Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Tín hiệu thẩm mĩ nước trong truyện ngắn nguyễn ngọc tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.92 KB, 65 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===***===

VŨ THỊ QUỲNH

TÍN HIỆU THẨM MĨ “NƯỚC” TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ

HÀ NỘI - 2013

Vũ Thị Quỳnh

1

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===***===



VŨ THỊ QUỲNH

TÍN HIỆU THẨM MĨ “NƯỚC” TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ

Người hướng dẫn khoa học

ThS. LÊ THỊ THÙY VINH

HÀ NỘI - 2013

Vũ Thị Quỳnh

2

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới Thạc sĩ Lê Thị Thùy Vinh, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi

trong suốt thời gian tiến hành.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ ngôn ngữ cùng toàn thể
các thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn Ban chủ
nhiệm khoa và Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
được học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
Tác giả khóa luận

Vũ Thị Quỳnh

Vũ Thị Quỳnh

3

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Lê Thị Thùy Vinh chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học.

Hà Nội, tháng 4 năm 2013

Tác giả khóa luận

Vũ Thị Quỳnh

Vũ Thị Quỳnh

4

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

THTM:

Tín hiệu thẩm mĩ

THNN:

Tín hiệu ngôn ngữ

Vũ Thị Quỳnh

5

Lớp: K35C – Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 8
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 8
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 9
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 10
6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 10
7. Đóng góp của khóa luận ........................................................................ 10
8. Cấu trúc của khóa luận .......................................................................... 11
NỘI DUNG .................................................................................................. 12
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ...................................................................... 12
1.1.Tín hiệu ............................................................................................... 12
1.2. Tín hiệu ngôn ngữ .............................................................................. 13
1.3.Tín hiệu thẩm mĩ ................................................................................. 15
1.3.1.Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ ........................................................... 15
1.3.2. Mối quan hệ giữa tín hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thẩm mĩ .............. 17
1.3.3. Hằng thể và biến thể của tín hiệu thẩm mĩ .................................... 18
1.3.4. Nguồn gốc của tín hiệu thẩm mĩ ................................................... 19
1.3.5.Các cấp độ của tín hiệu thẩm mĩ .................................................... 23
1.3.6. Các tính chất của tín hiệu thẩm mĩ ................................................ 24
1.3.7. Phương thức xây dựng tín hiệu thẩm mĩ ....................................... 32
Chương 2. KHẢO SÁT TÍN HIỆU THẨM MĨ “NƯỚC” TRONG TRUYỆN

NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ ...................................................................... 34
2.1. Tình hình khảo sát, thống kê dữ liệu ................................................... 34
2.1.1. Các không gian chứa nước gồm biển, sông, ao. ............................ 35
2.1.2. Các trạng thái của nước ................................................................ 35

Vũ Thị Quỳnh

6

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.1.3. Các hành động liên quan đến nước ............................................... 35
2.1.4. Các phương tiện di chuyển trên nước ........................................... 29
2.2. Hiệu quả của tín hiệu thẩm mĩ “nước” trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư ....................................................................................... 29
2.2.1. Biến thể dòng sông ....................................................................... 29
2.2.2. Biến thể ghe, xuồng, thuyền ......................................................... 43
2.2.3. Biến thể mưa ................................................................................ 49
2.2.4. Biến thể nước mắt ........................................................................ 51
2.2.5. Tín hiệu thẩm mĩ “nước” trong việc tạo nên phong cách của
Nguyễn Ngọc Tư .................................................................................... 57
KẾT LUẬN.................................................................................................. 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64

Vũ Thị Quỳnh


7

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn. Mỗi tác phẩm được
hình thành phải trải qua quá trình người nghệ sĩ quan sát, suy nghĩ, trăn trở về
thế giới. Khi đã trở thành một tác phẩm văn học hoàn chỉnh, nó là một cấu
trúc sinh động bao gồm nhiều yếu tố nghệ thuật kết hợp với nhau. Sự cộng
hưởng của các yếu tố nghệ thuật làm cho tác phẩm văn học là một chỉnh thể
thống nhất. Đặc biệt để tăng giá trị biểu đạt và chiều sâu ý nghĩa tác phẩm,
nhà văn thường dụng công xây dựng những tín hiệu thẩm mĩ (THTM). THTM
là cơ sở để giải mã hình tượng, tăng tính hàm súc, giàu sức gợi của ngôn từ.
THTM luôn chứa đựng khả năng nảy sinh quan niệm, dồn nén các tầng nghĩa.
Phân tích tác phẩm văn học từ phương diện THTM là con đường khoa học để
khám phá những thông điệp nghệ thuật đắt giá.
“Nước” là một tín hiệu thẩm mĩ phổ biến và được sử dụng nhiều trong
văn xuôi hiện đại. Đặc biệt trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, một tác giả
nữ vùng Nam Bộ, tín hiệu thẩm mĩ “nước” là một tín hiệu cứ trở đi trở lại
làm nên “dòng chảy sâu kín” về ý nghĩa tác phẩm. Điều này gián tiếp tạo nên
sức hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Tín hiệu thẩm mĩ
nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” với mục đích giải mã được những

thông điệp thẩm mĩ mà nhà văn gửi gắm đồng thời thấy được vai trò của chủ
thể trong việc điều chỉnh, tái tạo, bổ sung ý nghĩa mới cho tín hiệu thẩm mĩ.
2. Lịch sử vấn đề
Trong những năm gần đây, nhiều vấn đề của văn học đang được soi rọi
dưới cái nhìn của ngôn ngữ, trong đó vấn đề lý thuyết tín hiệu thẩm mĩ tỏ ra
có nhiều ưu thế hơn cả. Ở Việt Nam vấn đề tín hiệu thẩm mĩ đã được các tác

Vũ Thị Quỳnh

8

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

giả Hoàng Tuệ, Hoàng Trinh, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh....quan tâm nghiên
cứu nhiều.
Nhiều luận án khai thác theo hướng nghiên cứu này cũng đã khẳng định
được ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ. Năm
1995 luận án “Sự biểu đạt của ngôn ngữ thẩm mĩ - không gian trong ca dao”
của tác giả Trương Thị Nhàn, đã đi sâu phát hiện và phân tích ý nghĩa của các
tín hiệu được khảo sát. Gần đây nhất là luận văn sau đại học “Tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ Tố Hữu” của Nguyễn Bích Khải và luận văn “Khảo sát một số tín
hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa sông - nước trong ca dao Việt Nam” của
Kiều Thị Phong. Các tác giả của luận văn đã sử dụng phương pháp phân tích
ngữ cảnh tu từ để làm rõ giá trị thẩm mĩ của các tín hiệu được khảo sát.
Việc nghiên cứu những truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư từ góc độ

ngôn ngữ đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên việc nghiên cứu từ
góc độ lý thuyết tín hiệu thẩm mĩ nói chung và đặc biệt là tín hiệu thẩm mĩ
“nước” nói riêng thì cho đến nay vẫn chưa có công trình chuyên khảo nào.
Đây chính là lí do chính để chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Đi sâu nghiên cứu đề tài “Tín hiệu thẩm mĩ nước trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư” chúng tôi nhằm những mục đích sau:
- Cung cấp và khẳng định những vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ học, đặc
biệt là phong cách học.
- Thấy được ý nghĩa biểu trưng của “nước” trong truyện Nguyễn Ngọc Tư.
- Chuẩn bị tư liệu cần thiết cho việc học tập hiện nay cũng như việc
giảng dạy sau này của bản thân.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra đề tài này phải thực hiện các nhiệm vụ sau:

Vũ Thị Quỳnh

9

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Tập hợp các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài này như: khái
niệm THTM, đặc tính THTM, vấn đề hằng thể và biến thể, cơ chế chuyển
nghĩa ẩn dụ và hoán dụ ...
- Thống kê phân loại tín hiệu thẩm mĩ “nước” trong truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư.
- Hiểu được ý nghĩa tín hiệu thẩm mĩ “nước” trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư để rút ra kết luận cần thiết.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tín hiệu thẩm mĩ “nước” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này chỉ tìm hiểu THTM “nước” trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp này để thống kê THTM
“nước” qua các tác phẩm.
- Phương pháp phân loại: dùng phân loại THTM “nước” các tiêu chí
khác nhau.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: dùng để phân tích THTM “nước”
trong ngữ liệu tiêu biểu nhằm xác định hiệu quả sử dụng của chúng.
7. Đóng góp của khóa luận
7.1. Về mặt lí luận
Khóa luận góp phần làm rõ lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ nói chung và tín
hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương nói riêng.
7.2. Về mặt thực tiễn
Khóa luận cung cấp một hệ thống những từ ngữ thể hiện tín hiệu thẩm
mĩ “nước” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư để làm rõ ý nghĩa biểu trưng
của tín hiệu này, qua đó phong cách nghệ thuật của tác giả được nhấn mạnh.

Vũ Thị Quỳnh

10

Lớp: K35C – Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
được triển khai theo 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Khảo sát tín hiệu thẩm mĩ “nước” trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.

Vũ Thị Quỳnh

11

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, như màu sắc đối với hội họa,
âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Nói cho cùng văn học
là nghệ thuật của ngôn từ. Trong quá trình sáng tạo ra tác phẩm văn chương,
nhà văn thường dụng công lựa chọn ngôn ngữ để xây dựng các tín hiệu thẩm

mĩ. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Vì vậy THTM trước hết về
mặt bản chất cũng là một loại tín hiệu. Bởi vậy để nghiên cứu THTM phải
xem xét nó trong phạm trù chung - tức phạm trù tín hiệu. Đồng thời các
THTM cần phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với các tín hiệu ngôn
ngữ được sử dụng làm phương tiện thể hiện trong tác phẩm văn chương.
1.1.Tín hiệu
Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta dùng rất nhiều tín hiệu: tiếng
chuông, tiếng kẻng báo giờ học, biển vẽ trên đường giao thông, tín hiệu hàng
hải, kí hiệu trong Toán học, Vật lí, Kĩ thuật… THTM cũng là một loại tín
hiệu. Nó cũng mang những đặc trưng chung của một tín hiệu. Vì vậy chúng ta
phải biết tín hiệu là gì?
Theo P.Guiraud: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến
cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức của một kích thích khác”[1, 51]. Theo A.Schaff
định nghĩa: “Một sự vật hay thuộc tính của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở
thành tín hiệu nếu như trong quá trình giao tiếp nó được các nhân vật giao
tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một ngôn ngữ để truyền đạt một tư tưởng
nào đó về thực tế, tức về thế giới bên ngoài hay về những cảm thụ nội tâm
(những cảm xúc, những cảm thụ nghệ thuật, một ý chí…)”[1, 51]. Theo hai
cách hiểu này thì mọi hình thức vật chất không phân biệt tự nhiên hay nhân

Vũ Thị Quỳnh

12

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


tạo, có chức năng giao tiếp hay không… thì đều được coi là tín hiệu nếu
chúng có khả năng gợi ra trong ký ức của một con người về một hình ảnh nào
đó. Ví dụ như một bầu trời đầy sao có khả năng sẽ gợi ra hình ảnh về một
ngày hôm sau trời nắng đẹp, một tiếng kẻng, tiếng chuông báo hiệu khi có hội
họp, hay báo hiệu giờ học theo quy ước giữa những người nào đó…
Kế thừa thành quả của những người đi trước, Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra
những điều kiện cần cho một sự vật (hay thuộc tính vật chất hiện tượng) trở
thành tín hiệu:
- Nó phải được cảm nhận bằng giác quan (phải có một hình thức cảm
tính - cái biểu hiện). Ví dụ như: âm thanh, màu sắc. hình vẽ, ánh sáng…
- Nó phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó (phải
mang một nội dung ý nghĩa).
- Nó phải được lĩnh hội bởi một chủ thể.
- Nó phải nằm trong một hệ thống nhất định.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng ngôn ngữ cũng được coi là một loại
tín hiệu và tín hiệu ngôn ngữ là một loại tín hiệu đặc biệt.
1.2. Tín hiệu ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Tín hiệu ngôn ngữ nói riêng
và tín hiệu nói chung đều là những dạng vật chất tác động vào giác quan của
con người để con người nhận thức và lĩnh hội được nội dung ý nghĩa cần thiết
và hiểu biết tư tưởng tình cảm hành động hay cảm xúc. Trong số các tín hiệu
mà con người sử dụng hiện nay thì tín hiệu ngôn ngữ có lịch sử lâu đời và
phổ biến rộng khắp nhất. Từ khi ra đời cho đến nay, ở mọi nơi, mọi lúc, mọi
lĩnh vực, con người đều dùng tín hiệu ngôn ngữ. Có thể nói, ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu phổ biến, lâu đời và quan trọng nhất trong cuộc sống của con
người.
Ngôn ngữ thì có nhiều đơn vị. Những đơn vị có mặt âm thanh “âm vị ,
âm tiết” không phải các tín hiệu. Hình vị tuy có nghĩa nhưng không thể dùng
Vũ Thị Quỳnh


13

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

độc lập để giao tiếp nên cũng không thể đóng vai tín hiệu được. Còn các cụm
từ, các câu, các văn bản là tập hợp của nhiều tín hiệu, là sản phẩm do sự kết
hợp của nhiều tín hiệu. Chỉ có các từ là đáp ứng yêu cầu của tín hiệu. Do đó
từ đây khi nói đến tín hiệu ngôn ngữ chủ yếu là nói đến đơn vị từ.
Tín hiệu ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt khác với các hệ thống tín
hiệu khác như hệ thống tín hiệu đèn giao thông, hệ thống tín hiệu chữ nổi cho
người mù…Những sự khác biệt đó làm nên bản chất của tín hiệu ngôn ngữ.
Đó là những sự khác biệt chủ yếu sau:
- Tín hiệu ngôn ngữ là một tín hiệu nhân tạo do con người thỏa thuận
ngầm mà hình thành. Khác với các tín hiệu nhân tạo khác như các biển báo
giao thông, tiếng còi tàu, tiếng trống…chịu sự chi phối nhất định của thời gian
và không gian, công dụng cũng hạn chế nhiều hơn so với tín hiệu ngôn ngữ.
- Tín hiệu ngôn ngữ là tín hiệu âm thanh được tiếp nhận bằng thính giác.
Khi thể hiện trên chữ viết, nó chuyển sang tín hiệu thị giác, tiếp nhận bằng mắt.
Nhiều tín hiệu khác chỉ là tín hiệu thị giác hay tín hiệu thính giác. Những đặc
điểm âm thanh của tín hiệu ngôn ngữ như cao độ, trường độ, âm sắc, nhịp
điệu… đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện và phân biệt nội dung ý nghĩa.
- Tín hiệu ngôn ngữ luôn có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt.
Cái biểu đạt trong ngôn ngữ là hình thức ngữ âm và cái được biểu đạt là nội
dung. Giữa hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ có quan hệ võ đoán cao tức là quan

hệ không có lí do và không thể nào giải thích được. Đại đa số tín hiệu ngôn
ngữ mang tính võ đoán cao. Chúng ta không thể giải thích được vì sao người
Việt dùng âm thanh cây, người Trung Quốc dùng âm mộc, người Nga dùng
âm thanh derevo…
- Tín hiệu ngôn ngữ có tính hình tuyến: các tín hiệu ngôn ngữ phải lần
lượt được tạo ra và lần lượt được tiếp nhận, lĩnh hội chứ không thể ở trong
tình trạng xuất hiện đồng thời. Đây chính là sự nối tiếp theo trật tự thời gian

Vũ Thị Quỳnh

14

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

chỉ có một chiều như một đường chỉ. F.D.Saussure viết: “Vốn là vật nghe
được, cái biểu hiện diễn ra trong thời gian và có đặc điểm vốn là của thời
gian: nó có một đại lượng; và đại lượng đó chỉ có thể đo trên một chiều mà
thôi; đó là một đường chỉ, một tuyến”[8, 144].
- Tín hiệu ngôn ngữ mang tính đa trị: Ở nhiều loại tín hiệu khác mối
quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là 1/1 nghĩa là ứng với một cái
biểu đạt thì có một cái được biểu đạt. Đó là quan hệ đơn trị. Ở ngôn ngữ
không hoàn toàn như vậy, có khi một cái biểu đạt lại ứng với nhiều cái được
biểu đạt khác nhau, chẳng hạn như các từ đa nghĩa và đồng âm có nhiều cái
biểu đạt khác nhau ứng với một cái được biểu đạt.
- Tín hiệu ngôn ngữ có tính biểu cảm: Ở nhiều loại tín hiệu cái được biểu

đạt chỉ thuần túy mang nội dung lí trí không hề mang sắc thái biểu cảm dù ở
mức độ rất nhỏ. Còn tín hiệu ngôn ngữ không chỉ có nội dung lí trí mà thường
còn thể hiện cảm xúc, tình cảm của con người. Nó được thể hiện ở các từ
chuyên thể hiện tình cảm như: các tình thái từ “ối, chao, ôi, chà..” hay các từ
có nghĩa về tâm lí, tình cảm “ yêu, ghét, thương, thù…” hay chính từ tên gọi
của sự vật hiện tượng được nói đến. Nó tạo nên thành phần nghĩa tình thái
trong câu.
- Tín hiệu ngôn ngữ có một đặc điểm bản chất là tính hệ thống: các tín
hiệu ngôn ngữ tuy vô cùng lớn về số lượng và đa dạng về các mặt âm thanh, ý
nghĩa, chức năng, giá trị… nhưng luôn nằm trong mối quan hệ hệ thống với
nhau. Không có tín hiệu nào tồn tại biệt lập, rời rạc ở bên ngoài hệ thống. Mỗi
hệ thống là một chỉnh thể bao gồm nhiều yếu tố (ít nhất là hai tín hiệu) các
yếu tố đó luôn có quan hệ tương tác chế định lẫn nhau.
1.3.Tín hiệu thẩm mĩ
1.3.1.Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ
Khái niệm THTM được đưa vào nước ta từ những năm 70 của thế kỉ
XX qua các bản dịch công trình của Iu.A.Philipiep, M.B.Kharpchenco, các
Vũ Thị Quỳnh

15

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nghiên cứu của giáo sư Đỗ Hữu Châu, Trần Đình Sử, Nguyễn Lai... Trong các
công trình nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu tuy chưa đưa ra một định

nghĩa hoàn chỉnh, thống nhất về tín hiệu thẩm mĩ, song họ đều thừa nhận
THTM là yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật.
Giáo sư Đỗ Hữu Châu đã giải thích cụ thể hơn về THTM ngôn ngữ như
sau: “THTM phân biệt với các tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên ở chỗ ý nghĩa của
nó không bao giờ chỉ dừng lại ở phạm vi tái tạo hiện thực mà phải là một tư
tưởng, một tư tưởng nào đó của người nghệ sĩ”. Đỗ Hữu Châu cũng đã khẳng
định rằng: “THTM là phương tiện sơ cấp của văn học là ngôn ngữ - THTM,
cú pháp THTM. THNN tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức cái biểu đạt
của THTM”[1, 18]. Và Đỗ Hữu Châu đã đưa ra cách hiểu như sau về THTM:
“ THTM là tín hiệu thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của các ngành
nghệ thuật bao gồm toàn bộ những yếu tố của hiện thực, của tâm trạng
(những chi tiết, những sự việc, hiện tượng, những cảm xúc… thuộc đời sống
hiện thực và tâm trạng ) những yếu tố của chất liệu (các yếu tố của chất liệu
ngôn ngữ với văn chương, của các yếu tố chất liệu màu sắc với hội họa, âm
thanh, nhịp điệu với âm nhạc…) được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm
nghệ thuật vì mục đích thẩm mĩ” [1, 23].
Vậy chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản THTM là loại tín hiệu có
chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái
đẹp. Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu đạt (hình thức biểu hiện) và cái được
biểu đạt (nội dung ý nghĩa).
- Hình thức biểu hiện (cái biểu đạt): tín hiệu thẩm mĩ phải có cái phần tri
giác được, phần có thể nhận biết được bằng các giác quan. Nó là âm thanh trong
âm nhạc, là màu sắc trong hội họa, là ngôn từ trong văn học…Nghệ thuật không
thể phản ánh hiện thực bên ngoài những phương tiện vật chất của nó.
- Nội dung ý nghĩa (cái được biểu đạt): tín hiệu thẩm mĩ phải thông tin
về một cái gì đó trong đời sống hiện thực, nó mới thể hiện được chức năng
Vũ Thị Quỳnh

16


Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

phản ánh nghệ thuật của mình. Thông qua hiện thực được phản ánh, nội dung
tư tưởng nghệ thuật được toát lên. Bởi vậy, ý nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ
chính là ý nghĩa thẩm mĩ.
1.3.2. Mối quan hệ giữa tín hiệu ngôn ngữ và tín hiệu thẩm mĩ
Tín hiệu ngôn ngữ là chất liệu để tạo nên tín hiệu thẩm mĩ trong văn
chương. Để làm được điều đó nó cần có quá trình chuyển hóa nhờ sự sáng tạo
của nghệ sĩ và sự lĩnh hội, cảm thụ của độc giả. IU.Mlotman viết: “Văn học có
tính nghệ thuật nói bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ được xây
chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên với tư cách là hệ thống thứ hai. Bởi vậy mà
người ta xác định nó như là hệ thống mô hình thứ hai…Từ điều nói trên suy ra
rằng, nghệ thuật ngôn từ dù cũng dựa vào ngôn ngữ tự nhiên, nhưng lại chỉ với
điều kiện là để cải biến nó thành thứ ngôn ngữ của mình - ngôn ngữ thứ sinh,
ngôn ngữ của nghệ thuật”. Do đó chúng ta cần phải xem xét sự chuyển hóa tín
hiệu ngôn ngữ thông thường thành THTM trong tác phẩm văn học.
Một THNN có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Khi cấu tạo ra
THTM thì tổng thể hai mặt của THNN đóng vai trò cái biểu đạt cho THTM, còn
cái được biểu đạt của THTM là ý nghĩa thẩm mĩ được chuyển hóa từ tác động
qua lại của nhiều nhân tố. Ví dụ như trong câu ca dao sau:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Trong câu ca dao trên có hai THTM là “thuyền” và “bến”. Hai THTM
này biểu hiện cho tình cảm của con người cụ thể trong câu ca dao này là tình
cảm giữa người con trai và người con gái. Người con trai và người con gái

cũng sinh ra và tồn tại trên cõi đời theo một mối quan hệ tương hỗ, chế định
nhau và cũng có lúc họ phải tạm xa nhau. Nhưng trong hoàn cảnh nào thì
người con gái vẫn giữ tấm lòng thủy chung. Trong câu ca dao này, sở dĩ
“thuyền” và “bến” trở thành THTM là nhờ sự tích tụ của nhiều nhân tố. Đó

Vũ Thị Quỳnh

17

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

là dựa vào ý nghĩa vốn có trong ngôn ngữ tự nhiên của các từ “thuyền” và
“bến”, dựa vào ngữ cảnh văn hóa, dựa vào sự hiện diện trong câu ca dao của
hai từ “thuyền”, “bến” cùng các từ khác trong câu và đó còn do độc giả với
toàn bộ vốn văn hóa để liên tưởng, tưởng tượng, cảm nhận giải mã các THTM.
Như thế, chúng ta thấy rằng từ THNN đến THTM đã có sự thay đổi về chất.
Mối quan hệ giữa THNN và THTM có thể biểu hiện bằng sơ đồ sau:

Tín hiệu thẩm mĩ trong văn chương
Cái biểu đạt (Tổng thể hai mặt của THNN )
Cái biểu đạt của THNN

Cái được biểu đạt của
THTM
Ý nghĩa ngôn ngữ:


Âm thanh / chữ viết:

Hai sự vật thuộc sông

Thuyền / bến

nước

Cái được biểu đạt
Ý nghĩa thẩm mĩ: Tình
cảm gắn bó, thủy chung
giữa người con gái và
người con trai.

1.3.3. Hằng thể và biến thể của tín hiệu thẩm mĩ
THTM có thể tồn tại ở hai dạng thức: hằng thể và biến thể.
1.3.3.1. Hằng thể
Là dạng điển hình nhất, phổ biến nhất, cũng là dạng đơn giản nhất về
mặt hình thức (thường biểu hiện bằng một từ ). Mỗi hằng thể thường tập hợp
xung quanh mình hàng loạt biến thể để tạo nên hệ thống.
Ví dụ, hằng thể của THTM “mắt” có cái biểu đạt là từ “mắt”:
“Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”
(Tục ngữ)
“Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặn trong dòng mắt em”
(Lưu Trọng Lư )

Vũ Thị Quỳnh


18

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.3.3.2. Biến thể
Là dạng biểu hiện tuy khác biệt về hình thức biểu đạt (cái biểu đạt)
với hằng thể nhưng cùng chung hoặc có mối liên hệ mật thiết về ý nghĩa
với hằng thể.
Biến thể có hai loại: biến thể từ vựng và biến thể kết hợp.
Biến thể từ vựng: đó là những từ ngữ khác biệt về hình thức âm thanh với
hằng thể nhưng cùng biểu hiện một ý nghĩa như hằng thể. Đó là các biến thể ngữ
âm, biến thể địa phương hay những từ gốc ngoại, từ ngữ phái sinh. Ví dụ: biến
thể từ vựng của THTM “mắt”: Nhãn, mục, cửa sổ tâm hồn, mắt mũi…
Biến thể kết hợp: là tất cả những từ ngữ cùng một trường nghĩa với hằng
thể và có thể kết hợp theo trục ngang với từ ngữ - hằng thể. Về mặt từ loại,
biến thể kết hợp có thể là danh từ, động từ, tính từ hoặc cụm danh, cụm động,
cụm tính… Về mặt ý nghĩa, các biến thể kết hợp của một hằng thể tuy cùng
trường nghĩa với hằng thể nhưng có ý nghĩa đa dạng. Ví dụ, với THTM
“mắt” , biến thể kết hợp có thể là những từ ngữ biểu hiện hình dáng của mắt
(mắt lá răm, mắt bồ câu, mắt ốc nhồi…), màu sắc của mắt (mắt xanh, mắt
huyền…), hoạt động của mắt (nhìn, ngó, trông, nhòm…)…
Hằng thể và biến thể của THTM thường xuất hiện trong cùng một tác
phẩm văn chương tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm.
1.3.4. Nguồn gốc của tín hiệu thẩm mĩ
THTM thuộc về tác phẩm nghệ thuật nhưng nó có nguồn gốc từ nhiều

phương diện khác nhau của cuộc sống con người.
Trước hết, THTM có nguồn gốc từ hiện thực xung quanh con người: tự
nhiên và xã hội. Đây là những THTM được xây dựng trên cơ sở những sự vật
hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội. Nhà văn trong quá trình sáng tạo đã
quan sát, chiêm nghiệm nhận ra những ý nghĩa thẩm mĩ tiềm tàng trong các
sự vật hiện tượng trong xung quanh mình. Từ đó, họ căn cứ vào các sự vật,
hiện tượng để xây dựng các THTM thông qua chất liệu là tín hiệu ngôn ngữ
gọi tên các sự vật hiện tượng tương ứng.

Vũ Thị Quỳnh

19

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Biết bao cây cối loài vật đã tạo nên THTM trong văn chương. Từ những
loại cây quý phái như tùng, cúc, trúc, mai… đến những loài cây dân dã, thậm
chí hoang dại như cây tre, cây chuối, cây đa, cây cỏ… đều trở thành THTM
trong văn học. Như cây xấu hổ, là một loài cây hoang dại nhưng đã được nhà
thơ Anh Ngọc xây dựng thành THTM trong tác phẩm cùng tên.
“Bờ đường 9 có lùm cây xấu hổ
Chiến sĩ đi qua ai cũng mỉm cười
Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Tất cả lộ nguyên hình trần trịu
Cây xấu hổ với màu xanh bối rối

Tự giấu mình trong lá khép lim dim…”
Các loài động vật cũng là nguồn gốc cho các THTM. Trong truyện ngụ
ngôn Thỏ, Rùa chạy thi, thì Thỏ và Rùa chính là các THTM. Hay trong tác
phẩm “Ông già và biển cả” của Hê-minh-uê, con cá và ông lão đánh cá chính
là những THTM nói lên khát vọng của con người.
Các vật thể, hiện tượng thiên nhiên như sông, nước, biển, núi, đồi, mây,
trăng…cũng được các nhà nghệ sĩ xây dựng thành các THTM trong tác phẩm
văn chương. Như trong thơ Hàn Mặc Tử, trăng trở thành một THTM mang
nhiều ý nghĩa khác nhau: trăng biểu trưng cho cái đẹp, cho tình ái, cho nỗi
đau thương…
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.”
Hay
“Trăng năm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.”
Các sự vật nhân tạo và các hiện tượng xã hội trong cuộc sống của con
người cũng là nguồn gốc cho các THTM. Như bánh trôi nước, cái quạt trong
Vũ Thị Quỳnh

20

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


những bài thơ cùng tên của Hồ Xuân Hương, tiến sĩ giấy - đồ chơi làm bằng
giấy cho trẻ con chơi vào dịp trung thu trong bài thơ cùng tên của Nguyễn
Khuyến, hay cối xay gió trong tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê của Xéc-van-tét đều
là nguồn gốc của các THTM.
Có thể nói rằng, không một sự vật hiện tượng nào trong thế giới tự nhiên
và xã hội con người không thể là đề tài cho các sáng tác, là nguồn gốc cho các
THTM trong văn chương, miễn là nhà văn quan sát phát hiện ra những ý
nghĩa thẩm mĩ tồn tại trong các sự vật hiện tượng đó.
Thứ hai, nguồn gốc của các THTM trong văn chương còn có thể là
những chi tiết, sự kiện, những điển tích, điển cố, những sản phẩm tinh thần
thuộc đời sống văn hóa của từng dân tộc hay toàn nhân loại. Đây cũng là
nguồn cảm hứng vô tận cho cảm hứng sáng tạo, cho các THTM của các nhà
văn thuộc các thế hệ sau.
Trong kho tàng văn học dân gian với các thể loại ca dao, thành ngữ, tục
ngữ…các nhà văn đã khai thác và xây dựng nhiều THTM. Ví dụ như hình
tượng con cò là hình tượng phổ biến trong ca dao Việt Nam. Nhà thơ Chế Lan
Viên đã xuất phát từ đó để xây dựng THTM con cò trong bài thơ cùng tên:
“Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay…”
Rất nhiều thành ngữ, tục ngữ, điển tích, điển cố đã đi vào tác phẩm của
các nhà văn đời sau thành các THTM. Như điển cố - những chi tiết những sự
kiện trong các tác phẩm quá khứ, hay trong cuộc sống trước đây mà có ý
nghĩa cũng được xây dựng thành các THTM. Ví dụ: Trong bài thơ “Khóc
Dương Khuê” để thể hiện một tình bạn cao đẹp, Nguyễn Khuyến đã sử dụng
hai điển cố từ văn học Trung Hoa:

Vũ Thị Quỳnh


21

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

“Giường kia treo cũng hững hờ
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.”
Có trường hợp các THTM được xây dựng từ các truyện cổ. Như trong đoạn
thơ sau đây của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ:
“Thị thơm thị giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà.
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì.”
(Truyện cổ nước mình)
“Thị” là THTM xây dựng từ truyện Tấm Cám biểu trưng cho con người
đẹp người, đẹp nết, còn “đẽo cày” là THTM từ truyện cổ “Đẽo cày giữa
đường” nói lên sự cần thiết có chủ kiến khi làm việc.
Như vậy là để xây dựng các THTM trong văn chương, các nhà văn
thường xuất phát từ các sự vật hiện tượng trong cuộc sống, trong tự nhiên,
trong nền văn hóa của dân tộc hay của nhân loại. Đó chính là nguồn gốc của
các THTM. Nhưng bản thân các sự vật hiện tượng đó không thể đi vào tác
phẩm văn chương để trở thành THTM. Chúng đã được định danh, biểu hiện
bằng các hình thức từ ngữ trong ngôn ngữ dân tộc, và chính các từ ngữ đó là
chất liệu để tạo nên các THTM. Vì thế hình thành một mối quan hệ giữa bộ ba
sự vật hiện tượng, từ ngữ định danh chúng trong ngôn ngữ và THTM trong
văn chương. Từ mối quan hệ bộ ba đó ta có sơ đồ biểu hiện như sau:

Tín hiệu thẩm mĩ
(Có ý nghĩa thẩm mĩ)

Tín hiệu ngôn ngữ
(mang ý ngôn ngữ)

Vũ Thị Quỳnh

Sự vật hiện tượng
(trong hiện thực, nền văn hóa
hay tưởng tượng)
22

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.3.5.Các cấp độ của tín hiệu thẩm mĩ
Các THTM có thể được phân biệt theo hai cấp độ: vi mô (tín hiệu đơn)
và vĩ mô (tín hiệu phức).
1.3.5.1.Cấp độ vi mô
Là loại THTM được cấu tạo trên cơ sở một từ hay một ngữ. THTM vi
mô có thể hiện diện trong một câu ở một từ.
VD: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Trong câu tục ngữ này có các THTM vi mô là: mực, đen, đèn, sáng, gần.
Những THTM này có ý nghĩa thẩm mĩ phối hợp với nhau để tạo nên ý nghĩa
thẩm mĩ của cả câu tục ngữ là: sống ở những môi trường có cái xấu thì sẽ bị

ảnh hưởng và có thể trở nên xấu xa, sống trong môi trường tốt thì sẽ được tiếp
cận với cái tốt và trở nên tốt đẹp.
Hay trong bài ca dao sau:
“Em tưởng nước giếng sâu
Em nối sợi gầu dài
Ai ngờ nước giếng cạn
Em tiếc hoài sợi dây.”
Trong bài ca dao này chúng ta thấy có hàng loạt các THTM vi mô:
nước giếng, nối, sợi gầu, dài, sợi dây. Những THTM vi mô này thể hiện
những ý nghĩa thẩm mĩ khác nhau. Như THTM “nước giếng” trong câu thứ
nhất thể hiện ý nghĩa chỉ tình yêu sâu sắc của cô gái. Ở câu thơ thứ hai các
THTM sợi gầu, nối, dài thể hiện ý nghĩa đó là cô gái đáp lại mối tình thắm
thiết…
Hay trong một tác phẩm lớn như Truyện Kiều, có rất nhiều THTM vi
mô. Như trong câu nói về Sở Khanh: “Một tay chôn biết mấy cành phù dung”
có ba THTM: tay - chỉ cả con người, cành phù dung - chỉ người con gái đẹp,

Vũ Thị Quỳnh

23

Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

chôn - hủy hoại. Từ các THTM này ta có thể hiểu được bản chất con người Sỏ
Khanh là một kẻ chuyên lừa lọc làm hại người khác.

1.3.5.2.Cấp độ vĩ mô
Là THTM (tín hiệu phức) được hình thành từ cả một tập hợp hay từ tất
cả các từ ngữ trong một văn bản nghệ thuật. Mỗi THTM vĩ mô là sự hòa kết
tích hợp của nhiều THTM đơn vi mô. Trong tác phẩm văn chương THTM vĩ
mô thường được gọi là hình tượng nghệ thuật. Lúc đó THTM vĩ mô bao trùm
cả tác phẩm hay một bộ phận của tác phẩm chứ không chỉ tồn tại trong một
câu hay một đoạn.
VD1: Trong bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, bánh trôi nước
là một THTM phức. Thông qua hình ảnh cái bánh trôi - một món ăn của nông
thôn, nhà thơ muốn nói đến thân phận, phẩm chất của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến.
VD2: Toàn bộ bài “Sóng” của Xuân Quỳnh là một THTM vĩ mô. Hình
tượng sóng là THTM vĩ mô thể hiện ý nghĩa thẩm mĩ: trạng thái cảm xúc và
tâm lí của người con gái trong tình yêu đôi lứa. Để tạo nên THTM vĩ mô này
là sự góp phần của rất nhiều THTM vi mô. Như các THTM vi mô nói về
trạng thái của con sóng (dữ dội, dịu êm, ồn ào…), nói về khởi nguồn của sóng
(gió)… Từ các THTM vi mô tác giả đã kết hợp khéo léo để tạo nên THTM vĩ
mô.
1.3.6. Các tính chất của tín hiệu thẩm mĩ
THTM trong tác phẩm văn chương có những tính chất cơ bản sau đây:
1.3.6.1. Tính hình tuyến
Tính hình tuyến là đặc trưng cơ bản của các THTM. Nó thể hiện ở sự
kế tiếp lần lượt của các tín hiệu theo tuyến thời gian một chiều, chứ không thể
đồng thời hiện ra như các sự vật hiện tượng tồn tại trong không gian. Đối với
các THTM vi mô, tính hình tuyến thể hiện ở sự kế tiếp lần lượt trong một tác

Vũ Thị Quỳnh

24


Lớp: K35C – Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

phẩm văn chương. Tập hợp các THTM vi mô theo một trật tự hợp lý sẽ tạo ra
THTM vĩ mô với một ý nghĩa thẩm mĩ thống nhất.
Ví dụ trong bài thơ “Quả sấu non trên cao” của Xuân Diệu, mỗi khổ thơ
lần lượt xuất hiện những tín hiệu miêu tả vị trí, hình dáng, màu sắc của quả
sấu, quá trình sinh trưởng, sức mạnh nội tại của nó. Sự tập hợp của các
THTM vi mô trong bài thơ kế tiếp theo hình tuyến tạo ra THTM vĩ mô và
người đọc có thể lĩnh hội được thông điệp thẩm mĩ mà tác giả gửi gắm trong
đó: sự sống luôn hình thành và phát triển tự nhiên, từ nhỏ đến lớn, từ ngây thơ
đến trưởng thành và có thể đương đầu với tất cả mọi nguy hiểm, mọi kẻ thù
hòng phá hoại tiêu diệt nó.
Đối với tác phẩm tự sự thì mỗi hình tượng nhân vật là một tín hiệu thẩm
mĩ vĩ mô. Mỗi THTM vĩ mô như thế cũng cần phải trải qua cả một quá trình
lần lượt được xây dựng từ nhiều THTM vi mô, để cuối cùng hiện ra trong trí
não của người đọc như một chỉnh thể và có ý nghĩa thẩm mĩ thống nhất. Như
hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam
Cao là một THTM vĩ mô.
Nhìn chung, trong tác phẩm văn chương THTM vi mô cần lần lượt kế
tiếp theo hình tuyến, còn THTM vĩ mô thì dần dần được hình thành đến phần
kết thúc tác phẩm mới hiện lên trọn vẹn và thể hiện ý nghĩa thẩm mĩ.
1.3.6.2.Tính có lí do, có thể giải thích được
Các tín hiệu ngôn ngữ thông thường mang tính võ đoán cao, do đó khó
hoặc không thể giải thích được lí do của mối quan hệ giữa hai mặt của tín
hiệu ngôn ngữ: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Còn THTM thì trái lại, mối

quan hệ giữa hai mặt của THTM có thể giải thích được. Đó là vì trong quá
trình tạo ra THTM, các nhà nghệ sĩ đã lựa chọn một cái biểu đạt nào đó để
biểu đạt cho một ý nghĩa thẩm mĩ dựa vào một mối quan hệ nhất định, dựa
trên cơ sở nhất định và theo một phương thức nhất định. Vì thế mà có nhiều
THTM là những sáng tạo riêng mang dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ.
Vũ Thị Quỳnh

25

Lớp: K35C – Ngữ văn


×