa nhằm thỏa mãn
một nhu cầu của đời sống. Đồng thời nó cũng phản ánh những năng lực, tầm
văn hóa của người tiếp nhận. Đọc gắn liền với hiểu vì mục đích cuối cùng của
đọc là để hiểu.

19


Theo “Từ điển tiếng Việt” : “Hiểu là nhận ra ý nghĩa, bản chất, lí lẽ của
cái gì bằng sự vận dụng trí tuệ” [24,567].
Hiểu còn được xem là một cấp độ kĩ năng trong tư duy bậc cao. Hiểu là
mức độ cần đạt tới của đọc, do đó đọc luôn gắn liền với hiểu và hiểu một đối
tượng không chỉ dừng ở việc quan sát nắm bắt cái bề ngoài của đối tượng mà
phải đi sâu khám phá cái bên trong của nó.
Như vậy đọc và hiểu là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng luôn có
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ.
Vậy đọc hiểu là gì?
Theo Nguyễn Thanh Hùng : “Đọc - hiểu là một hoạt động của con người.
Nó không chỉ là hình thức nhận biết nội dung tư tưởng từ văn bản mà còn là một
hoạt động tâm lí giàu cảm xúc và có tính trực giác. Đọc - hiểu mang tính chất
đối diện một mình, đối diện với văn bản. Nó có cái hay là tập trung tích đọng và
lắng kết năng lực cá nhân. Đây là hoạt động thu nạp, tỏa sáng âm thầm với sức
mạnh nội hóa kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm nghệ thuật và

kinh nghiệm văn hóa trong cấu trúc tinh thần cá thể”.[9,22]
Theo Nguyễn Thái Hòa trong “Vấn đề đọc - hiểu và dạy đọc - hiểu”
(trong “Tạp chí thông tin khoa học sư phạm, số 5 - 2004): “Đọc - hiểu dù đơn
giản hay phức tạp đều là hành vi ngôn ngữ, sử dụng một loạt thủ pháp và
thao tác bằng cơ quan thị giác, thính giác để tiếp nhận, phân tích, giải mã và
ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn bản”.[6,6]
Hiểu một cách ngắn gọn thì đọc - hiểu là một quá trình mà người đọc
bằng hoạt động học thực hiện mục đích của việc đọc.
Trong dạy học Ngữ văn hiện nay, đọc - hiểu được coi là phương pháp
dạy học đặc thù. Tuy nhiên để hoạt động này diễn ra đúng nghĩa của nó trong
quá trình dạy học, giáo viên phải là người tổ chức cho học sinh khám phá
được nội dung tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm để có thể vận dụng vào việc
phân tích tác phẩm và tự rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm quý báu.

20


1.1.4.2. Chức năng của đọc - hiểu
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, con người có
rất nhiều cách để tiếp cận tác phẩm văn học. Trong đó đọc - hiểu là con
đường hữu hiệu giúp bạn đọc chiếm lĩnh tác phẩm bởi văn chương là loại
hình nghệ thuật ngôn từ nên chỉ có đọc mới có thể giúp bạn đọc chiếm lĩnh
những giá trị và ý nghĩa của tác phẩm.
Người đọc bằng những hiểu biết của cá nhân sẽ chuyển hóa các kí hiệu
ngôn ngữ trong văn bản thành những thông tin thẩm mĩ. Tùy theo các cấp độ
đọc khác nhau mà mỗi người thu về cho mình những lượng thông tin không
giống nhau. Thông qua việc đọc - hiểu tác phẩm văn chương, người đọc sẽ tự
rút ra cho bản thân những bài học kinh nghiệm quý báu về cuộc đời, con người.
Đọc - hiểu giúp cho quá trình khám phá nội dung tư tưởng nghệ thuật
của tác phẩm trở nên dễ dàng. Từ đó, có thể vận dụng phương pháp dạy đọc hiểu vào việc đọc và tạo lập văn bản tương đương.

Đọc - hiểu không chỉ là hoạt động thông thường mà đã trở thành hoạt
động văn hóa thể hiện tầm đón nhận của mỗi bạn đọc. Đọc - hiểu trở thành
một phương pháp, một con đường đặc trưng để tiếp nhận tác phẩm văn học.
1.1.4.3. Các cấp độ đọc - hiểu
* Đọc thông - đọc thuộc
Đọc thông là đọc rõ ràng, mạch lạc, đúng chính âm, ngữ điệu nhằm khôi
phục lớp vỏ âm thanh của ngôn ngữ, chuyển các kí hiệu sang tín hiệu âm
thanh, đồng thời sẽ tạo ra tác động cùng lúc vào nhiều giác quan, kích thích
quá trình tư duy làm xuất hiện các trạng thái và các quá trình tâm lí. Đọc
thông giúp cho người đọc có cái nhìn bao quát toàn bộ văn bản giúp cho quá
trình tiếp nhận trở nên thuận lợi hơn.
Đọc thuộc là cách đọc để ghi nhớ. Thuộc có thể hiểu là thuộc lòng những
văn bản trữ tình có quy mô vừa phải và có thể nhớ, tóm tắt các chi tiết quan
trọng, thuật lại những biến cố, sự kiện chủ yếu với các văn bản tự sự. Đọc

21


thuộc là hoạt động có tính mục đích, có ý thức nên không được đánh đồng với
học thuộc lòng và ghi nhớ máy móc.
* Đọc kĩ - đọc sâu
Đọc kĩ là đọc nhiều lần, đọc và phát hiện ra kết cấu, các tình tiết, các nội
dung chủ yếu trong văn bản. Mỗi văn bản là tập hợp những chi tiết, hình ảnh
được sắp xếp, tổ chức thành một hệ thống hoàn chỉnh nhưng vai trò của chúng
lại không giống nhau. Đọc kĩ là để phát hiện những yếu tố có tính nghệ thuật
cao trong văn bản.
Đọc sâu là đọc để tìm ra logic của văn bản, hệ thống các luận điểm,
phương pháp lập luận của các văn bản chính luận.
* Đọc hiểu - đọc sáng tạo
Đọc hiểu là quá trình đọc kết hợp phân tích để hiểu được nội dung thông

tin của văn bản một cách chính xác, có lí. Đọc hiểu cũng là mục đích đầu tiên
của việc đọc văn bản. Nhưng không chỉ hiểu được bề mặt ngôn từ văn bản mà
phải hiểu được tầng ý nghĩa sâu xa và thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm
trong đó.
Đọc sáng tạo là đọc các văn bản nghệ thuật để lấp đầy những khoảng
trống mà người nghệ sĩ để dành cho độc giả thỏa sức liên tưởng, tưởng tượng.
Đọc sáng tạo cho phép người đọc thể hiện những chính kiến cá nhân, tiếp cận
văn bản theo cách của riêng mình.
* Đọc đánh giá - đọc ứng dụng
Đọc đánh giá bao gồm đánh giá chủ quan và đáng giá khách quan. Đánh
giá khách quan đòi hỏi người đọc phải huy động những hiểu biết riêng của
mình về các lĩnh vực trong đời sống để đưa ra những nhận xét thỏa đáng.
Đánh giá chủ quan lại cho phép người đọc bày tỏ thái độ của mình về một vấn
đề nào đó trong tác phẩm, và có thể đồng tình hay phản đối về tác phẩm.
Đọc ứng dụng là nhằm phát hiện ra bài học cuộc sống được nhà văn gửi
gắm trong tác phẩm của họ để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống của bản thân.

22


Đây cũng chính là mục đích của việc dạy học Ngữ văn hướng đến giúp con
người hòa nhập và chung sống với xã hội.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Môn Ngữ văn có thể coi là một trong những môn học chủ đạo trong nhà
trường phổ thông. Tuy nhiên việc dạy và học bộ môn này còn nhiều bất cập
và hạn chế. Việc áp dụng những phương pháp dạy học truyền thống đã không
đáp ứng được những yêu cầu của việc học trong thời đại mới đã dẫn đến tâm
lí chán nản thậm chí phản ứng chống đối của học sinh trong các giờ học văn.
Điều này dẫn đến tình trạng chất lượng giờ học ngày càng giảm sút, các tác
phẩm văn học có giá trị chưa có chỗ đứng xứng đáng trong lòng những người

yêu văn chương.
Việc học sinh không chú ý đến việc đọc và chuẩn bị bài ở nhà cũng gây
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy. Với dung lượng tác phẩm rất
lớn mà thời gian trên lớp có hạn, giáo viên không thể truyền thụ những kiến
thức nếu không có sự hợp tác của học sinh.
Chính những hạn chế đó dẫn đến yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy
học là điều tất yếu. Phải phát huy tính tích cực, tự giác, tư duy sáng tạo của
học sinh, bồi dưỡng năng lực tự học và ý chí vươn lên của học sinh. Trong
những năm gần đây, chúng ta đang tiếp cận gần hơn những phương pháp dạy
học tiên tiến trên thế giới nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của môn học.
Thực tiễn dạy học văn ở trường THPT không theo đặc trưng loại thể vẫn
đang diễn ra. Các kịch bản văn học được dạy giống như dạy truyện, gần giống
với tự sự. Các bài thơ trữ tình cũng được cảm nhận như một văn bản truyện.
Các văn bản văn học dù ở bất kì thể loại nào cũng trở nên na ná giống nhau.
Chính điều này dẫn đến cách hiểu không đúng về thể loại và đặc điểm của
từng thể loại khiến giờ dạy không mang lại kết quả cao. Việc đưa phương
pháp dạy đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại vào dạy học Ngữ văn trở
nên vô cùng bức thiết góp phần khắc phục thực trạng trên.

23


Sách giáo khoa 12 hiện nay đã đưa vào chương trình một số tác phẩm tự
sự hiện đại sau 1975. Điều này là một tín hiệu đáng mừng trong việc đổi mới
phương pháp nhưng đó cũng là một thử thách đối với cả giáo viên và học sinh
khi lần đầu tiên tiếp nhận cái mới. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
(Nguyễn Minh Châu) là một truyện ngắn rất hay và đặc sắc, có nhiều cách tân
độc đáo. Vì vậy việc tìm ra phương pháp dạy học phù hợp cho tác phẩm này
là rất cần thiết.


24


Chương 2
ĐỌC - HIỂU TRUYỆN NGẮN “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA”
(NGUYỄN MINH CHÂU) THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu
2.1.1.Cuộc đời
Nguyễn Minh Châu (1930- 1989) sinh ra trong một gia đình nông dân ở
làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ
Tĩnh và sau đó vào quân đội, học ở trường sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn.
Từ năm 1952 đến 1958, ông công tác tại sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo
học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại
phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông
được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972.
Năm 1974, ông được thăng Thiếu tướng lúc đang giữ trọng trách tham
mưu trưởng Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam. Đầu năm 1975, ông làm
tư lệnh Đoàn 232. Năm 1981, ông được thăng Trung tướng, Phó Tư lệnh Quân
khu 7. Đến năm 1986, ông được thăng Thượng tướng, Tư lệnh Quân khu 7, rồi
Phó Tổng thanh tra Quân đội. Năm 1988, ông được cử làm Trưởng đại diện Bộ
Quốc phòng tại phía Nam.
Ông mất ngày 23 tháng l năm 1989 tại Hà Nội.
2.1.2. Sự nghiệp văn học
Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay Sau một buổi
tập. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960-1989), khép lại với
truyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989. Ông đã có 29 năm cầm bút và để
lại cho nền văn học nước nhà 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Tác
phẩm của ông khi miêu tả cái hào hùng và phẩm chất cao đẹp của con người


25


×