Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Buồn và cô đơn trong thơ sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.53 KB, 26 trang )

1

Đề tài: Nỗi buồn và cô đơn trong thơ sau 1975
Bài làm
MỞ BÀI
Có người đã từng nói rằng: “Cô đơn, cái này đáng sợ hơn cả đói rét và ốm
đau”. Dường như hiểu thấu trạng thái tâm lý ấy, các nhà thơ Việt Nam sau 1975 đã
đi sâu vào diễn tả và rất thành công khi viết về nỗi cô đơn và nỗi buồn. Thật vậy,
sau 1975, đất nước hoà bình và đi vào quỹ đạo đổi mới, ý thức cá nhân xuất hiện
trở lại. Văn học được giải phóng khỏi chức năng tuyên truyền, cổ vũ để mở rộng
khả năng khám phá cuộc sống và con người, để trở về với chính nó - một khoa học
về con người. Những biến động lớn lao, cảm quan bất an trước một thời điểm
nhiều xáo trộn, rạn vỡ là lý do mà các nhà thơ sau 1975 dành mọi sự quan tâm đến
những nỗi buồn và nỗi cô đơn, chứng tỏ văn học đang thực sự quan tâm đến con
người - đến đời sống tinh thần con người. Ý vị cô đơn tấm đượm làm thơ mang
cảm hứng thế sự và đời tư, phảng phất trong những bài thơ triết lí về bản thể con
người.Trong thơ ca sau 1975, những đề tài về chiến tranh, về tình yêu, hôn nhân,
gia đình được nhìn lại và khơi mở ở nhiều mặt khuất lấp là từ đó thấp thoáng trong
thơ những nỗi buồn và sự cô đơn. Đã có rất nhiều nhà thơ của nên văn học sau
1975 nói về nỗi buồn và sự cô đơn như : Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Lâm Thị
Mỹ Dạ và đặc biệt là những nhà thơ trẻ: Vi Thùy Linh, Nguyễn Thế Hoàng
Linh…..những trang thơ ấy là nỗi buồn, cô đơn về hành trình cô độc của những cá
thể người trong cuộc xô dạt trước biển lớn cuộc đời.


2

1.Khái quát thơ Việt Nam sau 1975
1.1. Xã hội Việt Nam sau 1975
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối,
nhân dân Việt Nam thực sự bước vào cuộc sống mới, cuộc sống tự do, dân chủ,


bình đẳng và công bằng.
Niềm vui thống nhất, anh em Nam - Bắc từ nay được sống chung dưới một
mái nhà Việt Nam tạo nên sức mạnh và niềm hăng say lao động, sự cống hiến hết
mình vì tổ quốc thân yêu và cho toàn dân tộc.Tất cả mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi từ
cụ già tới em nhỏ, từ phụ nữ đến đàn ông, từ thanh niên, nông dân đến trí thức đều
hào hứng trước những biển đổi của đất nước, cùng bước vào giai đoạn kiến thiết
nước nhà, khắc phục hậu quả chiến tranh.
Chính vì vậy, tinh thần hăng hái ấy cũng ảnh hưởng rất lớn tới các sáng tác
văn học giai đoạn này. Văn học thực sự xác định được nội dung tư tưởng chủ đạo
trong sáng tác, đó là ngợi ca hình ảnh tổ quốc những ngày đầu thống nhất, đề cao
phẩm chất tốt đẹp của người dân Việt Nam Xã hội chủ nghĩa cũng như động viên
tinh thần lao động và xây dựng nước nhà giàu mạnh của người dân cả nước.
Đặc biệt trong đời sống xã hội, “thời kì đổi mới” ở Việt Nam được tính từ
năm 1986. Đây là năm diễn ra Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên diễn
đàn của Đại hội này, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới
tư duy”, với rất nhiều “việc cần làm ngay”. Cùng với các lĩnh vực khác văn học
nghệt huật đã có những bước đột phá lớn với sự xuất hiện nhiều truyện ngắn, tiểu
thuyết, kịch, thơ, bút kí… thể hiện sự đổi mới sâu sắc trong đời sống của văn học
nghệ thuật. Ngòi bút của các nhà văn trong thời kỳ này cũng lên tiếng phê phán
những sai lầm, những quan điểm lạc hậu, quan liêu, chống đối, bao cấp còn tồn tại


3

trong xã hội, do đó văn chương trở thành một thứ vũ khí sắc bén đóng góp đáng kể
vào công cuộc làm đẹp, làm giàu cho đất nước.
Đời sống xã hội sau 1975 đã tác động mạnh đến sự phát triển của văn học
thời kì này. Văn học giai đoạn sau 1975 đến đã phản ánh một cách chân thực về
bức tranh hiện thực cuộc sống, về những khó khăn vất vả và tinh thần lao động,
phấn đấu không mệt mỏi của người dân Việt Nam, đồng thời nó cũng phản ánh

được những bất cập tồn tại trong đời sống hiện tại để từ đó, văn chương góp phần
hoàn thiện bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam thời kỳ này.
1.2. Quá trình vân động của thơ sau 1975
1.2.1. Quá trình vận động của thơ từ 1975 đến 1986
Cuộc sống thời hậu chiến có quá nhiều điểm khác biệt so với cuộc sống thời
chiến tranh. Điều đó đòi hỏi nghệ sĩ phải xác lập vị thế của mình sao cho thích hợp
với hoàn cảnh lịch sử mới. Từ chỗ là những ca sĩ ngợi ca đất nước và nhân dân
bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè
cao” sang “giọng trầm”. Cái nhìn sử thi đã dần phai nhạt và thay vào đó là cái nhìn
phi sử thi. Đây là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho nghệ thuật giai đoạn này thể
hiện tinh thần dân chủ hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá
nhân đã trở thành nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau 1975.
Nhà thơ không còn bị vướng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và hiện thực
thứ yếu, không bị bó buộc trong những khung tư tưởng định sẵn mà cố gắng thể
hiện tính đa chiều của hiện thực. Nói đúng hơn, hiện thực trong văn học phải là thứ
hiện thực của suy tư. Chỉ một khi nhà thơ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt cá nhân,
nói lên tiếng nói cá nhân, lúc đó mới hi vọng anh ta tạo nên giọng điệu và tư tưởng
nghệ thuật riêng. Tuy nhiên, trong những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc, cần
chú ý đến hai mạch chính trong sự vận động của tư duy thơ. Thứ nhất, cảm hứng


4

sử thi vẫn được tiếp nối như một quán tính nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà
giai đoạn này xuất hiện hàng loạt trường ca có ý nghĩa như những bức tranh hoành
tráng tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Sự thay đổi trong cái nhìn nghệ
thuật trong các trường ca này so với thơ ca thời chống Mỹ là ở chỗ, tuy vẫn mang
chủ âm hào hùng, nhưng các nhà thơ đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của
con người. Nói khác đi, trong khi cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc,
các nhà thơ đã quan tâm trực diện đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số

phận của đất nước được đo ướm bằng nỗi đau của cá nhân: Một mình một mâm
cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền (Hữu
Thỉnh - Đường tới thành phố). Trong những trường ca này, mặc dù cái bi chỉ là yếu
tố để làm nổi bật cái tráng nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn
nhiều hơn với những suy tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người. Thứ
hai, trong những năm cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, “thơ
đời thường” xuất hiện nhiều. Chưa bao giờ các nhà thơ thấy nhiều bi kịch đến thế.
Thậm chí, cảm giác bế tắc và chán nản là cảm giác khá nổi bật trong tâm trạng
nhiều người: thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi
(Nguyễn Trọng Tạo - Tản mạn thời tôi sống). “Từ xa” nhìn về Tổ Quốc, Nguyễn
Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay đắng của mình khi nhìn thấy sự khổ nghèo và bất
hạnh của con người trong cuộc sống đầy khốn khó. Lưu Quang Vũ cũng cay đắng
nghẹn ngào khi nghĩ về Tổ quốc. Các hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại
hóa về một hiện thực kỳ vĩ và cảm hứng sử thi không còn xuất hiện như là hiện
tượng nổi bật của thơ ca giai đoạn này. Trái lại, bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu
sắc chiêm nghiệm, nhiều thi phẩm sau chiến tranh đã thể hiện một cách khá riết
róng những mặt trái của đời sống, những thay đổi các thang bậc giá trị và không né
tránh việc nói đến những bất công xã hội. Đây là những cảm hứng hiếm khi xuất
hiện trong thơ 1945- 1975, khi mà số phận dân tộc và số phận cá nhân hòa làm
một, cái tôi và cái ta hoàn toàn thống nhất. Cái nhìn nghệ thuật trong thơ sau 1975


5

là cái nhìn suồng sã, đối tượng hiện lên như một sự thật không mang màu lý tưởng
hóa. Theo đó, thể tài thế sự, đời tư trở nên nổi bật và gắn liền với nó là chất giọng
“tự thú” và chất giọng giễu nhại. Ở đây chất giọng giễu nhại mang trong mình nó ít
nhất hai chức năng nghệ thuật cơ bản: làm cho thơ bớt đi sự nghiêm trang thái quá,
ngôn ngữ thơ bớt đi sự “trong suốt” mà tăng thêm phù sa của “cây đời”; cho phép
người đọc hình dung cuộc sống như một thực thể đa trị, bên cạnh cái trong veo,

thuần khiết là những thứ “tèm nhem tâm hồn”. Cả hai đều tồn tại bình đẳng trong
một thế giới không phải lúc nào cũng được cắt nghĩa theo logic nhân quả. Bởi thế,
gắn liền với giọng điệu thự thú là cảm hứng phờ phỏn và chất giọng hoài nghi. Chỉ
có điều cái nhìn hoài nghi cần được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng, khi
ta hoài nghi một giá trị có nghĩa là bắt đầu ta đã nghiêng về một giá trị khác (hoặc
ít nhất ta không còn ràng buộc mình trong giá trị cũ).
Sự đa dạng về phong cách và sự phong phú về giọng điệu là đặc điểm nổi
bật của thơ Việt sau 1975. Và hiện tượng nở rộ trường ca là một trong những thành
tựu chủ yếu của thơ ca giai đoạn này. Nếu trước đây, Tố Hữu và Chế Lan Viên
được coi là những người lĩnh xướng của thơ ca kháng chiến thì sau 1975, hiện
tượng này không xuất hiện trở lại. Thay vào đó, mỗi người có cách thể hiện cái
nhìn nghệ thuật của mình. Sự gần gũi về quan niệm và phong cách giữa một số nhà
thơ có thể hình thành một xu hướng, một phái nhóm chứ không xuất phát từ một
phương pháp sáng tác độc tôn nào đó. Chính sự đa dạng và sự “phân cực” về tư
duy nghệ thuật, về khuynh hướng thẩm mĩ, về bút pháp và ngôn ngữ là một dấu
hiệu cho thấy thơ ca sau 1975 đang sải những bước chân mạnh mẽ trên con đường
hiện đại hoá. Người ta không còn thấy lạ khi bên này là những nhà thơ đắm mình
trong văn hoá truyền thống và bên kia là những cách tân theo kiểu phương Tây,
bên này là những nhà thơ có ý thức tỏ bày cảm xúc mãnh liệt và bên kia là những
cây bút tỉnh táo giấu kín cảm xúc của mình…Tất cả những phương cách ấy đều có


6

quyền tồn tại với điều kiện là thơ họ phải có hay và mới. Nhưng mới không có
nghĩa là đoạn tuyệt với truyền thống và hay không đồng nghĩa với những thuật xiếc
chữ để tạo nên sự tân kì mà trống rỗng. Cái tôi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa
diện, nhiều bất an, giằng xé, hướng nội.
Một số khuynh hướng nổi bật của thơ ca Việt nam giai đoạn này : Xu hướng
viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân tộc, Xu hướng

trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật, Xu hướng đi sâu
vào những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng trưng siêu thực
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 đã vận động một cách mạnh
mẽ theo hướng hiện đại hóa. về nội dung: là sự đổi mới cách nhìn, phản ánh, cảm
nhận. Lấy cá nhân (cuộc sống, số phận ) và bối cảnh gắn với nhu cầu cá nhân làm
trục xoay chính.
Về nghệ thuật: Đa dạng phương pháp thủ pháp, thành công ở nhiều thể
loại. Đã có nhiều những tác giả, tác phẩm được ghi nhận .Là những trường hợp
vửa truyền thống vừa đổi mới, gắn liền vơi dân tộc, hội nhập quốc tế, tiếng lòng
nhà văn hòa vơi tiếng nói xã hội.
1.2.2. Quá trình vận động của thơ từ 1986 đến nay
Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại
làm thay đổi cuộc sống nước ta vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Văn
nghệ, trong tình hình mới đã dám “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề khúc
mắc, nhiều sự thật đau lòng. Theo đó, cá tính sáng tạo của nhà thơ cũng được giải
phóng triệt để hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và giới văn
nghệ sĩ cả nước vào tháng 10 năm 1987 có tác động rất lớn đến tinh thần của
những người cầm bút, nhất là ý thức tự cởi trói trong lĩnh vực sáng tạo. Không thể
phủ nhận một thực tế là cơ chế kinh tế thị trường đã làm cho cuộc sống khởi sắc


7

hơn, nhưng mặt khác, con người dường như sống với nhau lạnh lùng hơn, mối
quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội lỏng lẻo hơn. Bối cảnh lịch sử và văn hóa
mới, cả mặt phải và mặt trái của nó khiến các nhà thơ không thể nhìn cuộc sống
như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với những thay đổi nhiều khi chóng mặt
của cuộc sống. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật thơ giai
đoạn này qua ba điểm đáng chú ý sau đây:
Ý thức nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình

thức tra vấn không ngừng về đời sống. Khát vọng đổi mới ấy trong nghệ thuật đã
được tiếp sức bởi công cuộc đổi mới của đất nước. Màu sắc duy lí “tỉnh táo, tỉnh
bơ” khá đậm trong thơ cho thấy ý thức tạo dựng nhãn quan nghệ thuật mới của
nhiều nghệ sĩ. ý thức ấy bộc lộ qua hai dấu hiệu cơ bản: thứ nhất, thơ ca đã bắt đầu
bứt thoát khỏi những trận mưa trữ tình và sự ngọt ngào thường thấy trong thơ
1945-1975 để tiến đến sự đa dạng với những câu thơ trúc trắc, mang tính đối thoại
cao, giọng điệu thơ gần gũi với đời sống thường ngày; thứ hai, cái nhìn tỉnh táo của
nhà thơ thực ra là cái nhìn giàu chất suy tư, là bề ngoài của một nỗi đam mê lớn
bên trong. Gắn liền với những thay đổi ấy trong cấu trúc tư duy nghệ thuật là vị thế
của nhà thơ trong hoàn cảnh mới. Nhà thơ không phải là những người rao giảng
đạo đức hay minh họa cho một tư tưởng sẵn có mà anh ta phải góp phần đánh thức
những khát khao, những niềm trắc ẩn của con người trên cơ sở trình bày cảm nhận
của mình về các giá trị.
Nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn giấu”, dám phơi bày những bi
kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá trị
mới. Đây là lý do nhiều tác phẩm xuất hiện cảm hứng “giải thiêng” và khát vọng
muốn tìm đến những hình thức tổ chức ngôn từ mới lạ. Trong nghệ thuật, không
phải mọi nhận thức chung về tư tưởng xã hội đều đồng nhất với những suy nghĩ cá
nhân và văn bản văn học không phải là những văn bản tuyên huấn có tính hình ảnh.


8

Với tư cách là một nghệ sĩ, cái quan trọng nhất là nhà thơ phải tạo ra được quan
niệm riêng về đời sống. Quan niệm ấy không hiện lên qua những lời thuyết lý khô
khan mà phải hoá thân vào chữ nghĩa và hình tượng. Đó là lý do khiến các nhà thơ
từ 1986 đến nay đã chú ý nhiều hơn đến tính đa nghĩa của ngôn ngữ thơ ca. Bên
cạnh xu hướng đưa thơ gần với đời sống là một cực khác: ý thức tạo ra tính nhòe
mờ trong ngôn ngữ và biểu tượng. Xu hướng này muốn gia tăng chất ảo trong thơ,
buộc người đọc phải giải mã các sinh thể nghệ thuật qua nhiều chiều liên tưởng

văn hóa khác nhau.
Nghệ sĩ coi thơ như một ngôn ngữ. Công cuộc đổi mới đã mở rộng cánh cửa
giao lưu, hội nhập với thế giới, và thơ ca, trước vận hội này, không thể nằm yên
trong mô hình nghệ thuật cũ. Bắt đầu xuất hiện những giọng thơ lạ, đậm chất
“Tây”. Điều đó đã dẫn tới những cuộc trạnh luận về “ta” và “tây” trong thơ kéo dài
đến mấy năm sau sự kiện “sự mất ngủ của lửa” (Nguyễn Quang Thiều) và thơ của
một số nhà thơ khác như Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng. Các cây bút
này có ý thức phá vỡ các chiều tuyến tính, tạo nên những dòng chảy đứt nối và gia
tăng tính đồng hiện của các hình ảnh thơ hoặc cố gắng tỉnh lược các mối quan hệ
bề nổi, đặt những hiện tượng khác nhau bên cạnh nhau và buộc người đọc tự xác
lập mối lên hệ giữa chúng.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 đã vận động một cách mạnh
mẽ theo hướng hiện đại hóa. Tất nhiên, trong quá trình tìm tòi, đã xuất hiện không
ít trường hợp rơi vào cực đoan. Tuy nhiên, với những “cực đoan lành mạnh”, có
thể nhìn thấy khía cạnh tích cực của nó: Nó sẽ là những cú hích để: phá bỏ những
tín điều mòn cũ một cách triệt để; có ý nghĩa như một kinh nghiệm nghệ thuật để
những người đi sau tìm cách điều chỉnh hoặc tạo ra một lối rẽ khác triển vọng hơn.
Nếu hình dung như thế sẽ thấy, tuy chưa tạo được những đỉnh cao nghệ thuật như
ta vẫn trông đợi, song với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật, sự nhận thức toàn diện


9

hơn về bản chất thơ ca và cấu trúc thể loại, thơ Việt đã thực hiện một cuộc tạo đà
mạnh mẽ cho những kết tinh nghệ thuật trong chặng đường sắp tới.
2.Thơ Việt Nam sau 1975 mang nhiều nỗi buồn và cô đơn
2.1. Nỗi buồn và cô đơn bước ra từ chiến tranh
Sau 1975, con nguời trở về với đời thường, phải đối mặt với biết bao gian
truân, thử thách trước cái phong phú, đa dạng và cả cái bộn bề, phức tạp của cuộc
sống... Từ bối cảnh dó, ý thức về cá nhân có điều kiện trỗi dậy mạnh mẽ và tất yếu

bên cạnh niềm vui, hạnh phúc, đời sống con người cũng có biết bao điều phải thao
thức, trăn trở, buồn lo,... Cái buồn đó cũng thành thật như cái buồn trong Thơ Mới
nhưng giàu sắc thái hơn. Thưa vắng dần những xúc cảm ngợi ca, những hình tượng
hoành tráng, những không gian mênh mông từ hậu phương ra tiền tuyến… thơ lui
về đúng với địa hạt của mình là cái tôi thẳm sâu, đầy phức tạp. Hình ảnh người anh
hùng, những tấm gương điển hình trong thơ ca giai đoạn trước giờ được thay bằng
cái tôi bản thể, một cái tôi đang trở về sau những tháng năm dài đi xa khỏi căn nhà
của “hữu thể”. Trở về, soi nghiệm, nhận ra mình rõ hơn, đầy đủ hơn là một cá tính,
một nhân xưng, một hiện hữu đầy mãnh liệt, một bản vị khát khao toàn nguyên…
là phẩm chất có thể tìm thấy trong hầu hết thơ ca của các tác giả sau đổi mới:
Chích một giọt máu thường xét nghiệm
tí trí thức - tí thợ cày - tí điếm
tí con buôn - tí cán bộ - tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
(Nguyễn Duy, Nhìn từ xa … Tổ quốc, 1988)
Cũng viết về cuộc chiến tranh đã đi qua, nhưng các nhà thơ sau năm 1975 đã
hướng tới những số phận, khắc hoạ được những nỗi đau mất mát, nó thấm thía và


10

lay động lòng ngưòi hơn trước. Nỗi buồn được cảm thông và chia sẻ trong thơ họ
rất thật, nó mệt mỏi, nhức đau như chính cuộc đời vậy. Đọc thơ họ, chúng ta có
cảm giác vừa đi qua một cánh rừng rậm đặc, trong bóng đêm ẩm ướt của những
câu thơ đang tuôn trào như một sự hối thúc ám ảnh. Thơ của họ như bản giao
hưởng của rất nhiều khái niệm, cảm giác, suy ngẫm và ý tưởng - cùng tấu lên tràn
đầy sức tưởng tượng lạ lẫm. Những day dứt của đời thường để lại không ít vết
thương trong trái tim nhà thơ. Sự thật khắc nghiệt mà họ phải nếm trải đã dội đập
vào thơ họ đến tức ngực - làm thơ họ bừng tỉnh. Đọc thơ họ, ta như được tham dự
vào những nỗi khổ đau và hy vọng đã làm nên gương mặt của mỗi số phận.

Thơ sau 1975 cũng là thơ mang rất nhiều ưu tư, trăn trở. Tố Hữa viết bài thơ
Một tiếng đờn, mở đầu bằng khổ thơ:
“Mới bình minh đó, đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa như vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn”
Với Tố Hữu một hồn thơ chiến sĩ có một tâm trạng như vậy là hiếm thấy.
Nỗi buồn của nhà thơ nó vang vọng với biến cố lớn của thời đại và lay động bao
nhiêu tâm hồn đồng điệu.
Chế Lan Viên có những lời thơ thống thiết về sự bất lực của mình trước thực
tế phũ phàng hôm nay:
“Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ
Người ấy nhắc những câu thơ như tôi làm người ấy xung
phong


11

Mà tôi xấu hổ
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười”
(Ai? Tôi!)
Cái nhìn chiến tranh bây giờ đã khác, đó là cái nhìn cả nỗi đau thương và
mất mát. Chiến tranh chấm dứt, cuộc sống hòa bình thì bản chất cuộc sống đã khác
với thời chiến tranh, cái còn lại sau chiến tranh là nỗi buồn và nỗi mất mát lớn lao.
Khi cuộc sống dần trở lại với những quy luật bình thường của nó, con người phải
quay về với muôn mặt đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong cuộc
sống. Với họ những gì trong chiến tranh cao quý nhất thì bây giờ không còn nữa

mà là nỗi buồn, một nỗi cô đơn dai dẳng. Từ cái nhìn hiện tại, họ nhìn về lịch sử
đất nước, một thời kỳ anh dũng của dân tộc và không ít đau thương và bất hạnh.
Những trang thơ của Lưu Quang Vũ đã viết:
“Cuộc chiến tranh thế là đã đi qua
Cỏ đòng bắt đầu xanh lại”
(Tháng 5)
Rất nhẹ nhàng, dung dị nhưng lại khiến người đọc rung động sâu đậm và đã
tạo nên một sức mạnh lay động lòng rất mãnh liệt. Đằng sau niềm vui, sự vỡ òa,
hân hoan chiến thắng đó chất chứa một nỗi buồn đau của sự mất mát, chia ly, là
những khoảng lặng, sự trống rỗng, cô đơn và nghi ngại. Chiến tranh để lại những
hậu quả tàn khốc liệt, những mất mát đau thương không gì có thể bù đắp được, ngờ
vực mà tưởng chừng như đất nước này, dân tộc này không thể gánh đỡ được trên
bờ ai nhỏ bé của mình:


12

“Chưa ai dựng nhà trên bãi nền đổ nát
Nơi máu đổ quá nhiều, chưa ai dám trồng hoa
Chưa ai yêu thương bên huyệt mộ căm thù
Nơi trống trải già nua, những đôi mắt nghi ngờ
Những cửa biển, những phố phường xa lạ”
Với Nguyễn Duy thì những hình ảnh về người mẹ liệt sĩ sau chiến tranh luôn
ám ảnh ông. Đó là những buồn tủi, đau đớn nhất:
“Mười lăm năm… kiệt khô lá héo
Chợ bờ sông mụ hành khất điên cười
Co chết trẻ làm thần liệt sĩ
Mẹ sống già làm ma giữa đời”
(Ám ảnh cát)
Nỗi buồn đó được Nguyễn Duy miêu tả một cách trần tụi, hết sức táo bạo

nhưng đó là nỗi đau âm thầm, thầm lặng và bây giờ đã được cất lên thành tiếng. Kể
cả nỗi buồn, sự thất vọng, cảm giác lẻ loi cô độc, đi đến nghi ngờ, chán nản... cũng
là hình ảnh nghịch lý của niềm vui sống:
“Tôi chỉ là người mơ ước thôi
Là người mơ ước hão than ôi
Bình minh chói lói đâu đâu ấy
Mà chốn lòng riêng u ám hoài”


13

(Bên sông đưa khách – Thế Lữ)
Thơ sau 1975 là những khoảng thời gian để các nhà thơ có cơ hội nhìn lại
chiến tranh, nhìn lại những chặng đường đã qua với những mất mát, những hậu quả
tàn khốc mà chiến tranh để lại. Chính những nỗi đau, sự mất mát quá lớn ấy đã
khiến cho các nhà thơ đã dám “nói thẳng, nói thật”, phanh phui, mổ xẻ những sự
thật ẩn nấp đằng sau của chiến tranh, những bi kịch về tinh thần lẫn thể xác của
con người, những đau thương mất mát, những hệ lụy mà chiến tranh mang lại cho
chúng ta.
Các nhà thơ này đã mang lại những phát hiện mới, có giá trị khắc hoạ bằng
ngôn ngữ của thơ, nỗi đau của những phận người - cái mà chỉ ít năm trước đây,
không ít người làm thơ còn né tránh. Họ đã chạm được vào cõi sâu của tâm hồn,
không chỉ bằng sự phá vỡ sắc cạnh của lý trí mà còn bằng cảm xúc của trái tim,
điều đó làm cho người đọc thấy gần gũi và đồng cảm với nhà thơ, khi độc giả
không bị áp đặt bởi một chủ thể ngôn ngữ có ý định mà được tham dự cùng tác giả
vào những cảm xúc được tái hiện từ cái chất liệu đời thường còn rớm máu và khó
nhọc này. Sự dồn nén, bức xúc của tâm trạng bật dậy trong họ những câu thơ
không chịu bằng phẳng và sự chuyển tải của những nỗi niềm, những ẩn ức đang
còn khuất lấp trong tâm hồn thi sĩ đã tự tìm cho mình một hình thể mới, một nhịp
vận động riêng trong cách tổ chức câu chữ và những bài thơ đổi mới của họ ra đời.

Còn đến với thơ thời đổi mới, chúng tôi nhận thấy, nỗi buồn trong tư
tuởng, tình cảm của con người cá nhân vốn được trào dậy mạnh mẽ từ thời Thơ
Mới, cái hiện thực tâm hồn đó nay tiếp tục được nhìn nhận và khám phá đa dạng từ
nhiều phương diện ở đời tư với những chiều kích mới, cảm quan nghệ thuật mới
truớc thực tại mới. Cái mạch buồn trong thơ được thể hiện ở những mức độ khác
nhau. Buồn vì hoàn cảnh cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, vì mất mát


14

trong chiến tranh. Buồn vì công danh, sự nghiệp; buồn vì thế thái nhân tình trong
cuộc sống khi :
“Ðời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn”
(Tố Hữu)
Thơ sau 1975 là những khoảng thời gian để các nhà thơ có cơ hội nhìn lại
chiến tranh, nhìn lại những chặng đường đã qua với những mất mát, những hậu quả
tàn khốc mà chiến tranh để lại. Chính những nỗi đau, sự mất mát quá lớn ấy đã
khiến cho các nhà thơ đã dám “nói thẳng, nói thật”, phanh phui, mổ xẻ những sự
thật ẩn nấp đằng sau của chiến tranh, những bi kịch về tinh thần lẫn thể xác của
con người, những đau thương mất mát, những hệ lụy mà chiến tranh mang lại cho
chúng ta.
2.2. Tình yêu chứa đựng nỗi buồn và cô đơn
Tình yêu đề tài muôn thuở của nhân loại. Thơ sau 1975 không tránh khỏi sự
bất di bất dịch ấy. Tình yêu là bản hòa tấu với những cung bậc cảm xúc: vui- buồn;
hạnh phúc- đau khổ….Đó là những cặp mâu thuẩn.
Tình yêu trong thơ sau 1975 luôn chất chứa nỗi buồn và sự cô đơn. Điều đặc
biệt hơn, sự cô đơn và buồn đó được thể hiện nhiều qua những vần thơ của những
nhà thơ nữ: Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh…
Chính vì tình yêu quá đắm say và một khao khát yêu nên ở họ có biểu hiện trên.

Cái cô đơn lạc lõng dường như thành cảm giác thường trực trong thơ:
Em chết trong nỗi buồn
Chết như trong giọt sương



15

Em chết trong nỗi buồn
Chết lặng thầm âm ỉ đớn đau
Trời cho em nụ cười thật tươi
Ai biết sau nụ cười
Giọt nước mắt về đâu?
(Tặng nỗi buồn riêng – Lâm Thị Mĩ Dạ)

Đó là nỗi chờ chồng của người phụ nữ Việt Nam qua nghìn năm vận nước
chiến chinh, đó cũng nỗi niềm của chính người thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trong những
ngày sắp thống nhất. Nhưng không có nỗi cô đơn và đơn thân của ốc đảo trong thơ
chị:
“Những ngày vắng xa
Trong giấc mơ em
Giọng nói anh chập chờn lửa cháy
Anh ngã xuống rồi anh đứng dậy
...
Nhưng em tin anh không chết bao giờ”
(“Cô gái trong ca dao”, Lệ Thuỷ, 1975)


16


Cô đơn, đơn độc và li thân. Người thơ trở thành người độc thân bi thảm và
thách đố giữa đời. Phải chăng vì thế, lần đầu tiên trong thơ chị xuất hiện bóng dáng
ẩn dụ về người đàn ông cuồng nhiệt:
“Bất ngờ
Tôi chìm trong mưa
Mưa Sài Gòn
Lời tỏ tình cuồng nhiệt
Ào ào chảy
Cuộn trôi như thác

Trời nặng trĩu
Lồng ngực đàn ông
Vỡ oà
Yêu
Yêu
Yêu ...”
(Mưa Sài Gòn).
Cái khao khát thoáng tắt, nhà thơ quay lại nhận thức về chính mình, về sự
nối tiếc: “Tôi thiếu phụ không làm sao trôi được / Chợt tiếc thời thiếu nữ chẳng


17

gặp mưa” (Mưa Sài Gòn). Thế thì còn biết trách ai nữa? Chính nhà thơ đã tự thú
với bạn đọc về nỗi cô đơn.
Từ Lâm Thị Mỹ Dạ chúng ta dịch chuyển qua Xuân Quỳnh, chúng ta thấy
có sự đồng cảm học cùng có một nỗi nhớ mãnh liệt. Tình yêu trong thơ Xuân
Quỳnh thường song hành cùng nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh thường
xuyên, da diết đến cồn cào:
“…Ở đây chưa bao giờ biết rét

Chỉ mình em nghe rét nhớ về anh…
Thương màu cúc giữ đông vàng rạo rực
Đêm phương nam em thức nhớ về anh.”
(Nghe rét đến nhớ về Hà Nội)
Tình yêu đến với Xuân Quỳnh rồi lại đổ vỡ nhưng từ trong nỗi đau đó nhà
thơ cho mình một niềm mơ ước sống mạnh mẽ, một khao khát yêu hơn:
“Niềm mơ ước gửi vào trang viết
Nỗi đau buồn dồn xuống đáy tâm tư
Em yêu anh hơn cả thời xưa
(Cái thời tưởng chết vì tình ái)
(...)
Em biết quên những chuyện đáng quên
Em biết nhớ những điều em phải nhớ


18

Hoa cúc tím trong bài hát cũ
Dẫu vẫn là cung bậc của ngày xưa
Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ
Nhưng đâu phải là điều em luyến tiếc.”
(Có một thời như thế)
Trong thơ Hoàng Hữu, còn là nỗi xót xa của hai nửa vầng trăng chẳng bao
giờ đến được với sự viên mãn tròn đầy:
Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi
Trăng say đắm dào trên cỏ ướt
Trăng đầu tháng như đời anh chẳng thể nào khác được
Trăng cuối tháng như đời anh hao khuyết
Em đã khóc
Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát

Em đã khóc
Nhưng làm sao tới được
Bến bờ anh tim dội sóng không cùng
( Hai nửa vầng trăng – Hoàng Hữu)
Bài thơ như lột tả hết tâm tình của lòng người, tình yêu không trọn vẹn làm
cho sự khao khát hạnh phúc viên mãn càng xa tầm với, chua xót biết bao!


19

Sự hy vọng, khát khao qua hai nhà thơ tô đậm, làm nổi rõ cho chúng ta thấy
cô đơn và nỗi buồn trong tình yêu: nỗi buồn vì nhớ chồng; nỗi buồn vì tan vỡ hạnh
phúc… Đó cũng chính là tâm trạng của Nguyễn Khoa Điềm trong Có một ngày
đến một sự thật anh đã mất em của Nguyễn Duy với Tình ca cho người ly hôn.
Thậm chí càng sâu sắc hơn với tứ thơ của Nguyễn Thị Kim Quy ở hai lần đánh
mất: Khi chia tay- Ta đã mất nhau rồi - Đâu có nghĩ lại còn lần mất nữa - Lần mất
sau nỗi đau hơn dao cứa - Em đánh mất mình - Anh vĩnh viễn mất em. Đó chính là
tâm trạng chung của những sự đổ vỡ.
Trong thế hệ nhà thơ trẻ, nỗi buồn và sự cô đơn trong tình yêu thể hiện rất
rõ. Với Vi Thùy Linh tính dục trong thơ là một biểu hiện của tình yêu trọn vẹn. Nó
còn được coi là phương thức hóa giải sự cô đơn luôn chực chờ trong tâm trạng của
nhân vật trữ tình:
Có ai biết. em đã dịu dàng và nồng cháy bên anh
Có ai biết. đêm nay, em mong anh đi qua dù chỉ vô tình
quệt vào em như que diêm chạm lửa!
(Người đêm khuyết)
Tình yêu trong thơ Linh là một thứ tình yêu không bao giờ đạt đích, một thứ
tình chưa tìm tới bến, mà càng lao vào, càng mù mịt đơn côi:
Em như mùa thu đi
Lá vàng theo lối tóc

Anh mong đến Xuân gần nhất
Mưa mọc theo theo đường cây


20

Khu vườn không bao giờ câm tiếng nữa...
Hãy giấu em vào cơ thể Anh!..
(Cất giấu).
Đây là nỗi đau cất giấu âm thầm trong tâm não, sự khẳng định này chỉ là
phương cách để tâm hồn đứng yên trong bão tố.
Tình yêu đưa đến cho con người niềm tin nhưng cũng đưa đến cho con
người sự hụt hẫng. Chiến tranh đi qua tình yêu trong thơ hiện lên rõ nét, nơi đó con
người thể hiện hương vị tình yêu của mình. Cuộc sống luôn thay đổi nên tình yêu
thể hiện thứ tình cảm nhiều “ngôn từ”. Thơ sau 1975 mang hương vị tình yêu,
trong đó vẫn có sự ngọt ngào sự tươi trẻ nhưng theo tôi từng đó vẫn chưa đủ để che
lấp phần “đắng”, sự u buồn, nỗi cô đơn xuất hiện trong thơ. Đúng vậy, tình yêu
luôn đa màu đa sắc, có lúc hạnh phúc tưởng chừng vô tận nhưng có khi lại đau đớn
khôn nguôi. Yêu người người phụ tình ta, hai ta yêu nhau mà không thể đến được,
hay trong tình yêu đắm say đó nhưng vẫn không thấy thỏa mãn… Đề tài tình yêu
đã thu hút rất nhiều cây bút trẻ như: Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, Dư Thị
Hoàn, Nguyễn Duy,…Họ đều là những tác giả nhạy cảm với cuộc đời, luôn mang
trong mình nỗi băn khoăn, lo lắng vì thế trang thơ cũng đậm nỗi buồn, nỗi cô đơn.
2.3.Triết lí, suy tư của con người trong sự vận động xã hội
Quay trở về với cuộc sống đời thương, con người không chỉ đối diện với nỗi
lo cơm áo mà phải trăn trở với chính mình để tìm lại bản ngã trước sự đổi thay
nhanh chóng của thời đại. Mất đi cảm giác bình yên mà thay vào đó là nỗi âu lo,
nỗi buồn nhân thế là xúc cảm chung của thơ ca giai đoạn này. Thơ sau 1975 hướng
ngòi bút vào thế sự chiêm nghiệm về đời người, sự được mất, có không giữa cuộc
sống này. Tố Hữu nhà thơ cách mạng đã từng cất cao tiếng hát với âm giọng hòa



21

sảng ca ngợi tổ quốc, nhân dân trong thời chiến thì giờ đây khi trở về với đời sống
thường nhật bao gương mặt của cuộc đời được phơi bày rõ nét đã khiến nhà thơ
xót xa:
Mới bình minh đó đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn
(Một tiếng đờn)
Đau trước cuộc đời, thất vọng vì sự thật không như những điều trông đợi đã
hằn sâu thêm vết thương tâm hồn thế hệ trực tiếp chiến đấu. Lúc này khi bom đạn,
dáo mác của quân thù không còn nữa thì bao người lính vẫn “bị thương” trong
chính ngôi nhà của mình:
Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn
Bắn tiếp vào anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả,
Vẫn anh
(Phùng Khắc Bắc- Ngày hòa bình đầu tiên)
Nhìn cuộc đời đổi thay không ngừng, bao giá trị tinh thần dạo đức dần mai
một theo nhịp sống mới; nhiều nhà thơ đã đặt ra câu hỏi dành cho cuộc đời, con


22

người rồi tự vấn chính bản thân mình. Bài thơ Hỏi của nhà thơ Hữu Thỉnh đã đặt ra

câu hỏi lớn cho xã hội loài người. Liệu trong thời kinh tế thị trường, lo chạy theo
vật chất tầm thường thì con người ta có còn chữ tâm, chữ đức trong nhau. Lặp câu
hỏi ba lần mà không có lời hội đáp càng thấy rõ nỗi niềm đau đáu trong lòng tác
giả, phải chăng tác giả muốn dành câu trả lời cho mỗi chúng ta:
Tôi hỏi người:
-

Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:
-

Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:
-

Người sống với người như thế nào?

Số lượng những câu hỏi đưa ra cho thiên nhiên và con người bằng nhau,
giống nhau về nội dung, nhưng nếu thiên nhiên đồng vọng, trả lời từng câu hỏi, thì
Con Người, ngược lại, không có câu trả lời. Tại sao lại như vậy? Liệu tác giả đang
muốn nhắc nhở, muốn con người tự nhận thức lại, nhìn lại mình, nghĩ về người, về
đời, còn câu trả lời nằm ở mỗi người?
Nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng xót xa trước cảnh đời nhiêu khê những thú vui
tầm thường làm người ta quen đi những giá trị nghệ thuật chân chính trong đời:
Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh
Nỗi buồn chân thành đời không nhận ra sao
(Anh đã mất chi anh đã được gì)



23

Không chỉ thế hệ đi trước từng cầm súng chiến đấu mới có suy tư trăn trỡ
trước cuộc đời mà nhiều nhà thơ đại diện cho thế hệ trẻ cũng nhìn cuộc sống này
bằng đội mắt suy tư, trầm buồn:


24

KẾT LUẬN
Ra khỏi cuộc sống chiến trận, trở về với cuộc sống đời thường với bao nhiêu
lo toan vụn vặt, cơm áo gạo tiền. Con người bây giờ không còn là con người sử thi
hào hùng, mang tầm cỡ lý tưởng nữa mà giờ đây, con người chỉ là một cá thể trong
cộng đồng rộng lớn, bao quanh bởi vô vàn cá thể khác. Thơ ca lúc này là tiếng nói
cá nhân, đi sâu vào thế giới nội tâm với những trăn trở đến giày vò giữa cái được
và sự đổ vỡ, giữa lý tưởng với hiện thực mưu sinh trần trụi.
Đọc thơ sau 1975, đến với những nỗi buồn, sự cô đơn ta dường như cảm
nhận được cuộc sống một cách chân thực nhất, đời thường nhất với những thanh
âm đa sắc màu đúng như cuộc sống vốn có: có yêu thương, có nhung nhớ, khao
khát mãnh liệt; có nỗi buồn, nỗi cô đơn và những âu lo thường trực trong bản thân
con người; lại có khi con người muốn trở về với cõi hư vô, huyền ảo thực thực –
hư hư để khám phá cuộc sống, nhân tình thế thái…


25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Bá Hán- Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi, 2010, Từ điển thuật ngữ Văn học,

Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Nguyễn Văn Long (chủ biên), 2007, Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập
2, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
3. />4. />

×