Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Đào tạo, bồi dưỡng phát triển năng lực cán bộ, công chức chính quyền cơ sở người dân tộc thiểu số tỉnh Dak Lak

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.72 KB, 130 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cơ sở là một cấp trong hệ thống chính quyền các cấp ở nước
ta, bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở. Đây là cấp hành
chính gần dân nhất, thường xuyên tiếp xúc, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân; là nơi tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước. Năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở sẽ tác động
trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần bảo đảm cho sự
ổn định và phát triển của địa phương, đất nước. Chính quyền cơ sở khơng thể đảm
nhận được vai trị nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ,
cơng chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cán bộ là gốc của mọi cơng việc”,
“Mn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu”. Cán bộ, cơng chức
nói chung, cán bộ cơng chức làm việc ở chính quyền cơ sở nói riêng là cầu nối giữa
Đảng, Chính phủ với nhân dân; là người mang chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu và thi hành. Đồng thời, lắng nghe, nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo, phản ánh cho cấp trên nhằm xây
dựng và ban hành các chủ trương, chính sách sao cho phù hợp với thực tiễn của
cuộc sống.
Là tỉnh miền núi khó khăn, đất rộng, người đơng, có nhiều tơn giáo và dân
tộc (44 dân tộc anh em) cùng sinh sống, Dak Lak được coi là địa bàn có vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của Tây
Nguyên và cả nước. Chính vì vậy, đây ln là trọng điểm chống phá của các thế lực
thù địch, chúng triệt để lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”
đặc biệt là vấn đề “dân tộc” để chống phá. Trong những năm gần đây chúng lập nên
cái gọi là “Tin Lành Đêga”, “Nhà nước Đêga” để quy tụ, tập hợp, phát triển lực
lượng trong đồng bào dân tộc thiểu số. Trong các năm 2001, 2004 chúng liên tiếp tổ
chức gây rối, biểu tình, bạo loạn chính trị gây mất ổn định an ninh chính trị tại địa
phương. Để phịng chống có hiệu quả âm mưu, hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch vấn đề quan trọng nhất hiện nay là tiếp tục phát huy khối đại đoàn kết

1




dân tộc; tập trung xây dựng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền
cơ sở thực sự vững mạnh đáp ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong đó,
trọng tâm là nâng cao chất lượng cán bộ, cơng chức ở cơ sở nói chung, cán bộ, cơng
chức chính quyền cơ sở là người dân tộc thiểu số nói riêng có ý nghĩa hết sức quan
trọng.
Với lợi thế là người dân tộc thiểu số sinh ra và lớn lên tại địa phương, có
chung tiếng nói, am hiểu phong tục, tập qn, gần gũi, gắn bó với bn làng, đồng
bào mình, nên hơn ai hết cán bộ cơng chức người dân tộc thiểu số làm việc tại chính
quyền cơ sở có nhiều lợi thế trong việc truyên truyền, vận động đồng bào dân tộc
thiểu số hiểu và thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
đẩy mạnh sản xuất, xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
gia đình và cộng đồng dân cư. Thời gian qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, cán bộ, cơng chức nói chung và cán bộ cơng chức chính quyền là người dân
tộc thiểu số ở cơ sở của tỉnh nói riêng đã khơng ngừng trưởng thành, lớn mạnh.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số làm việc tại
chính quyền cơ sở tỉnh Dak Lak vẫn còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt là công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở nói chung, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chính quyền cơ sở người dân tộc thiểu số nói riêng chưa được quan tâm chú trọng,
việc đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với thực tế và nhu cầu đào tạo... Chính vì vậy,
trong thời gian tới, các cấp, các ngành trong tỉnh Dak Lak cần phải đặc biệt quan
tâm, chú trọng và làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển năng lực cán bộ
cơng chức chính quyền cơ sở người dân tộc thiểu số.
Xuất phát từ những lý do trên, bản thân tôi chọn đề tài: “ Đào tạo, bồi
dưỡng phát triển năng lực cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở người dân tộc
thiểu số tỉnh Dak Lak” làm luận văn tốt nghiệp cao học hành chính cơng.

2



2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Ở Việt Nam, một số tác phẩm có liên quan đến nội dung này như: Thang
Văn Phúc - Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên), “Cơ sở lý luận và thực tiễn Xây
dựng đội ngũ cán bộ cơng chức”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2005;
PGS-TS Nguyễn Phú Trọng (chủ biên): “ Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2001; PGS-TS Bùi Đình Phong: “ Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ” , Nxb Lao Động, Hà Nội- 2002; GS-TS Lê Hữu
Nghĩa (Chủ biên): “Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội2001; TS Nguyên Minh Sản: “Pháp luật về cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã ở
Việt Nam hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị- Hành chính,
Hà Nội- 2009.
Ngồi ra cịn có các luận án, luận văn có nội dung liên quan đến đề tài như:
Trước năm 1975 có Huỳnh Văn Thanh:” Vấn đề đào tạo và sử dụng cán bộ hành
chính”, Luận văn tốt nghiệp Cao học Hành chính cơng, khóa II (1966-1968); Phan
Đình Tịnh:” Đi tìm một đường lối sử dụng hữu hiệu nhân viên”, Luận văn tốt
nghiệp Cao học Hành chính cơng, khóa III (1967-1969). Sau năm 1975 có Nguyễn
Văn Lợi: “ Góp phần xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ
sở từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính cơng, TP.
Hồ Chí Minh 2005; Trần Minh Lý :“Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã là
người dân tộc Khme ở các tỉnh Tây Nam Bộ”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành
chính cơng, TP. Hồ Chí Minh 2007; Lê Duyên Hà :“Đào tạo nguồn cán bộ, công
chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Dak Lak”, Luận văn Thạc sĩ Xây dựng
Đảng, Hà Nội 2008; Vũ Xuân Khoan: “Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức xã phường, thị trấn khu vực đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2010-2013”,
Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính cơng, Hà Nội 2010...
Những nội dung liên quan đến cán bộ, công chức và nhất là đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở nói trên đã được một số nhà nghiên cứu


3


dưới những góc độ khác nhau: Xây dựng Đảng, luật học, xã hội học, chính trị học,
hành chính học... Nhìn chung, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ bản, đi sâu,
làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm thực tiễn
nhằm củng cố, tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố- hiện đại hố đất nước... Đó là nguồn tư liệu quý
giá giúp tác giả luận văn kế thừa và phát huy trong quá trình nghiên cứu thực hiện
đề tài của mình. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng phát triển
năng lực cán bộ, công chức chính quyền cơ sở là người dân tộc thiểu số dưới góc độ
quản lý hành chính và đặc biệt là đối với một tỉnh đặc thù, miền núi khó khăn như
Dak Lak vẫn chưa có tác giả nào thực hiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
- Mục đích của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu, đề tài mong muốn luận giải phần nào những vấn đề
mà lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra cho việc về đào tạo, bồi dưỡng phát triển
năng lực cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở là người dân tộc thiểu số tại tỉnh Dak
Lak nói riêng và cả nước nói chung.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung, cơ bản về năng lực, năng lực
thực thi công việc, năng lực lãnh đạo quản lý và đào tạo, bồi dưỡng phát triển năng
lực cho cán bộ, công chức dựa trên nguyên tắc đánh giá, xác định nhu cầu.
+ Tập trung phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cán bộ, cơng chức
chính quyền cơ sở và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức chính quyền cơ
sở là người dân tộc thiểu số tại tỉnh Dak Lak, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đào tạo, bồi dưỡng phát triển
năng lực cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở là người dân tộc thiểu số tại tỉnh Dak
Lak, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu:

4


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cán bộ, cơng chức người dân tộc thiểu
số làm việc tại chính quyền cơ sở, cụ thể là nhóm cán bộ chính quyền: Chủ tịch hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân
và nhóm cơng chức chính quyền: Trưởng Cơng an; Chỉ huy trưởng Qn sự; Văn
phịng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và mơi trường (đối với xã); Tài chính
- kế tốn; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội ở xã, phường, thị trấn trong tỉnh Dak
Lak
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong cán bộ, cơng chức chính
quyền cơ sở tỉnh Dak Lak, thời gian 5 năm từ năm 2006-2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận là: Khoa học quản lý nguồn nhân lực; khoa
học quản lý hành chính nhà nước; chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức
nói chung và cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở và người dân tộc thiểu số nói
riêng...
- Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như:
Phương pháp biện chứng duy vật; phương pháp nghiên cứu, khảo sát, thu thập số
liệu; phương pháp phân tích, so sánh; phương pháp thống kê và tổng hợp; phương
pháp tổng kết thực tiễn...
6. Đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài.

- Ý nghĩa lý luận:
Góp phần làm sáng tỏ lý luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng
chức nói chung; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở và người

5


dân tộc thiểu số riêng; là cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo về đào tạo, bồi
dưỡng phát triển năng lực cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở người dân tộc thiểu
số.
-

Ý nghĩa thực tiễn:

Thông qua việc đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức chính quyền cơ sở là người dân tộc thiểu số, đề tài chỉ ra những kết quả
đã đạt được, nhất là những mặt hạn chế cần rút kinh nghiệm; đề ra các giải pháp đào
tạo, bồi dưỡng phát triển năng lực cán bộ, cơng chức chính quyền cơ sở là người
dân tộc thiểu số tại tỉnh Dak Lak nói riêng, cả nước nói chung.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được chia ra làm 3 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC CÁN BỘ CƠNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ NGƯỜI DÂN
TỘC THIỂU SỐ TỈNH DAK LAK
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC CÁN BỘ CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ NGƯỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỈNH DAK LAK


NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÁN BỘ, CƠNG CHỨC
1.1. Quan niệm chung về cán bộ, cơng chức
1.1.1. Cán bộ, công chức

6


Thuật ngữ cán bộ được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dùng
phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ban đầu nó được dùng nhiều trong
quân đội để phân biệt giữa chiến sỹ và cán bộ; cán bộ ở đây là những người làm
nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên và dần dần từ cán bộ được dùng rộng rãi để
chỉ cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly, để phân biệt với nhân dân. Khi
vào nước ta từ cán bộ đã biến đổi khơng cịn như nghĩa gốc; tuy nhiên cái hàm
nghĩa: Bộ khung, người làm nòng cốt, người chỉ huy luôn được nhận thức và lưu
giữ. Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người thốt ly,
làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đồn thể, qn đội. Trong quan niệm
hành chính, trước đây cán bộ được coi là những người có mức lương từ cán sự trở
lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn mức lương cán sự.
Theo từ điển Tiếng Việt, cán bộ là người làm công tác nghiệp vụ chuyên
môn trong các cơ quan nhà nước (cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính
trị…) . Hiểu theo nghĩa khác cán bộ là người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, khơng có chức vụ (Đoàn kết giữa
cán bộ và chiến sĩ, họp cán bộ và cơng nhân nhà máy, làm cán bộ Đồn thanh
niên…)[21,tr 109].
Trong các tổ chức Đảng, đoàn thể cán bộ được dùng để chỉ những người
được bầu giữ chức vụ lãnh đạo từ trung ương đến cơ sở để phân biệt với đảng viên,
đoàn viên, hội viên, hoặc những người làm cơng tác chun trách trong các tổ chức

đảng, đồn thể, hưởng lương từ các tổ chức đó. Trong các cơ quan nhà nước cũng
có những người thuộc biên chế nhà nước nhưng làm cơng tác đảng, đồn thể chun
trách được gọi là cán bộ chuyên trách. Đối với lực lượng quân đội nhân dân, những
người giữ chức vụ từ tiểu đội trưởng, tiểu đội phó trở lên được gọi là cán bộ tiểu
đội, cán bộ trung đội, cán bộ đại đội… Trong bộ máy nhà nước cán bộ cũng được
sử dụng với nhiều các hiểu khác nhau: Những người giữ các chức vụ trong các cơ
quan nhà nước do được bầu cử (Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch ủy ban nhân
dân các cấp…) hay được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, điều hành trong
các cơ quan nhà nước (Bộ trưởng, Tổng cục trưởng, Vụ trưởng…).

7


Điều 8, Hiến pháp năm 1992, đã được sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định:
“ Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận
tụy phục vụ nhân dân…”. Theo Hiến pháp những người phục vụ trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ và viên chức. Tuy không chỉ rõ đối tượng nào là
cán bộ, viên chức, nhưng qua các quy định của Hiến pháp có thể hiểu trong bối
cảnh của điều luật thì cán bộ là những người được bầu để đảm nhiệm các chức vụ
theo nhiệm kỳ trong bộ máy nhà nước, những người được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ
huy, điều hành; còn viên chức là những người phục vụ nhà nước bằng chuyên môn
nhất định (hoạt động của họ có tính chất nghề nghiệp); những đối tượng mà quan hệ
công vụ của họ được hình thành trên cơ sở hợp đồng hành chính (hợp đồng lao
động) trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Cụ thể hóa Hiến pháp, năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
pháp lệnh cán bộ, công chức. Trong đó thuật ngữ cán bộ được sử dụng với nội hàm
và ngoại biên rộng hơn thuật ngữ cán bộ được sử dụng trong Hiến pháp. Pháp lệnh
không sử dụng thuật ngữ cán bộ, công chức nhà nước mà dùng thuật ngữ cán bộ,
cơng chức nói chung để chỉ những đối tượng làm việc trong các cơ quan nhà nước
và trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Như vậy về hình thức giữa

Hiến pháp và Pháp lệnh khơng có sự thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ và
phạm vi điều chỉnh của các thuật ngữ này cũng khác nhau. Bên cạnh đó, Pháp lệnh
chưa đưa ra được định nghĩa cho từng đối tượng cán bộ, công chức. Pháp lệnh cán
bộ, công chức được sửa đổi bổ sung năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành
cũng khơng có quy định cụ thể hơn để phân biệt đâu là cán bộ, đâu là công chức.
Pháp lệnh chỉ mở rộng thêm phạm vi điều chỉnh đối với đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã; cán bộ công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị- xã hội.
Có thể thấy, có rất nhiều cách hiểu về cán bộ, tuy nhiên cách hiểu chung
nhất có thể khái quát như sau: Cán bộ là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức
vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trịxã hội, những đối tượng mà hoạt động của họ mang nhiều tính chính trị, gắn liền

8


với chính trị và bị chi phối bởi nhiều yếu tố chính trị[23,tr12]. Cụ thể hơn, cán bộ đã
được định nghĩa trong Luật cán bộ, cơng chức năm 2008, có hiệu lực từ năm 2010:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị- xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước[22].
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. Đây là
khái niệm mang tính lịch sử, đồng thời phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và
tổ chức bộ máy nhà nước mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào đặc điểm chính trị, kinh tế,
xã hội và chế đội chính sách của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể
mà nội dung của khái niệm công chức được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ở các
quốc gia tồn tại nhiều đảng phái chính trị, công chức chỉ được hiểu là những người
giữ công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước, được xếp vào ngạch, bậc
công chức, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cịn ở những nước chỉ có duy nhất

một đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội thì quan niệm công chức được hiểu rộng hơn,
không chỉ gồm những chủ thể nêu trên mà còn cả những đối tượng có dấu hiệu
tương tự, nhưng làm việc trong cả các tổ chức đảng, tổ chức chính trị- xã hội. Do
đó, trong thực tế khó đưa ra được quan niệm chung về công chức cho tất cả các
quốc gia trong quá trình phát triển của nó; thậm chí ngay trong một quốc gia, ở từng
thời kỳ phát triển khác nhau, thuật ngữ này cũng mang những nội dung khác nhau.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên thuật ngữ công chức được đề cập đến trong Quy
chế công chức Việt Nam, ban hành kèm theo Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ, cộng hịa: Những cơng dân Việt Nam được chính
quyền, nhân dân tuyển để giữ chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở
trong hay ở ngồi nước, đều là cơng chức theo quy chế này, trừ những trường hợp
riêng biệt do Chính phủ Quy định[2]. Công chức tại sắc lệnh này thực chất là những
người làm việc trong các cơ quan Chính phủ, khơng bao gồm những người làm việc

9


trong các tổ chức sự nghiệp nhà nước, trong các cơ quan khác của nhà nước như
viện kiểm sát, tòa án…
Hiện nay, từ công chức hiểu theo nghĩa thông thường là: Người được tuyển
dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước,
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp[21,tr207]. Cụ thể hơn, tại Luật cán bộ,
công chức năm 2008, công chức được xác định là: Công dân Việt Nam được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong tổ chức thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun
nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong tổ chức thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công

chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật[22].
Như vậy có thể thấy theo quy định của Luật này thì cơng chức hiện diện ở
cả các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể chính trị từ trung ương đến
tỉnh, huyện… Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định
rõ:
Cơng chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở Trung ương:
Người giữ chức vụ, chức danh cấp phó, trợ lý, thư ký của người đứng đầu và người
làm việc trong văn phòng, cục, vụ, cơ quan thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh,
thành phố Đà Nẵng của Văn phịng Trung ương Đảng, cơ quan Ủy ban Kiểm tra
Trung ương và các ban đảng ở Trung ương; người giữ chức vụ, chức danh người
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan
ủy ban kiểm tra, các ban của Đảng ủy khối và Đảng ủy ngoài nước trực thuộc Ban
Chấp hành Trung ương Đảng; người làm việc trong bộ phận giúp việc của cơ quan,
tổ chức do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cơ quan do Ban Chấp hành Trung ương Đảng

10


quyết định thành lập. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Người giữ chức vụ,
chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong
văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban của tỉnh ủy, thành ủy; người giữ chức
vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc
trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban của đảng ủy khối trực thuộc tỉnh
ủy, thành ủy; người làm việc chuyên trách trong văn phòng, ban tổ chức, ban tuyên
giáo, cơ quan ủy ban kiểm tra của đảng ủy cơ sở được giao quyền cấp trên cơ sở
trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy. Ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Người giữ
chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc
trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban của huyện ủy, quận ủy, thị ủy,

thành ủy thuộc tỉnh.
Cơng chức trong Văn phịng Chủ tịch nước, Văn phịng Quốc hội, Kiểm
tốn Nhà nước, gồm: Phó Chủ nhiệm Văn phịng Chủ tịch nước, Phó Chủ nhiệm
Văn phịng Quốc hội, Phó Tổng kiểm tốn Nhà nước; người giữ chức vụ cấp
trưởng, cấp phó và người làm việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp
công lập.
Công chức trong bộ, cơ quan ngang bộ và các tổ chức khác do Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ thành lập: Thứ trưởng và người giữ chức danh, chức vụ tương
đương; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn phịng,
vụ, thanh tra và tổ chức khác không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, cơ
quan ngang bộ; tổng cục trưởng và tương đương, phó tổng cục trưởng và tương
đương, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn phòng,
vụ, thanh tra thuộc tổng cục và tương đương; cục trưởng, phó cục trưởng, người giữ
chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong văn phòng, phòng, thanh tra,
chi cục thuộc cục ; người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc
trong các tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà khơng phải là
đơn vị sự nghiệp cơng lập.
Cơng chức trong cơ quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện. Ở cấp tỉnh:
Chánh văn phịng, phó chánh văn phòng, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và

11


người làm việc trong cơ cấu tổ chức của Văn phịng Đồn đại biểu Quốc hội và hội
đồng nhân dân, Văn phòng Ủy ban nhân dân; người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu cơ quan chun mơn thuộc Ủy ban nhân dân; người giữ chức vụ cấp
trưởng, cấp phó và người làm việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân;
trưởng ban, phó trưởng ban, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm
việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức

của ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thuộc Ủy ban nhân dân.
Ở cấp huyện: Chánh văn phịng, phó chánh văn phịng và người làm việc trong Văn
phòng hội đồng nhân dânvà Ủy ban nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân
dân quận, huyện, chánh văn phịng, phó chánh văn phòng và người làm việc trong
văn phòng Ủy ban nhân dân quận, huyện nơi thí điểm khơng tổ chức hội đồng nhân
dân; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
Cơng chức trong hệ thống Tịa án nhân dân: Phó Chánh án Tịa án nhân dân
tối cao; chánh án, phó chánh án các tịa và tịa chun trách; Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao; thư ký tòa án; người làm việc trong văn phòng, vụ, ban và các tòa,
tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tối cao; chánh án, phó chánh án Tịa án
nhân dân cấp tỉnh; chánh án, phó chánh án các tịa chun trách; thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp tỉnh; thư ký tòa án; người làm việc trong văn phòng, phòng, ban và
tòa chuyên trách thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh; chánh án, phó chánh án Tịa án
nhân dân cấp huyện; thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện; thư ký tòa án; người
làm việc trong tịa án nhân dân cấp huyện.
Cơng chức trong hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân: Phó Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn
phòng, vụ, cục, ban và viện nghiệp vụ thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Viện
trưởng, phó viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; kiểm sát viên, điều tra
viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc Viện Kiểm sát nhân dân cấp

12


tỉnh. Viện trưởng, phó viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện; kiểm sát
viên, điều tra viên và người làm việc trong Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện.
Công chức trong cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội. Ở Trung ương:
Chánh văn phịng, phó chánh văn phịng, trưởng ban, phó trưởng ban và người làm
việc trong văn phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức ở Trung ương của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam, Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam (tổ chức chính trị - xã hội); người làm việc trong bộ phận giúp
việc của Ủy ban thuộc tổ chức chính trị - xã hội. Ở cấp tỉnh: Chánh văn phịng, phó
chánh văn phịng, trưởng ban, phó trưởng ban và người làm việc trong văn phòng,
ban thuộc cơ cấu tổ chức của tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức tương đương. Ở
cấp huyện: Người làm việc trong cơ quan của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ
chức tương đương.
Công chức trong tổ chức của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân:
Người làm việc trong tổ chức thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong tổ chức thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp cơng lập:
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp
phó tổ chức của đơn vị sự nghiệp cơng lập thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn
vị sự nghiệp công lập được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc các
ban và cơ quan tương đương của Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn
phịng Quốc hội, Kiểm tốn Nhà nước, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, cơ quan Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội, bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Người đứng đầu đơn vị
sự nghiệp cơng lập được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thuộc tổng
cục, cục và tương đương trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; tỉnh ủy, thành ủy; Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh; tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; huyện ủy, quận ủy, thị ủy,

13


thành ủy thuộc tỉnh ủy; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Người giữ các vị trí việc làm

gắn với nhiệm vụ quản lý nhà nước trong đơn vị sự nghiệp công lập được giao thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước[3].
1.1.2. Cán bộ, công chức chính quyền cơ sở
Ở nước ta, cấp xã (xã, phường, thị trấn) là chính quyền cấp cơ sở, cấp thấp
nhất trong hệ thống chính quyền địa phương. Chính quyền cấp cơ sở có vai trị, vị
trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ cấu quyền lực nhà nước mà cịn là yếu tố
chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân
cư và toàn thể người dân trong địa bàn. Chính quyền cấp xã theo quan niệm chung
cịn được xác định là “trụ cột”, “trung tâm” của hệ thống chính trị cơ sở trong tổ
chức, triển khai mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và bảo đảm cho chủ trương, chính sách đó đi vào cuộc sống. Chỉ có chính
quyền cấp xã, với chứng năng, thẩm quyền được thể chế hóa theo phân cấp, cùng
với cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, cơng chức mới có thể thực hiện được điều đó,
mà khó có tổ chức nào ở cơ sở có thể thay thế được.
Đội ngũ cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã đóng vai trị quan trọng
trong xây dựng và hồn thiện bộ máy chính quyền cấp xã, trong hoạt động thực thi
công vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống
chính trị của cấp xã nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng
lực và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã. Cán bộ,
công chức cấp xã hoạt động theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên. Là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, hoạt
động của cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã so với cán bộ, công chức ở trung
ương, tỉnh, huyện đều hướng theo mục tiêu, nhiệm vụ chung là: Họ đều thực thi
cơng vụ; có những u cầu về phẩm chất, năng lực và trình độ nhất định; có trách
nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, Nhà nước, có quyền lợi và nghĩa vụ nhất định.

14



Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 ngày 13/11/2008 của Quốc hội
quy định: Cán bộ xã, phường, thị trấn (cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử
giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội. Công
chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Cụ thể, cán bộ cấp xã có các chức vụ: Bí thư, Phó Bí thư Đảng
uỷ; Chủ tịch, Phó Chủ tịch hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch Hội Nông
dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nơng, lâm, ngư
nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt
Nam. Cơng chức cấp xã có các chức danh: Trưởng Cơng an; Chỉ huy trưởng Qn
sự; Văn phịng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đơ thị và môi trường (đối với
phường, thị trấn) hoặc địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và mơi trường (đối với
xã); Tài chính - kế tốn; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội[22].
Từ quy định về cán bộ, cơng chức xã, phường, thị trấn hay cịn gọi là cấp xã
(cấp cơ sở), ta có thể hiểu cán bộ, cơng chức chính quyền cấp xã chính là những cán
bộ, cơng chức làm việc tại chính quyền cấp xã, cụ thể là trong Thường trực hội
đồng nhân dânvà trong Ủy ban nhân dân. Như vậy, đối chiếu theo quy định: Cán bộ
chính quyền cơ sở, gồm 04 chức vụ: Chủ tịch, Phó Chủ tịch hội đồng nhân dân;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và cơng chức chính quyền cơ sở gồm 07
chức danh: Trưởng Cơng an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa
chính - xây dựng - đơ thị và mơi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính nơng nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính - kế tốn; Tư pháp hộ tịch; Văn hóa - xã hội.
1.2.3. Cán bộ, cơng chức người dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên thế
giới hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là một thuật ngữ

15



chuyên ngành dân tộc học (minority ethnic) dùng để chỉ những dân tộc có dân số ít.
Trong một số trường hợp, người ta đánh đồng ý nghĩa dân tộc thiểu số với dân tộc
lạc hậu, dân tộc chậm tiến, dân tộc kém phát triển, dân tộc chậm phát triển… Có
nhiều nguyên nhân, trong đó có sự chi phối bởi quan điểm chính trị của giai cấp
thống trị trong mỗi quốc gia.
Trên thực tế, khái niệm dân tộc thiểu số chỉ có ý nghĩa biểu thị tương quan
về dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc, thì
khái niệm dân tộc thiểu số không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển
của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc khơng phụ thuộc ở số dân
nhiều hay ít, mà nó được chi phối bởi những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và
lịch sử của mỗi dân tộc.
Vận dụng quan điểm trên vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan niệm nhất quán của mình: Việt
Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc thành viên, với khoảng trên 80
triệu người. Trong tổng số các dân tộc nói trên thì dân tộc Việt (Kinh) chiếm 86,2%
dân số, được quan niệm là dân tộc đa số, 53 dân tộc còn lại, chiếm 13,8% dân số
được quan niệm là dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Khái
niệm dân tộc thiểu số, có lúc, có nơi, nhất là trong những năm trước đây cịn được
gọi là dân tộc ít người. Mặc dù hiện nay đã có qui định thống nhất gọi là dân tộc
thiểu số, nhưng cách gọi dân tộc ít người vẫn không bị hiểu khác đi về nội dung.
Như vậy, khái niệm dân tộc thiểu số dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít,
chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc gia
đa dân tộc. Khái niệm dân tộc thiểu số cũng khơng có ý nghĩa biểu thị tương quan
so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới. Một
dân tộc có thể được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, nhưng đồng thời có thể là
“thiểu số” ở quốc gia khác. Chẳng hạn người Việt (Kinh) được coi là dân tộc đa số
ở Việt Nam, nhưng lại được coi là dân tộc thiểu số ở Trung Quốc (vì chỉ chiếm tỉ lệ
1/55 dân tộc thiểu số của Trung Quốc); ngược lại người Hoa (Hán), được coi là dân


16


tộc đa số ở Trung Quốc, nhưng lại là dân tộc thiểu số ở Việt Nam (người Hoa chiếm
tỉ lệ 1/53 dân tộc thiểu số của Việt Nam). Rõ ràng, quan niệm về dân tộc thiểu số và
dân tộc đa số cũng như nội hàm của chúng hiện nay còn có những vấn đề chưa
thống nhất và nó cũng được vận dụng xem xét rất linh hoạt trong từng điều kiện cụ
thể, tuỳ theo quan niệm và mối quan hệ so sánh về dân số của mỗi quốc gia dân tộc.
Song, những nội dung được quan niệm như đã phân tích ở phần trên về cơ bản là
tương đối thống nhất không chỉ ở nước ta mà trong cả giới nghiên cứu dân tộc học
trên thế giới[25].
Về khái niệm cán bộ, công chức dân tộc thiểu số hiện nay được dùng tương
đối phổ biến ở nước ta. Trên cơ sở các khái niệm: dân tộc thiểu số, cán bộ, công
chức cho thấy: Cán bộ, công chức dân tộc thiểu số là tập hợp của ba khái niệm: Cán
bộ, công chức và dân tộc thiểu số. Khái niệm cán bộ, công chức dân tộc thiểu số chỉ
những người cán bộ, công chức đang công tác trong các tổ chức thuộc hệ thống
chính trị có thành phần xuất thân là các dân tộc thiểu số. Tiêu chí để phân biệt “cán
bộ, cơng chức dân tộc thiểu số” trong đội ngũ cán bộ, cơng chức của hệ thống chính
trị là thành phần dân tộc xuất thân của người cán bộ đó thuộc “dân tộc đa số” hay
“dân tộc thiểu số”. Tiêu chí này khơng có ý nghĩa phân biệt trình độ, năng lực hay
địa vị xã hội của người cán bộ, công chức. Khi đã trở thành cán bộ, cơng chức thì
dù có xuất thân từ “dân tộc đa số” hay “dân tộc thiểu số” đều phải đảm nhận những
công việc được giao phó và đều phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện cần thiết đối
với mỗi cương vị công tác của mình. Từ những phân tích như trên, có thể đi đến
một quan niệm chung về cán bộ, công chức dân tộc thiểu số, như sau: “Cán bộ,
công chức dân tộc thiểu số” là những cán bộ, công chức được quy định tại Luật cán
bộ, công chức, đang công tác, làm việc trong một tổ chức xác định của hệ thống
chính trị, có thành phần xuất thân từ các dân tộc thiểu số Việt Nam.
1.2. Năng lực, năng lực thực thi công việc, năng lực lãnh đạo, quản lý
1.2.1. Năng lực

Trong bất cứ hoạt động nào của con người, để thực hiện có hiệu quả, con
người cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết và tổ hợp những phẩm chất

17


này được gọi là năng lực. Theo quan điểm của Tâm lý học Mác xít, năng lực của
con người ln gắn liền với hoạt động của chính họ. Nội dung và tính chất của hoạt
động được quy định bởi nội dung và tính chất của đối tượng của nó. Tuỳ thuộc vào
nội dung và tính chất của đối tượng mà hoạt động đòi hỏi ở chủ thể những yêu cầu
xác định. Nói một cách khác thì mỗi một hoạt động khác nhau, với tính chất và mức
độ khác nhau sẽ địi hỏi ở cá nhân những thuộc tính tâm lý (điều kiện cho hoạt động
có hiệu quả) nhất định phù hợp với nó.
Như vậy, khi nói đến năng lực cần phải hiểu năng lực khơng phải là một
thuộc tính tâm lý duy nhất nào đó (ví dụ như khả năng tri giác, trí nhớ…) mà là sự
tổng hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân (sự tổng hợp này khơng phải phép cộng của
các thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ, giữa các thuộc tính tâm lý này diễn ra
mối quan hệ tương tác qua lại theo một hệ thống nhất định và trong đó một thuộc
tính nổi lên với tư cách chủ đạo và những thuộc tính khác giữ vai trò phụ thuộc) đáp
ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động đó đạt được kết quả
mong muốn. Ở góc độ này, chúng ta có thể định nghĩa: “Năng lực là sự tổng hợp
những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và
đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao”[6,tr190]. Nói cách khác:
“Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hoạt động nào đó”; “Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”[21,tr660.661].
Như trên đã phân tích, năng lực khơng mang tính chung chung mà khi nói
đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói đến năng lực cũng thuộc về một hoạt động
cụ thể nào đó như năng lực toán học của hoạt động học tập hay nghiên cứu tốn
học, năng lực hoạt động chính trị của hoạt động chính trị, năng lực giảng dạy của

hoạt động giảng dạy… Như vậy, có thể định nghĩa năng lực nghề nghiệp như sau:
“Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những thuộc tính tâm, sinh lý của con
người với những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra. Nếu khơng có sự tương ứng này thì
con người khơng thể theo đuổi nghề được”[19,tr72]. Ở mỗi một nghề nghiệp khác
nhau sẽ có những yêu cầu cụ thể khác nhau, theo tác giả Mạc Văn Trang thì năng

18


lực nghề nghiệp được cấu thành bởi 3 thành tố sau: Tri thức chuyên môn; kỹ năng
hành nghề; thái độ với nghề [26].
Dưới góc độ hành chính học, “năng lực” có ba cách tiếp cận sau: “năng
lực” là tập hơn ba nhóm yếu tố kiến thức, kỹ năng và cách ứng xử một người có và
sử dụng để đạt được kết quả trong cơng việc; “năng lực” là những gì một người có,
biết và làm được để đạt được kết quả trong cơng việc; “năng lực” là những gì một
người phải có để hồn thành cơng việc theo quy định. Năng lực của mỗi người bao
giờ cũng gắn liền với hoạt động của chính người đó và cả sản phẩm của chính hoạt
động ấy. Năng lực chỉ hình thành và phát triển trong hoạt động. Đến lượt nó, kết
quả hoạt động lại tùy thuộc và trình độ phát triển của năng lực được hình thành
trong hoạt động này. Như vậy, tùy theo hoạt động của con người có thể chia thành
các loại năng lực khác nhau; năng lực luôn được xác định gắn liền với việc thực thi
những loại công việc nhất định: Năng lực để đảm nhận vị trí cơng việc mang tính
chun mơn; năng lực để đảm nhận vị trí lãnh đạo, quản lý...
Năng lực cán bộ, cơng chức (năng lực thực thi công việc được giao) luôn
gắn với các yếu tố: Loại cơng việc; quy trình thực thi cơng việc; kết quả. Nói đến
năng lực của đội ngũ cán bộ, cơng chức là nói đến năng lực chung, năng lực tổng
quát và năng lực cụ thể theo từng nhóm năng lực chung. Năng lực tổng quát thường
có thể chung cho nhiều loại tổ chức ; chung cho từng nhóm đối tượng như nhóm
cán bộ, nhóm cơng chức. Năng lực cụ thể chính là chi tiết hóa năng lực tổng quát
nhưng gắn chặt với họat động của tổ chức . Cần phân biệt giữa năng lực cần có để

thực thi công việc và tiêu chuẩn để bổ nhiệm vào một vị trí. Tiêu chuẩn mang tính
quy định cứng, là điều kiện cần để bổ nhiệm, chủ yếu dựa trên các quy định như đòi
hỏi về bằng cấp, lòng trung thành, phẩm chất (khó đo lường)… Cịn năng lực chỉ
thể hiện khi kiểm tra, đánh giá hoặc khi thực thi công việc; năng lực là điều kiện
cần và đủ để làm tốt cơng việc được giao; năng lực có thể đo lường được thông qua
việc đánh giá thực thi được hay không được công việc được giao. Trong thực thi
công việc được giao nếu năng lực thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, có
thể dùng biện pháp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực.

19


1.2.2. Năng lực thực thi công việc
Năng lực thực thi cơng việc chính là khả năng thực hiện các nhiệm vụ được
giao (năng lực thực thi nhiệm vụ chuyên môn). Để thực thi công việc được giao,
cán bộ, công chức phải có kiến thức về chun mơn, kỹ năng thực hiện và thái độ
thực thi công việc:
Về kiến thức và trình độ chun mơn
Kiến thức và trình độ chun mơn có được do được đào tạo, bồi dưỡng ở
các trường lớp tạo nên cho con người đó một thế giới quan khoa học, óc nhận xét,
khả năng tư duy, xét đoán và quyết định hành động đúng quy luật, đúng mức độ và
thời điểm. Kiến thức cơ bản của một người thể hiện ở bằng cấp chuyên môn được
đào tạo ở các trường lớp. Người có bằng cấp chun mơn thuộc lĩnh vực nào có
nghĩa cá nhân đó có trình độ kiến thức ở lĩnh vực đó càng nhiều và kiến thức đó
được nhà nước cơng nhận qua việc cấp văn bằng.
Tuy nhiên, việc đánh giá năng lực con người khơng chỉ qua văn bằng họ có
được mà cần phải đánh giá một cách tổng hợp hơn về nhiều khía cạnh, chẳng hạn
như về trình độ hiểu biết kiến thức tự nhiên, xã hội. Những loại kiến thức này vô
cùng phong phú, bao gồm nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khác nhau. Và những loại
kiến thức này không nhất thiết cá nhân nào cũng phải học có bằng cấp mới biết, có

người chỉ cần tham khảo, tìm hiểu qua các sách, báo, đài, các phương tiện thông tin
đại chúng và việc tự tư duy vận dụng vào thực tiễn họ cũng có đủ năng lực để phát
hiện ra thế giới khách quan một cách nhanh nhạy và chính xác, xử lý các vấn đề mà
cuộc sống đặt ra. Trên thực tế, có người học nhiều nhưng vẫn chậm nhận ra được
bản chất của hiện thực khách quan cần xử lý.
Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ theo từng lĩnh vực nghề nghiệp, từng
cương vị cơng tác là địi hỏi tất yếu đối với người cán bộ, công chức chuyên nghiệp.
Kiến thức và trình độ chun mơn giúp người cán bộ, cơng chức có năng lực tổ
chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị các cấp ủy Đảng, hội đồng nhân dân các cấp và
những quyết định, chính sách của chính quyền cấp trên. Khơng có kiến thức và trình
độ chun mơn cán bộ, cơng chức khó có thể thực thi nhiệm vụ được giao trong

20


hoạt động thực tiễn. Đối với cán bộ, công chức chính quyền cơ sở, tùy theo chức
trách nhiệm vụ được giao, yêu cầu về kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cũng khác
nhau. Kiến thức, chuyên môn của các cán bộ (chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dân) sẽ khác nhau. Giữa cán bộ với công chức (07 chức danh
chuyên môn) cũng khác nhau…
Về kỹ năng thực hiện cơng việc
Kỹ năng chính là khả năng vận dụng những hiểu biết có được vào hoạt
động thực tế, mức độ vận dụng càng thành thạo, nhuần nhuyễn thì kỹ năng càng
cao. Có nhiều loại kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thu tập và xử lý thơng
tin, kỹ năng phân tích, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hành chính, kỹ năng ứng dụng, kỹ
năng diễn đạt, truyền đạt … Kỹ năng có được thường do q trình làm việc thâm
niên, kinh nghiệm tạo nên, ngồi ra cịn có yếu tố bẩm sinh (năng khiếu) và do kinh
nghiệm truyền giao. Người có kỹ năng tiến hành cơng việc tự tin, nhanh chóng và
chất lượng, dễ thu hút sự hài lịng của mọi người có liên quan.
Đối với cán bộ cơng chức chính quyền cơ sở cấp trực tiếp và gần dân nhất

thì kỹ năng giao tiếp là rất quan trọng. Kỹ năng giao tiếp là hoạt động qua lại giữa
các cá nhân, giữa cán bộ, công chức và người dân với nhau. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay khi thực hiện cơ chế “một cửa” ở cấp xã, kỹ năng giao tiếp là một
trong những yếu tố giúp người cán bộ, công chức đạt được hiệu quả giải quyết công
việc cho người dân. Kỹ năng giao tiếp thể hiện ở khả năng nhận biết, phán đoán, sử
dụng các phương tiện giao tiếp như: Động tác, cử chỉ, ngơn ngữ, điệu bộ, sắc thái
tình cảm ánh mắt, khả năng tạo sức hút, lôi cuốn, hứng thú, tập trung…
Cùng với kỹ năng giao tiếp, người cán bộ, công chức chính quyền cơ sở cịn
phải có kỹ năng thu thập và xử lý thông tin. Kỹ năng này gồm khả năng thu thập,
phân loại, sắp xếp, phân tích, kiểm tra, chọn lựa, xử lý và sử dụng thông tin. Với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ như ngày nay, đặc biệt là công nghệ
thông tin, kỹ năng xử lý thông tin ngày càng quan trọng, có ý nghĩa rất lớn khi dự
thảo và ra quyết định cũng như thực thi công việc.

21


Một kỹ năng quan trọng nữa mà cán bộ, công chức nói chung, cán bộ cơng
chức chính quyền cơ sở nói riêng cần phải có đó là kỹ năng phân tích. Đây là kỹ
năng địi hỏi sự khơng ngừng vươn lên về năng lực, trình độ đối với cán bộ, cơng
chức chính quyền cơ sở. Mơi trường bên trong và mơi trường bên ngồi của người
cán bộ, cơng chức ln hàm chứa thời cơ, nguy cơ, mặt mạnh, mặt yếu… địi hỏi
người cán bộ, cơng chức ln có sự phân tích để lựa chọn, đánh giá và đề ra các
phương án giải quyết thích hợp.
Ngồi kỹ năng phân tích, kỹ năng đánh giá cũng rất cần thiết đối với cán
bộ, cơng chức chính quyền cơ sở. Làm bất kỳ việc gì lớn hay nhỏ đều phải đánh giá
khác quan, cơng bằng, không thiên vị. Việc đánh giá những nhân tố mới, điển hình
mới, mơ hình mới trên địa bàn xã, phường, thị trấn gắn kết, liên quan mật thiết đến
quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân chủ,
công bằng, văn minh. Thông qua việc đánh giá người cán bộ cơng chức có thể đề

xuất các giải pháp góp phần thu hút nguồn lực bên ngồi và phát huy nội lực bên
trong, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng như chức
trách, nhiệm vụ được giao…
Về thái độ thực thi công việc
Thái độ làm việc sự cố gắng, mức độ nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của cá
nhân đối với công việc mà họ đang thực hiện. Thái độ ảnh hưởng rất lớn đến năng
lực thực thi công việc của cán bộ, công chức. Nhiều cán bộ, công chức có trình độ,
kiến thức tốt, kỹ năng vững chắc nhưng khơng hồn thành được nhiệm vụ do có thái
độ khơng đúng. Đó có thể là sự chủ quan, cẩu thả, bất cẩn, thiếu ý thức trách nhiệm
hoặc thậm chí cố ý làm trái vì mục đích, động cơ khác.
Tuy nhiên, thái độ là một phẩm chất thuộc về yếu tố chủ quan của cá nhân.
Chúng ta có thể nhận biết được thái độ thơng qua biểu hiện của nó ra ngồi bằng
hành vi. Do vậy, chỉ có thể đánh giá được thái độ thực thi công việc của cán bộ,
công chức là tích cực hay tiêu cực thơng qua việc làm cụ thể của họ. Thái độ tích
cực của cán bộ, cơng chức trong thực thi cơng việc được hình thành liên quan đến
đạo đức và trách nhiệm công vụ, nó gắn liền với các yêu tố ảnh hưởng đến cả đời

22


sống vật chất và tinh thần của cán bộ, công chức. Do vậy, việc nâng cao thái độ tích
cực trong thực thi công việc gắn liền với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của cán bộ phù hợp với cơng việc, vị trí, trách nhiệm mà họ phải thực hiện.
Thái độ thực thi cơng việc cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cả
yếu tố sức khỏe. Nhiều khi cán bộ cơng chức có thái độ thực thì cơng việc tốt những
sức khỏe lại khơng bảo đảm nên dù cố gắng nhưng vẫn không thể hoàn thành nhiệm
vụ được giao do sức khỏe yếu, ốm đau, bệnh tật. Sức khỏe là một yếu tố tổ chức
sinh lý của đại não, tứ chi, nội tạng và các bộ phận khác của một người. Sức khỏe
được thể hiện thông qua việc vận động cơ năng chỉnh thể của các tổ chức sinh lý
như hoạt động hữu cơ, tổ chức, liên kết giữa các bộ phận trong cơ thể. Sức khỏe là

cơ sở và sự bảo đảm cơ bản để cán bộ, cơng chức hồn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
Sức khỏe tốt, dồi dào khơng chỉ đảm bảo cho cán bộ, cơng chức có sức
khỏe làm việc dẻo dai trong điều kiện bình thường, mà cịn đáp ứng yêu cầu phải
tập trung cường độ lao động cao để giải quyết những vấn đề bức bách, làm việc
trong những điều kiện khó khăn, mơi trường khắc nghiệt kéo dài. Sức khỏe tốt cịn
giúp cho cán bộ, cơng chức ln có tâm hồn sảng khối, tư duy minh mẫn, giúp họ
thực thi nhiệm vụ trong trạng thái tinh thần tốt với sự tỉnh táo và sáng suốt, đem lại
hiệu quả cao.
1.2.3. Năng lực lãnh đạo, quản lý
Năng lực lãnh đạo, quản lý là khả năng dự báo, phán đoán, xử trí tình
huống, khả năng hành động của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý hành chính. Khả năng dự báo, phán đoán
thực chất là nhà lãnh đạo, quản lý có tầm nhìn về tương lai. Tầm nhìn là một dạng
chiến lược mà hệ thống quản lý hành chính cần hướng tới. Nó chỉ ra con đường cần
đi, các giai đoạn cần vượt qua. Tầm nhìn là việc huy động sức lực, trí tuệ của mỗi
cán bộ, cơng chức, mỗi tổ chức. Tầm nhìn cho phép mỗi nhà lãnh đạo, quản lý biết
được các đặc điểm của hệ thống tổ chức theo hình dung của họ. Nhà lãnh đạo quản
lý cần nguồn nhân lực như thế nào cho tổ chức mình, cần các năng lực gì? Khả

23


năng xử lý tình huống là việc nhà lãnh đạo, quản lý tìm hiểu để nắm bắt được
những cơng việc đang diễn ra trong lĩnh vực công tác, hoạt động của mình, cũng
như ngay chính trong hệ thống quản lý hành chính của mình. Nhà lãnh đạo, quản lý
phải cập nhật thông tin một cách đầy đủ, kịp thời cho mọi thành viên trong tổ chức
của mình. Cịn khả năng hành động đó là việc nhà lãnh đạo, quản lý lên kế hoạch
chiến lược đối với nguồn nhân lực, cho phép huy động, sử dụng đúng người, đúng
lúc và đúng chỗ. Vấn đề này phụ thuộc vào khả năng đọc và hiểu đúng môi trường

cũng như hiểu rõ những năng lực cần thiết để thực thi công việc một cách hiệu quả
nhất.
Như vậy, có thể thấy ngồi năng lực thực thi nhiệm vụ chun mơn như đã
nói ở trên, người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ chính quyền cơ sở cịn
phải có thêm các năng lực khác nữa như: Năng lực tư duy dài hạn (tầm nhìn), năng
lực lãnh đạo- quản lý, năng lực sáng tạo, năng lực quản lý nguồn nhân lực, năng lực
quản lý các nguồn lực khác như tài chính- vật tư, năng lực tự quản lý cá nhân…
Về năng lực tư duy
Chính khả năng tiếp thu lý luận, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
một cách đúng đắn; khả năng phát hiện những mâu thuẫn, vấn đề mới nảy sinh; khả
năng tổng kết thực tiễn và học tập kinh nghiệm thực tiễn; khả năng vận dụng sáng
tạo lý luận, đường lối, chính sách để xây dựng chương, kế hoạch cơng tác, kế sách
phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thực tế cơ sở. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý
phải có khả năng lựa chọn phương pháp tuyên truyền phù hợp với đảng viên, công
chức và quần chúng để mọi người quán triệt đúng đắn và sâu sắc các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về những vấn đề cốt lõi thuộc phạm vi
mình phụ trách. Biết đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng.
Biết cùng tập thể vạch ra mục tiêu chiến lược lâu dài và nhiệm vụ cụ thể
cho từng giai đoạn; biết đề ra chương trình, kế hoạch với những hình thức, biện
pháp tối ưu; tổ chức thực hiện đến nơi, đến chốn, kiểm tra, giám sát chặt chẽ; kịp

24


thời uốn nắn, bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện chủ trương làm cho đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào từng ngõ ngách của cuộc sống và đến với
mọi người dân ở cơ sở. Có tầm nhìn xa, khả năng dự báo, định hướng, vạch hướng,
kế hoạch cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cơ sở. Biết biến những

tri thức đã lĩnh hội được thành các chủ trương, kế hoạch hành động làm biến đổi
hiện thực. Có khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn;
vận dụng cái chung một cách đúng đắn vào từng tình huống cụ thể. Biết đưa ra
quyết định đúng đắn, sát hợp với thực tế của địa phương.
Về năng lực lãnh đạo, quản lý
Người lãnh đạo, quản lý phải có khả năng thu nhận và xử lý thông tin liên
quan đến các mặt của đời sống xã hội một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Có khả
năng đưa ra những quyết định có tính chất tình huống cụ thể, chính xác và có tính
khả thi. Biết tổ chức thực hiện quyết định, tổ chức bộ máy, bố trí và phối hợp các
lực lượng trong tổ chức mình; có khả năng đồn kết, quy tụ cán bộ, đảng viên, cơng
chức; có khả năng tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng; biết phát huy và
khơi dậy sức mạnh cộng đồng để thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở (chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân
dân, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn) phải có khả năng làm kinh tế và hiểu biết
pháp luật; lăn lộn trong phong trào thực tiễn ở cơ sở, xây dựng được mối quan hệ
mật thiết với dân, hiểu dân tôn trọng dân, học tập dân và ln xuất phát từ lợi ích
của dân để hành động. Có như thế “dân mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ là người
lãnh đạo của họ”. Biết hình thành quy chế, biết áp đặt và thực thi quy chế, biết cụ
thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước thành những quyết định phù hợp
với điều kiện cụ thể của cơ sở. Biết dựa vào dân để lựa chọn cán bộ và quyết định
các chủ trương, nhiệm vụ công tác lớn. Biết tổ chức công tác kiểm tra, giám sát thực
hiện các quyết định để duy trì, điều chỉnh tiến độ thực hiện quyết định, phát hiện kịp
thời những vấn đề mới nảy sinh để giải quyết, biết tìm ra những sai sót, lệch lạc để
sửa chữa, hoàn chỉnh quyết định, bảo đảm quyết định được thực thi chính xác, hiệu
quả.

25



×