Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Ngô Thị Bích Hồng

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH TỰ LỰC CHO TRẺ
MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG
VAI THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG MẦM NON

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Ngô Thị Bích Hồng

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH TỰ LỰC CHO TRẺ
MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG
VAI THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG MẦM NON
Chuyên ngành: Giáo dục học ( Mầm non)
Mã số: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Trương Thị Xuân Huệ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013




LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau Đại học, thư
viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trương Thị Xuân Huệ, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn
này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với các thầy, cô giáo khoa Giáo
dục mầm non, những người đã truyền cho tôi tri thức khoa học.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu cùng các giáo viên các trường: MN Rạng Đông
10, MN Rạng Đông 5A, Rạng Đông 3, Rạng Đông 7, Rạng Đông 2 đã nhiệt tình cộng
tác, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi khảo sát để hoàn thành luận văn này.
Xin được cảm ơn các bạn học viên cao học lớp Giáo dục mầm non Khóa 22 đã
quan tâm chia sẻ, động viên tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Xin được cảm ơn những người thân, đồng nghiệp và bạn bè đã tiếp thêm sức
mạnh tinh thần và đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã
cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn !
TP.Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013
Tác giả
Ngô Thị Bích Hồng

1



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện, các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong công
trình nghiên cứu nào.
Tác giả
Ngô Thị Bích Hồng

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................................7
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ..............................................................................8
5. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................................8
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ...................................................................................8
7. Biện pháp nghiên cứu .....................................................................................................8
8. Những đóng góp mới của đề tài .....................................................................................9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH TỰ LỰC
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO
CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG MẦM NON ......................................................................... 10
1.1. Lịch sử nghiên cứu vần đề .......................................................................................10
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới .................................................................................10
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................................................12

1.2. Lý luận về tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường Mầm non ...................13
1.2.1. Lý luận về tính tự lực ............................................................................................13
1.2.2. Sự phát triển tính tự lực trong hoạt động vui chơi ................................................23
1.3. Lý luận về biện pháp giáo dục tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò
chơi đóng vai theo chủ đề .................................................................................................35
1.3.1. Khái niệm về biện pháp, phương tiện ...................................................................35
1.3.2. Biện pháp giáo dục tính tự lực ..............................................................................35
1.3.3. Biện pháp giáo dục tính tự lực trong trò chơi đóng vai theo chủ đề .....................36

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH
TỰ LỰC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI
THEO CHỦ ĐỀ Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON TRONG QUẬN 6 ............ 40
2.1. Khái quát về quá trình tổ chức nghiên cứu điều tra thực trạng ...........................40
2.1.1. Mục đích điều tra thực trạng .................................................................................40
2.1.2. Đối tượng điều tra: ................................................................................................40
3


2.1.3. Phương pháp điều tra ............................................................................................40
2.2. Kết quả điều tra thực trạng ......................................................................................44
2.2.1. Nhận thức của giáo viên mầm non về tính tự lực và biện pháp phát triển tính tự
lực ....................................................................................................................................44
2.2.2. Thực trạng giáo viên sử dụng biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề .........................................................................49
2.2.3. Đánh giá mức độ phát triển tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi
đóng vai theo chủ đề ........................................................................................................55

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT VÀ TỔ CHỨC THỬ NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÁO DỤC TÍNH TỰ LỰC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ
CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG MẦM NON ........................... 60

3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp: ..........................................................................................60
3.1.1. Cơ sở thực tiễn: .....................................................................................................60
3.1.2. Cơ sở lý luận: ........................................................................................................60
3.1.3. Xây dựng một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo lớn trong trò
chơi đóng vai theo chủ đề................................................................................................61
3.1.4. Sự phối hợp giữa các số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo lớn trong
trò chơi đóng vai theo chủ đề ..........................................................................................69
3.1.5. Điều kiện thực hiện các biện pháp giáo dục tính tự lực trong trò chơi đóng vai
theo chủ đề của trẻ mẫu giáo lớn:....................................................................................70
3.2.Tổ chức thử nghiệm: ..................................................................................................71
3.2.1. Mục đích thử nghiệm: ...........................................................................................71
3.2.2. Nội dung thử nghiệm: ...........................................................................................72
3.2.3. Tiến hành thử nghiệm: ..........................................................................................73
3.3. Phân tích kết quả thử nghiệm ..................................................................................74
3.3.1. Kết quả đo trước khi thử nghiệm ..........................................................................74
3.3.2. Kết quả đo sau khi thử nghiệm: ............................................................................77

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 89
PHẦN PHỤ LỤC ....................................................................................................... 94

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải có những con người
độc lập, năng động sáng tạo, có trình độ khoa học công nghệ cao cùng với những phẩm chất
nhân cách phù hợp để có khả năng sáng tạo và áp dụng công nghệ hiện đại vào cuộc sống và
trong sản xuất. Để đạt được điều đó thì giáo dục là một trong những nhân tố cơ bản nhất

đảm bảo cho sự phát triển những con người như vậy.
* Về lý luận:
Tính tự lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi.
Giáo dục mầm non là cơ sở và nền tảng cho quá trình hình thành nhân cách của trẻ.
Giáo dục trẻ tính tự lực cũng là góp phần hình thành nền tảng nhân cách con người mới đáp
ứng nhu cầu xã hội ngày càng phát triển, với những phẩm chất: chủ động, linh hoạt, tự tin,
tự lực, năng động và sáng tạo, dễ thích ứng với sự thay đổi và nhịp điệu phát triển của xã
hội.
Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nhu cầu tự khẳng định mình phát triển rất mạnh mẽ, trẻ luôn
muốn tự mình thực hiện những công việc vừa sức trong tất cả các hoạt động trong sinh hoạt
hàng ngày, tự mình lập kế hoạch cho các hoạt động chơi. Nếu chúng ta không tạo điều kiện
hình thói quen tự lực cho trẻ trong hoạt động thì việc giáo dục trẻ sau này sẽ gặp nhiều khó
khăn và hiệu quả giáo dục không cao. Tính tự lực có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành
nhân cách của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, thể hiện ở một số mặt như sau:
Tính tự lực là điều kiện phát triển sự tự ý thức và nhu cầu khẳng định của trẻ: Tính
tự lực xuất hiện ở trẻ thể hiện nhu cầu muốn hành động độc lập, để khẳng định mình. Trong
quá trình tự lực, con người thể hiện bản thân mình, thể hiện những ước vọng và khả năng
sáng tạo. Tính tự lực tạo điều kiện phát triển trí tuệ, xúc cảm của trẻ: Trong những năm gần
đây, ở nhiều nước phương Tây, người ta quan tâm nghiên cứu đến vấn đề xúc cảm của con
người, đặc biệt cho lớp trẻ. Hiện nay người ta chứng minh được rằng trí thông minh xúc
cảm có vai trò to lớn cho những thành tích xuất sắc, sự thăng tiến nghề nghiệp trong cuộc
đời mỗi con người.

5


Tính tự lực ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hình thành những chuẩn mực và hành
vi đạo đức của trẻ:
Trẻ mẫu giáo lớn thường lĩnh hội chuẩn mực và quy tắc hành vi như là những thước

đo để đánh giá người khác và đánh giá bản thân. Tính tự lực sẽ điều chỉnh hành vi của trẻ
cho phù hợp với chuẩn mực và quy tắc xã hội, từ đó mà hành vi của trẻ mang tính chủ động
rõ nét hơn.
Tính tự lực liên quan trực tiếp đến quá trình phát triển tính tích cực sáng tạo của trẻ:
tính tự lực liên quan chặt chẽ đến tính tích cực. Tính tích cực và tính tự lực là hai tính cách
có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của trẻ. Bên cạnh đó, tính sáng tạo
cũng có liên quan đến tính tự lực. Những trẻ sáng tạo, có nhiều cách hoạt động mới riêng
biệt.
Tính tự lực thúc đẩy nhanh quá trình chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1: Trong quá trình học
tập, để chiếm lĩnh tri thức khoa học đòi hỏi học sinh lớp 1 phải biết cách làm việc một cách
tự giác, độc lập, . . Điều đó đòi hỏi trẻ phải có tính tự lực cao. Tính tự lực sẽ giúp trẻ có tính
chủ động, bền bỉ, và sự nổ lực của ý chí trong quá trình hoạt động: tuân theo nội quy của
nhà trường và thực hiện những yêu cầu của giáo viên hay của tập thể lớp đề ra. Về thực tiễn:
* Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân và mục tiêu
trong chương trình giáo dục mầm non năm 2009 đã xác định “Cần phát triển một số giá trị,
nét tính cách phẩm chất cần thiết phù hợp của lứa tuổi như : mạnh dạn, tự tin, tự lực, sáng
tạo, linh hoạt, tự giác. Tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị cho
việc học tập ở lớp 1 và các bậc học sau này có kết quả . . .” Chính ở đây khẳng định, việc
giáo dục và hình thành tính tự lực cho trẻ nói chung và cho trẻ mẫu giáo nói riêng là rất cần
thiết.
Bên cạnh đó, trong bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi có đề ra các chỉ số 5, 16, 31, 33, 43,
118, 119 về tính tự lực như sau: chủ động làm một số công việc đơn giản hàng ngày, chủ
động giao tiếp với bạn, thực hiện một số công việc theo cách riêng của mình, thể hiện ý
tưởng của bản thân thông qua các hoạt động, . . .
Đồng thời, năm học 2012 – 2013 là năm mà Phòng Mầm non của Sở Giáo dục và
Đào tạo TP.HCM chọn Hoạt động vui chơi là chuyên đề trọng tâm, và chú trọng đến góc
phân vai (hay còn gọi là trò chơi đóng vai theo chủ đề). Trong đó có đưa ra các tiêu chí đánh
giá trẻ, và một trong những tiêu chí đó là khả năng tự lực của trẻ trong trò chơi.
6



* Thực tế ở nước ta hiện nay, vấn đề giáo dục tính tự lực cho trẻ chưa được quan tâm
đầy đủ, đặc biệt việc hình thành tính tự lực cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi còn hạn
chế, giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành phẩm chất này, vì vậy khi tổ chức
hoạt động vui chơi cho trẻ giáo viên thường áp đặt trẻ chơi theo ý tưởng của mình, trẻ
thường xuyên bị động bởi sự tác động không đúng lúc của giáo viên, nhiều khi giáo viên
thường đoán trước ý định của trẻ, thường làm thay trẻ, chưa có những biện pháp hữu hiệu
nhằm tác động để hình thành tính tự lực cho trẻ, do đó làm mất đi tính tự lực, sự tự tin của
trẻ trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, bản thân trong quá trình đứng lớp dạy trẻ gặp
nhiều khó khăn trong vấn đề giáo dục tính tự lực cho trẻ và luôn mong muốn thực hiện tốt
nhiệm vụ này.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu vấn đề “Biện pháp giáo dục
tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề ở trường Mầm
non”.

2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò
chơi đóng vai theo chủ đề ở trường mầm non.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về biện pháp phát triển tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-

3.1.

6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề ở trường Mầm non.
Khảo sát thực trạng

3.2.
-


Biểu hiện tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo
chủ đề.

-

Biện pháp mà giáo viên dạy lớp lá sử dụng trong quá trình giáo dục tính tự lực
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề tại một số trường
Mầm non TP. HCM.

3.3.

Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề.

7


3.4.

Tiến hành thử nghiệm sư phạm một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề để kiểm nghiệm hiệu quả
các biện pháp đó.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo
chủ đề ở trường mầm non.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Biệp pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo
chủ đề ở trường mầm non.


5. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu giáo viên ứng dụng các biện pháp phù hợp nhằm giáo dục tính tự lực cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề thì tính tự lực của trẻ trong các trường
mầm non sẽ phát triển tốt hơn.

6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
-

Xem xét biện pháp giáo dục tính tự lực trong trò chơi đóng vai theo chủ đề, không
xem xét hệ thống biện pháp tổ chức hoạt động vui chơi trong trường mầm non.

-

Đề tài thực hiện tại các trường mầm non trong Quận 6 - Thành phố Hồ Chí Minh:
+ 60 trẻ lớp lá ở trường Rạng Đông 10 và Rạng Đông 5A
+ 30 giáo viên trực tiếp dạy lớp lá ở trường Rạng Đông 5A, Rạng Đông 10, Rạng

Đông 3, Rạng Đông 7, Rạng Đông 2 ( 14 lớp lá )
-

Đề xuất biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trò chơi
đóng vai theo chủ đề.

7. Biện pháp nghiên cứu
7.1.

Biện pháp nghiên cứu lý luận

Hệ thống hóa các khái niệm “Hoạt động vui chơi”, “Trò chơi đóng vai theo chủ đề”,

“Tính tự lực”, “Tính tự lực trong hoạt động của trẻ”, “Tính tự lực trong hoạt động vui chơi”,
“Tính tự lực trong trò chơi đóng vai theo chủ đề”, “Biện pháp”.
8


Làm rõ các lý luận về “Đặc điểm phát triển tính tự lực ở trẻ em”, “Đặc điểm tính tự lực
của trẻ 5-6 tuổi”, hệ thống hóa một số biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi trong hoạt trò chơi đóng vai theo chủ đề..
7.2.

Biện pháp nghiên cứu thực tiễn

o Biện pháp quan sát:
- Quan sát những biểu hiện tính tự lực của trẻ mẫu giáo lớn trong trò chơi đóng vai
theo chủ đề.
- Quan sát biện pháp giáo dục tính tự lực trong quá trình tổ chức trò chơi đóng vai theo
chủ đề của giáo viên lớp lá đối với trẻ mẫu giáo lớn .
o Biện pháp điều tra: điều tra bằng phiếu hỏi để làm rõ nhận thức của giáo viên
dạy lớp lá về các biện pháp giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo lớn trong quá trình tổ chức
trò chơi đóng vai theo chủ đề.
o Biện pháp thử nghiệm sư phạm: sử dụng các biện pháp giáo dục tính tự lực ở trẻ
5-6 tuổi trong quá trình tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề.
o Biện pháp thống kê toán học:
- Tỉ lệ % trẻ có tính tự lực ở các mức độ phát triển khác nhau trong trò chơi đóng vai
theo chủ đề trước và sau thử nghiệm.
- Tỉ lệ % giáo viên sử dụng các biện pháp giáo dục tính tự lực trong quá trình tổ chức
trò chơi đóng vai theo chủ đề ở lớp Mẫu giáo lớn.

8. Những đóng góp mới của đề tài
Hai thang đánh giá biểu hiện tính tự lực của trẻ 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo

chủ đề.

9


CHƯƠNG 1: CƠ

SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍNH

TỰ LỰC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI
ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Lịch sử nghiên cứu vần đề
Vấn đề giáo dục tính tự lực cho trẻ từ lâu đã được các nhà tâm lý học và giáo dục học
quan tâm nghiên cứu bằng các biện pháp và biện pháp khoa học khác nhau. Nhưng tất cả
đều cùng chung một quan điểm là khẳng định vai trò quan trọng của tính tự lực đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách con người.
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1.Theo các nhà tâm lý học
Các nhà tâm lý học xem tính tự lực như là nét đặc trưng của nhân cách. Tiêu biểu là
các công trình nghiên cứu của các tác giả như: L.I.Kaplan, T.I.Ganhelin, Venghenr,
A.A.Xơmirơnôp, E.I.Đơmitriev. Các tác giả đều khẳng định tính tự lực không tự nhiên mà
có, những tư chất tự nhiên của con người chỉ là những điều kiện cần thiết cho việc hình
thành tính tự lực dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của người lớn.
Trong tác phẩm tâm lý học của Vengher đã đưa ra khái niệm tính tự lực “là khả năng
suy nghĩ hành động không dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài” [46 , trang 8]
Theo tác giả T.I.Ganhelin, A.A.Xơmirơnôp, E.I.Đơmitriev, tính tự lực chỉ thể hiện
một cách thực sự trên cơ sở đã có những hiểu biết, kỹ năng nhất định và biết vận dụng
chúng vào những tình huống mới. Tính tự lực được thể hiện thông qua hành vi của con
người trong các mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh. [30]
Trong tác phẩm “Gieo rắc thói quen – gặt hái tính cách” của L.I.Kaplan đã đưa ra

những quan điểm tính tự lực là một nét tính cách của nhân cách. Muốn hình thành nó phải
giáo dục cho trẻ thói quen hành động, suy nghĩ một cách độc lập, không ỷ lại vào người
khác.
T.I. Galina đề cập đến tính tự lực trong hành vi đạo đức. Theo tác giả, sự phát triển
của tính tự lực được hình thành trên cơ sở “Hình thức mới của tự ý thức”. Theo Galina, hình
thành và phát triển tính tự lực được thực hiện thông qua việc ý thức và đánh giá những hành
động của bản thân, quan hệ của bản thân với môi trường và những người xung quanh.
10


Một số nhà nghiên cứu gắn tính tự lực với các quá trình tâm lý như: tư duy ý chí, trí
nhớ, trong công trình của các tác giả: S.L. Rubinstein, T.I. Galina, I.U.A Đmitrieva. . .)
Theo các tác giả thì tính tự lực gắn chặt với ý chí và xem nó như một cấu trúc phức tạp,
nhưng khi đã hình thành thì tồn tại như một phẩm chất có tính cách bền vững và không thay
đổi.
S.L. Rubinstein nghiên cứu tính tự lực trong mối quan hệ với nhiệm vụ đặt ra. Theo
ông, tính tự lực gắn chặt với tư duy. Vì vậy giáo dục tính tự lực cho trẻ đòi hỏi trẻ phải biết
vận dụng những kiến thức , kỹ năng đã có vào tình huống mới.
1.1.1.2.Theo các nhà giáo dục hiện đại
T.I. Galina, R.G.Nhetrave, K.D.Usinxki, T.Guscova, quan tâm nghiên cứu quá trình
hình thành và phát triển tính tự lực ở trẻ nhỏ. Các tác giả đều khẳng định vai trò của người
lớn trong việc phát triển tính tự lực ở trẻ, đồng thời họ cũng nhận định rằng lao động của trẻ
có vai trò hết sức quan trọng đối với việc hình thành và phát triển tính tự lực. [10]
Khi nghiên cứu về tính tự lực trong mối quan hệ với lao động, T.I. Galina đã nghiên
cứu các hành vi của trẻ trong lao động và thấy được mối quan hệ tích cực đối với lao động
được phát triển ở mức độ cao khi kết quả lao động mang tính tự lực sáng tạo. Chính vì vậy
cần phải tạo điều kiện cho trẻ độc lập thực hiện những nhiệm vụ lao động vừa sức, tự đặt
nhiệm vụ và tìm cách thực hiện nhiệm vụ.
Nhiều nhà giáo dục học đã quan tâm đến sự hình thành tính tự lực của trẻ lứa tuổi
nhỏ, như: T.Guscova, A.A.Liublinxkaiai, K.D.Usinxki, Acxarina....trên cơ sở nghiên cứu

đặc điểm tính tự lực của trẻ nhỏ, tác giả đã khẳng định sự giúp đỡ tế nhị, đúng mức của
người lớn thông qua hoạt động với đồ vật và vui chơi, tính tự lực sẽ dần dần hình thành một
cách bền vững ở trẻ. [25, 26].
Từ kinh nghiệm thực tiễn, các nhà giáo dục học đã đề xuất nhiều biện pháp mới giáo
dục tính tự lực, như: tạo điều kiện hoạt động trải nghiêm, sử dụng các tình huống, giao
nhiệm vụ khó khăn cho trẻ để trẻ có thể nổ lực vượt khó. H.Pextalosi cho rằng: biện pháp
giáo dục tính tự lực hữu hiệu nhất là tạo điều kiện cho trẻ hoạt động trải nghiệm . “Hãy để
trẻ nhìn, trẻ nghe, cho trẻ khám phá. Hãy để cho trẻ ngã và tự đứng dậy để trẻ thử làm và
nếm trải cả những thất bại. Hãy để trẻ tự làm những gì trẻ có thể tự làm”. [11].
- Theo N.K.Krupxkaia, tính tự lực được hình thành ngay từ lứa tuổi mầm non. Bà
quan tâm đến sự hình thành và phát triển tính độc lập sáng tạo của trẻ thông qua trò chơi. Bà
11


nhấn mạnh, trò chơi giúp phát triển tính tự lực sáng tạo của trẻ nhiều hơn cả so với các dạng
hoạt động khác.
- Macarenco nghiên cứu tính tự lực của trẻ như nét đặc trưng nhất của thế hệ trẻ
trong môi trường hoạt động của chúng. Ông đặc biệt chú ý đến vai trò của trò chơi, đến các
giai đoạn khác nhau của trò chơi trong việc hình thành tính tự lực và phát huy mọi khả năng
của trẻ. [25]
Như vậy, các nhà tâm lý và giáo dục học đã đi sâu nghiên cứu bản chất của tính tự
lực, khẳng định rõ vị trí quan trọng của phẩm chất này trong cấu trúc nhân cách, sự thành
công trong việc hình thành và phát triển tính tự lực phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục và sự
giúp đỡ của người lớn đối với trẻ. Họ cũng khẳng định, muốn hình thành tính tự lực cho trẻ,
người lớn phải tạo điều kiện cho trẻ thực hiện những nhiệm vụ vừa sức và phù hợp với trẻ.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
- Tác giả Mai Ngọc Liên đã nghiên cứu một số biện pháp giáo dục tính tự lực của trẻ
24-36 tháng thông qua hoạt động tự phục vụ, và cho rằng “Ngay từ lứa tuổi còn rất nhỏ (2
tuổi) cần giáo dục cho trẻ tính tự lực bằng cách động viên khuyến khích trẻ, cho trẻ luyện
tập kỹ năng tự phục vụ, sử dụng các trò chơi, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tự phục vụ bản

thân và hoạt động tự phục vụ là phương tiện hữu hiệu nhất để giáo dục tính tự lực cho trẻ
lứa tuổi ấu nhi”. [25].
- Tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân cũng đã nghiên cứu một số biện pháp giáo dục tính
tự lực của trẻ 24-36 tháng trong hoạt động với đồ vật, qua đó kích thích và giáo dục tính tự
lực cho trẻ thông qua hoạt động với đồ vật.
- Tác giả Nguyễn Hồng Thuận cũng đã nghiên cứu một số biện pháp tác động của gia
đình nhằm phát triển tính tự lực cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Nguyễn Hồng Thuận đã đề xuất
và thực nghiệm có kết quả các nhóm biện pháp tổ chức hoạt động, hình thành ở trẻ kỹ năng
hoạt động một cách tự lực, nhóm biện pháp hình thành ý thức tự lực và nhóm biện pháp
kích thích hoạt động và điều chỉnh ứng xử của trẻ.
Như vậy, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về tính tự lực của trẻ mẫu
giáo, các tác giả đã khái quát hóa những vấn đề về lý luận, đề ra các biện pháp hữu hiệu
nhằm giáo dục phẩm chất này trong các hoạt động khác nhau.

12


1.2. Lý luận về tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường Mầm non
1.2.1. Lý luận về tính tự lực
1.2.1.1. Khái niệm về tính tự lực
Trong Tự điển tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên, định nghĩa về tính tự
lực như sau: Tự lực là tự sức mình làm lấy, không dựa dẫm nhờ vả người khác ( tự làm mọi
việc, tinh thần tự lực , tự cường ) [48, tr 1763 ].
Tự điển Việt – Anh ( tác giả Đặng Chấn Liêu và Lê Khả Kế ) giải thích:
+ “Tự lập” ( Independent ) có nghĩa là độc lập trong hành động
+ “Tự lực” ( Self-Reliant ) có nghĩa là tự lực cánh sinh bằng chính khả năng của mình
(reproach directed at one self )
Theo tự điển Anh – Anh của Nhà xuất bản Hồng Đức, Tự lực là “to be self reliant”:
reproach directed at one self: tự dựa vào sức mình.
Theo nghĩa phổ thông, tự lực, tự lập, độc lập là những từ cùng nghĩa đều chỉ hành

động không dựa vào người khác.
Các nhà tâm lý học Nga cho rằng: Tính tự lực – là nét tính cách của nhân cách, là
một mô tả tổng thể về nhân cách. Tính tự lực được nhiều nhà tâm lý xem là sự mộ tả chung
về khả năng tự điều khiển hoạt động, quan hệ, hành vi của nhân cách.
Tính tự lực theo nghĩa chung nhất mà chúng tôi tổng kết được – tính không lệ thuộc,
năng lực và xu hướng tự thực hiện hành động và hành vi khi không có sự trợ giúp của người
khác. Tính tự lực – hành động được con người tự thực hiện không có sự trợ giúp từ bên
ngoài;[68] năng lực tính toán thực lực của mình;[55] tính không lệ thuộc vào ý kiến của
những người xung quanh, tự do thể hiện cảm xúc và sáng tạo của mình;[68] kỹ năng quản lý
bản thân, thời gian và cuộc sống của mình nói chung"; "kỹ năng biết đặt ra những nhiệm vụ
chưa từng có và nỗ lực giải quyết";[68] hành động có trách nhiệm và sáng tạo nhưng không
chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, hành động được thực hiện bằng chính thực lực của mình và
không có sự trợ giúp từ những người xung quanh.
Người tự lực – người tồn tại độc lập khỏi những người khác, không chịu sự lệ thuộc,
sự phục tùng, tự do, riêng biệt so với người khác, tồn tại bằng thực lực của mình, không dựa
vào sự hỗ trợ của người khác.[55]

13


Tính tự lực - là khả năng tự điều khiển cuộc sống của những người muốn tự chịu
tránh nhiệm về cuộc sống của mình. Có khả năng làm cái mà chính mình vào chính thời
khắc đó muốn. Con người tự lực kiểm soát bản thân, mà không phải ai đó tác động vào.
Cho phép người khác cộng tác với mình. Tính tự lực giúp họ tự do lựa chọn: làm cái gì và
bằng cách nào?
Sẵn sàng chịu trách nhiệm trước sự tự do của mình, giải quyết vấn đề theo sự tính
toán của bản thân, chịu trách nhiệm trước sự lựa chọn của mình.
I.Kon cho rằng: tính tự lực là một phẩm chất nhân cách thể hiện sự không phụ thuộc
khả năng tiếp nhận và ra những quyết định quan trọng, sự sẵn sàng chịu trách nhiệm về
hành vi, sự tin tưởng rằng những hành vi của mình là đúng, có giá trị xã hội, có thể thực

hiện được và phù hợp với đạo lý.
Dưới thuật ngữ “tự lực” các nhà tâm lý học hiểu như một thành tố của năng lực của
nhân cách, và xem xét tỉ mỉ từ nhiều tiêu chí:
1. Năng lực xác định cơ sở của một hành vi nào đó, tức năng lực lựa chọn hành vi
(X. Rubistein);
2. Năng lực duy trì quan điểm riêng, kỹ năng giao tiếp với chính mình (R,
Kondratiev);
3. Năng lực độc lập phản ứng với những diễn tiến mang tính cấu trúc của hoạt động
(G. Sukina);
4. Năng lực lập kế hoạch, hệ thống hóa, điều khiển và tích cực thực hiện hoạt động
không cần sự chỉ dẫn và trợ giúp liên tục từ những người xung quanh (К.
Platonov);
5. Năng lực đối chiếu những mong muốn với khả năng của bản thân, đánh giá hợp
lý quá trình và kết quả hoạt động (L. oxtoveskaia).
6. Từ quan điểm thái độ, tính tự lực là thành tố khái quát nhất của thái độ của nhân
cách đối với việc thực hiện các nghĩa vụ của bản thân, đối với quá trình và với
kết quả hoạt động của bản thân (P. Vinogradova, L. Roxtovexkaia, М. Silova).
[74]
Tổng hợp lại tất cả các ý kiến trên, có thể nói ngắn gọn nhất, dưới thuật ngữ
“tính tự lực” chúng ta hiểu ở hai khía cạnh:
14


1. Tính chủ động riêng của bản thân trong việc ra quyết định, làm gì và làm như
thế nào, và thực hiện công việc không cần sự hỗ trợ từ bên ngoài.
2. Có trách nhiệm đầy đủ trước những quyết định, hành động và hành vi của bản
thân.
Các nhà giáo dục học đều khẳng định tính tự lực là phẩm chất ổn định của nhân cách,
có ý nghĩa rộng lớn đối với sự phát triển của đời người, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình
thành và phát triển nhân cách con người. Tính tự lực thể hiện ở sự hợp nhất những biểu hiện

cá nhân lên việc mục đích hóa, động cơ hóa bên trong các nguồn lực, phương tiện để thực
hiện các chương trình hành động đã lựa chọn, không có sự tham gia từ bên ngoài.
1.2.1.2. Đặc điểm phát triển tính tự lực của trẻ mẫu giáo

 Tính tự lực và hành động nội tâm hóa
Có hai mối quan hệ giữa khái niệm "Hành động nội tâm hóa" («интерпсихическое
действие») và "Hành động tự lực" («самостоятельное действие»): 1) Khi hành động đang
còn nội tâm hóa, khi quá trình nội tâm hóa chưa kết thúc, thì hành động không chưa thể là
hành động tự lực; 2) Con người có thể thực hiện hành động đang nội tâm hóa cùng với
người khác, hành động mà anh ta không thể thực hiện một mình. [68]
Điều này có nghĩa là hành động làm cùng với người khác, hành động đang nội tâm
hóa thì không phải là hành động tự lực, nhưng là tiền đề của hành động tự lực.
Có thể hiểu tính tự lực của trẻ như là năng lực hành động mà không có sự trợ giúp
của người lớn, như là phần kết của quá trình nội tâm hóa hành động đang được nội tâm hóa.
Trẻ trở nên tự lực khi đã lĩnh hội nội dung, phương tiện và phương thức hành động nhất
định. Sự tương tác mang tính nội tâm hóa giữa trẻ và người lớn hoàn thành sứ mệnh và kết
thúc. Tới đây hành động tự lực đồng nghĩa với hành động bên trong. Hành động đã được
nội tâm hóa là hành động bên trong và nếu được trẻ tự xuất tâm thì chính là hành động tự
lực.
Vì vậy muốn có hành động tự lực trẻ phải học hành động từ người lớn.
 Tính tự lực và sự lĩnh hội hành động
Tính tự lực – khái niệm mang tính chủ thể, khác nhau khi đánh giá cùng một hành
động. Trẻ ba tuổi cột được dây giày là có tính tự lực, như trẻ vị thành niên cột được dây giày
thì không được thừa nhận là tự lực. Anh ta chỉ được thừa nhận là có tính tự lực khi biết tự
viết một bài diễn văn và tự nấu ăn.
15


Nói cách khác, tính tự lực – không chỉ là kỹ năng thực hiện một hành động không có
sự trợ giúp từ bên ngoài, mà còn là năng lực lựa chọn cái vượt khả năng của mình, đặt ra

nhiệm vụ mới cho mình và tìm cách giải quyết. Khi hành động mới trở nên phù hợp với trẻ
thì thái độ của trẻ và của người lớn trước hành động đó cũng thay đổi,
Tính tự lực không phải lúc nào cũng được thừa nhận: hành động vừa được lĩnh hội
sẽ trở nên bình thường và thành thói quen, không còn làm cho những người xung quanh tán
thưởng nữa. Trẻ không còn thích hành động đó nữa và đi tìm hành động mới, vì kết quả
thực hiện hành động đó lại làm mọi người tán thưởng.
Tính tự lực không chuyển từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác và định vị giữa cái đã
được lĩnh hội và cái đang lĩnh hội – tại đây nó được ghi nhận trong ý thức của trẻ như một
phẩm chất đặc biệt, được trẻ tự thừa nhận và gây ra sự tán thưởng của những người xung
quanh.
Cảm giác đó lần đầu trẻ có được là lúc 2-3 tuổi, và là mốc phát triển đầu tiên của tính
tự lực.
 Tính tự lực và các quá trình tâm lý khác
Các nhà tâm lý – giáo dục học nghiên cứu về tính tự lực của trẻ ở lứa tuổi mầm non
như: N.M.Acxarina, B.G.Ananhiep, G.N.Gơdina, M.I.Lixina,. . . cho rằng: Giống như mọi
nét tính cách tính tự lực hình thành trên cơ sở các quá trình tâm lý khác nhau và tác
động lại chúng. Khi xem tính tự lực như thuộc tính tích hợp của nhân cách, các nhà nghiên
cứu hiện đại nhấn mạnh rằng: vai trò tích hợp của nó thể hiện trong sự thống nhất các biểu
hiện khác nhau của nhân cách thành một xu hướng chung hướng tới tích cực hóa toàn bộ
thực lực, nguồn nguyên liệu và phương tiện để thực hiện một chương trình hành động đã lựa
chọn là không cần sự trợ giúp.
Mức độ phát triển tính tự lực phụ thuộc vào sự phát triển của trẻ, phụ thuộc vào khả
năng thực hiện các hành động trí não và hành động thể chất đang lớn dần của trẻ. Vì vậy
biểu hiện của tính tự lực của trẻ nhỏ sẽ không giống trẻ MG lớn.
Tính tự lực liên quan chặt chẽ tới biểu hiện tích tích cực của cá nhân, ý chí, hành
động, trí tuệ và tình cảm. Muốn phát huy tính tự lực cần phải có kiến thức, kỹ năng, tự đặt
nhiệm vụ, kế hoạch hóa, niềm tin vào sức mạnh, khả năng tự điều khiển và kiểm tra bản
thân, sự nỗ lực của ý chí, tính tích cực tự giác, tính mục đích và tính kỷ luật. Vì vậy để trẻ
có thể tự lực nhất thiết phải phát triển trí tuệ, cảm xúc và ý chí cho trẻ.
16



Các chức năng tâm lý được hoàn thiện là điều kiện để tạo nền tảng nhân cách ban
đầu của con người, mà trong đó tính tự lực đóng vai trò quan trọng. Mặt khác, tính tự lực là
một trong những điều kiện quan trọng để nảy sinh tính sáng tạo và các thuộc tính tâm lý
khác.
Tính tự lực liên quan tới sự tích cực suy nghĩ, cảm xúc và ý chí. Mối liên hệ này
mang tính hai chiều:
1) Sự phát triển các quá trình trí não, cảm xúc và ý chí – là điều kiện không thể thiếu
của hành vì và nỗ lực tự lực; 2) Những phán đoán và hành động có trong hoạt động tự lực
không chỉ củng cố và hình thành năng lực giúp trẻ tiếp nhận những hành động có động cơ
có ý thức, mà còn nỗ lực thực hiện những quyết định có nhiều thử thách.[ 56] [57][71]
 Tính tự lực và các hoạt động khác nhau
Tính tự lực cũng như bất cứ phẩm chất nhân cách nào khác của nhân cách toàn vẹn
đều được hình thành, phát triển trong hoạt động và thông qua hoạt động của con người,
trong sinh hoạt cũng như trong giao tiếp với con người và thế giới xung quanh.
Các tác giả khẳng định, trẻ ở cuối độ tuổi nhà trẻ đã có biểu hiện tính tự lực và các
biểu hiện đó tiếp tục phát triển và chuyển hóa thành tính tự lực như một nét phẩm chất của
nhân cách trẻ ở cuối độ tuổi mẫu giáo. Tính tự lực cụ thể được biểu hiện trong hoạt động
của trẻ như: vui chơi, hoạt động học tập, lao động tự phục vụ, …
Mỗi loại hoạt động kể trên của trẻ đều có sự ảnh hưởng riêng đến sự tích cực của cá
nhân và khả năng chủ động, sự tìm tòi những phương thức giải quyết vấn đề, hình thành khả
năng tự kiểm tra, đánh giá những biểu hiện cơ bản của tính tự lực cũng như phẩm chất nhân
cách khác.
Tính tự lực – phẩm chất nhân cách luôn phát triển, những mầm mống đầu tiên của nó
được phát triển ở tuổi mẫu giáo. Những thông tin khoa học cho thấy: cuối tuổi mẫu giáo lớn,
trong điều kiện giáo dục và dạy học tối ưu trẻ có được những tiêu chí rõ nét của tính tự lực
trong các hoạt động khác nhau: trong trò chơi (N. Mikhailenco), trong lao động (М. Кrulext,
R. Bure), trong nhận thức (А Мchiukin, Z. Мikhailova, N. Paddiakov), trong giao tiếp (Е.
Кrasova, L. Аrtemova). [74]

Các nhà tâm lý Xô Viết nêu lên một số đặc điểm về tính tự lực của trẻ như sau:
Tính tự lực của trẻ không phải là hành vi tự phát mà đằng sau nó bao giờ cũng có vai trò
lãnh đạo và những yêu cầu của người lớn [26]. Sự hình thành tính tự lực ở trẻ trên thực tế là
17


dựa trên cơ sở thực hiện các thói quen, những định hình đã hình thành từ trước khi đáp ứng
những yêu cầu của người lớn.
Rõ ràng, tính tự lực không chỉ phát triển nhờ tiếp thu nội dung, phương tiện, phương
thức hành động. Theo М.I. Lixina thì tính tự lực, tính chủ động của trẻ có trong sự tương tác
giữa trẻ và người lớn là nhờ trẻ lĩnh hội được hình thức giao tiếp phù hợp với hành động đó
[60]. Khác với М.I. Lixina, người nghiên cứu giao tiếp như hoạt động trong đó người này là
đối tượng của người kia, chúng ta đang nói về giao tiếp trong hoạt động mà đối tượng của
nó là một lĩnh vực kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người— công cụ, ký hiệu, khái
niệm...(giao tiếp trong hoạt động nhận thức, hoạt động vui chơi…) Với nghĩa này, «giao
tiếp» cùng nghĩa với «hợp tác», «tương tác theo nội dung hoạt động» giữa trẻ và người lớn.
Thật đáng tiếc, các hình thức cụ thể của sự hợp tác trong các hoạt động khác nhau chưa
được mô tả đầy đủ. Nhưng các nhà nghiên cứu cũng đã khẳng định: có những hình thức hợp
tác khác nhau giữa trẻ và người lớn. Các nhà nghiên cứu chưa đưa ra đặc thù của từng hình
thức, nhưng cũng đưa ra được sự mô tả chung về các hình thức đó: Trẻ tự lực trong hợp tác
với người lớn để khảo sát đồ vật, vui chơi, học tập ở mức mà trẻ có thể chủ động lôi kéo
người lớn vào sự tương tác đó.
Khi xác định hai lối tiếp cận hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu tính tự lực của trẻ, các
nhà nghiên cứu đã xác định được hai nguồn gốc phát sinh hành động tự lực: 1) lĩnh hội nội
dung, phương tiện, biện pháp hành động, 2) lĩnh hội phương thức hợp tác với người lớn sao
cho phù hợp với hành động đó, chủ động trong tổ chức tương tác. Cần lưu ý: ở mức độ
hành động đang nội tâm hóa thì khía cạch thứ hai của tính tự lực xuất hiện trong hành vi của
trẻ sớm hơn khía cạnh thư nhất, tức giao tiếp đi trước sự lĩnh hội kiến thức và kỹ năng.
Cần lưu ý rằng, trẻ hoàn toàn chưa biết vẫn có thể chủ động tương tác với người lớn
trong hoạt động học tập, tỏ ra suy tư trước mọi vấn đề. Các nhà tâm lý đã thu thập được

những hiện tượng cho thấy tính chủ động của trẻ mẫu giáo thiếu hiểu biết và cho đó là đặc
điểm lứa tuổi của trẻ mẫu giáo.
Tính tự lực hình thành từ đâu? Tới một thời điểm nào đó tất cả các hành động của trẻ
đều đơn giản: bé trai đập bóng, vung chổi, bỏ đồ vật vào hộp. Những thao tác bắt chước đó
gọi là hành động “theo logic của sự vật”. Trẻ không suy nghĩ tại sao nó phải vung chổi, – nó
chỉ đơn giản làm hành động quen thuộc, không cần biết trong mỗi hành động có một ý
nghĩa: sau khi thực hiện hành động nhất định phải thu được một kết quả nhất định – sàn nhà
18


sạch. Chỉ khi trẻ biết xác định mục đích làm sạch sàn nhà và vì điều đó mà nó vung chổi, và
khi đó chúng ta nói: trẻ bước được bước đầu tiên đến tính tự lực, hành động “theo mục
đích”.
Tính mục đích của trẻ xuất hiện theo những ý tưởng nhất thời (không bền): giặt đồ
như mẹ, hoặc đóng đinh giống bố. Ở thời gian đầu không thành kỹ năng, không bền để củng
cố những hành động tự lực đó thì cần có sự hỗ trợ của người lớn. Nhưng phụ huynh thường
ngăn cản vì sợ tai nạn.
Nếu giúp đỡ trẻ hợp lý, thì trong hành động của trẻ sẽ có thành tố tự lực – tính mục
đích, xuất hiện mong muốn thu được kết quả nhất định. Đứa trẻ siêng năng, kiên trì, có tổ
chức. Sự thất bại không làm trẻ chùn bước, mà buộc trẻ nỗ lực hơn mà nếu cần trẻ có thể
tìm sự hỗ trợ từ phía người lớn.
Sự trợ giúp trẻ là điều kiện thiết yếu để phát triển tính tự lực. Trẻ từ chối sự trợ giúp
khi nó cảm thấy có thể tự làm được. Trẻ lĩnh hội thành tố thứ hai của tính tự lực – thực hiện
mục tiêu có định hướng (có trách nhiệm), trẻ kiên quyết không phụ thuộc vào người lớn, trẻ
có năng lực đối chiếu kết quả với “chuẩn”. Trẻ thường lĩnh hội được thành tố thứ hai này rất
sớm trong trò chơi, nhưng trẻ chưa đủ kinh nghiệm để tự giải quyết mọi tình huống. Người
có những kiến thức, người lớn, phải trợ giúp trẻ.
Từ 3,5 tuổi trẻ đã tự suy xét cái gì nên làm, cái gì xấu, trẻ biết xấu hổ. Năng lực này
là chức năng tự kiểm soát – mức độ hoàn thiện tính tự lực trong hoạt động với đồ vật. Khi
lĩnh hội năng lực tự lực lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hoạt động với đồ vật, ở mức độ

nào đó trẻ đã không phụ thuộc vào người lớn. Đây mới chỉ là bước đầu tiên đến tính tự lực
chín muồi.
Khi trẻ được 3-4 tuổi bắt đầu ý thức được “cái tôi” của mình. Trẻ rất thích bắt
chước người lớn, thích được hoạt động độc lập, có thói quen vượt qua khó khăn, hoàn thành
công việc. Trẻ tự mặc và cởi quần áo, tự thu dọn đồ chơi, đồ dùng, thực hiện các hành động
với đồ vật mà không cần sự giúp đỡ của người lớn. Tính tự lực được biểu hiện ra bên ngoài
qua hành vi tự phục vụ đã chuyển thành những dấu hiệu tự lực bên trong, trẻ phân biệt được
động cơ hoạt động của mình và của người khác. Tính tự lực của trẻ 3 - 4 tuổi thể hiện sự
không phụ thuộc vào người lớn trong quá trình hành động để thỏa mãn nhu cầu của bản thân
hoặc giải quyết nhiệm vụ trong điều kiện quen thuộc, những tình huống gần với điều kiện
sống của trẻ ( thay đổi ít ). Tính tự lực của trẻ thể hiện trong các hoạt động mà trẻ chiếm
19


lĩnh. A.A.Liublinxkaia cho rằng: Sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong hành động và sự
phát triển xu hướng xã hội đã hình thành nên nguyện vọng tự lực. Tính tự lực của trẻ 3-4
tuổi còn thể hiện khát vọng mới không trùng lắp với ý muốn của người lớn.[26].
Các nhà tâm lý đã chỉ ra các dạng hoạt động theo từng lứa tuổi, mà trong đó trẻ phát
triển tâm lý với cường độ cao nhất, và trở nên tự lực “theo lứa tuổi”: tuổi hài nhi – giao tiếp
tình cảm trực tiếp; tuổi âu nhi – hoạt động với đồ vật, mẫu giáo – hoạt động vui chơi, từ 7 14 tuổi – học tập, từ 14 - 18 tuổi – giao tiếp với bạn cùng lứa, từ 18 trở lên – tự chọn nghề
và lao động.
Khi thay đổi hoạt động chủ đạo của lứa tuổi, trẻ lại phải trải qua các mức độ phát
triển tính tự lực mới. Tính tự lực không dịch chuyển từ dạng hoạt động chủ đạo này sang
hoạt động chủ đạo khác.
Vai trò của người lớn trong sự phát triển tính tự lực của trẻ:
Mỗi người lớn có thái độ khác nhau với tính tự lực của trẻ. Thường có ba loại người
lớn:
1 Loại luôn xem trẻ nhỏ, thiếu tự vệ và phải lệ thuộc. Họ lo lắng khi trẻ ra khỏi nhà,
tự làm điều gì đó và khi «trẻ không cần đến họ», họ làm thay trẻ và áp đặt mong muốn và sở
thích của mình lên trẻ.

Lời khuyên dành cho họ: hãy để trẻ tự do… tự do lựa chọn, tự do thực hiện mong
muốn, vì trẻ thích như vậy.
2 Loại người lớn thích trẻ nhanh chóng trở thành người lớn. Họ buộc trẻ thực hiện
những hành động quá lứa tuổi. Trẻ thường gặp thất bại và xuất hiện những rối loạn tâm lý
đáng tiếc. Lời khuyên cho những phụ huynh này là: hãy trợ giúp trẻ.
3 Loại người lớn hiểu : cái gì trẻ làm được và cái gì nó không thể làm được. những
người này để trẻ tự do làm và động viên khi trẻ thất bại.
Tóm lại, vai trò của người lớn trong việc hình thành tính tự lực là: hãy để trẻ tự do,
đừng đòi hỏi quá mức, biết động viên khi trẻ thất bại.
1.2.1.3. Đặc điểm phát triển tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Đến tuổi mẫu giáo lớn, tính tự lực biểu hiện ở sự chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng tự
khẳng định mình trong tập thể, ở những dấu hiệu tự lực trên bình diện rộng và sâu hơn.
Những nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục mầm non chỉ ra rằng: Đến cuối tuổi mẫu giáo lớn,
20


trong những điều kiện giáo dục đảm bảo , biểu hiện tính tự lực của trẻ được thể hiện rõ nét
trong các hoạt động: vui chơi, lao động, học tập, giao tiếp, . . [18].
Tính tự lực được hình thành từ thực tiễn cuộc sống của trẻ, nó góp phần phát triển
nhân cách con người. Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tính chủ định của các quá trình tâm lý đã phát
triển mạnh mẽ, trẻ có khả năng tự lực trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời
sống xã hội. Chính ý thức về bản thân, nhu cầu muốn khẳng định mình là nguồn gốc làm
nảy sinh những ý muốn và hành động độc lập trong các hoạt động khác nhau.
Sự tự ý thức và nhu cầu khẳng định mình: Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nhu cầu tự khẳng
định mình phát triển rất mạnh mẽ, trẻ luôn muốn tự mình thực hiện những công việc vừa
sức trong tất cả các hoạt động trong sinh hoạt hàng ngày, tự mình lập kế hoạch cho các hoạt
động chơi. Nếu chúng ta không tạo điều kiện hình thói quen tự lực cho trẻ trong hoạt động
thì việc giáo dục trẻ sau này sẽ gặp nhiều khó khăn và hiệu quả giáo dục không cao.
Sự tự ý thức thể hiện rõ nhất trong việc trẻ tự đánh giá về mình, hiểu được mình là
người như thế nào, có những phẩm chất gì, những người xung quanh đối với mình ra sao và

tại sao mình có những hành động này hay hành động khác. [13]
Ở lứa tuổi này trẻ đã có động cơ muốn được tôn trọng và tự khẳng định mình, điều
này thể hiện rõ trong việc trẻ luôn muốn đóng vai chính trong các trò chơi, muốn chứng tỏ
mình đã lớn, đã có thể làm mọi việc.[37]
Khả năng ý chí: Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đã hình thành động cơ mang ý nghĩa xã hội,
hành động của trẻ hướng vào các quan hệ xã hội. Ở trẻ xuất hiện quan hệ phụ thuộc theo hệ
thống thứ bậc của các động cơ đối với bản thân trẻ, chính sự xuất hiện này có tác dụng giúp
trẻ vượt khó khăn nhằm đạt tới mục tiêuđã đề ra mà không bị kích thích bởi những động cơ
khác thấp hơn.[37].
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có khả năng so sánh kết quả đạt được với ý định ban đầu, đánh
giá sự phù hợp hợp giữa kết quả đạt được với kế hoạch đã định.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đã có khả năng nhận xét đánh giá và tự đánh giá những vẫn
còn hạn chế, đây cũng là một biểu hiện của tính tự lực.[37]
Khả năng sáng tạo: sự sáng tạo là hình thức cao nhất của tính tự lực.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi biểu hiện sáng tạo của trẻ rất phong phú và sinh động, đặc biệt
trong hoạt động tạo hình, vui chơi, kể chuyện….[37]
21


Trong hoạt động vui chơi, tính sáng tạo của trẻ được biểu hiện qua việc phát triển nội
dung chơi và hành động chơi, việc chọn đồ chơi thay thế, ….
 Một số hạn chế của tính tự lực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Trẻ có thể đánh giá sai năng lực của mình. Trẻ thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống, vì
vậy trẻ đánh giá sai năng lực của mình trong giải quyết các nhiệm vụ. Tính tự lực của trẻ
nhìn bề ngoài giống như quậy phá. Người lớn cần giải thích cho trẻ tại sao không nên làm
việc đó.
Sự sáng tạo có thể xuất hiện hoặc biến mất. Nói cách khác, nếu trẻ một lúc nào đó
làm một hành động sáng tạo nào đó, thì không nên cho rằng: trẻ sẽ tiếp tục sáng tạo. Người
lớn cần quyết định: trẻ có cần lúc nào cũng tự lực không? Nếu cần, thì phải «nhét vào đầu»
trẻ ý nghĩ: luôn phải làm không có sự trợ giúp từ bên ngoài, ngay cả khi nó không thể. Hãy

một lần thay đổi – nghĩ theo cách khác. Vì cách nghĩ này có thể gây xung đột với trẻ.
Hôm nay «sẵn sáng», ngày mai «không». Không nên chờ đợi trẻ luôn tự lực.
 Tiêu chí và mức độ phát triển tính tự lực ở trẻ mẫu giáo
Không nên đánh giá tính tự lực ở các lứa tuổi khác nhau, mức độ phát triển trí tuệ
khác nhau, mức độ phát triển tâm lý khác nhau, tầng lớp giai cấp khac nhau bằng một tiêu
chuẩn. Mỗi con người có một hoàn cảnh riêng, nếu đổi chỗ cho nhau thì đều có thể trở nên
thiếu tự lực.
Không thể có tiêu chí đánh giá duy nhất và tuyệt đối tính tự lực. Khái niệm tính tự
lực mang tính tương đối – tùy vào từng nhóm người trong xã hội, sẽ có những dấu hiệu khác
nhau về tính tự lực (nhân chủng, lứa tuổi hoặc học vấn). Ví dụ, ở trẻ ba tuổi đi mẫu giáo: tự
chuẩn bị đi dạo, tự mang giày, ngồi đợi. Nhưng cũng trẻ đó lại không độc lập trong giờ học
và giờ vẽ…
Mặt khác, vẫn tồn tại những tiêu chuẩn chung của tính tự lực theo từng lứa tuổi. Dựa
vào khả năng của trẻ theo từng lứa tuổi các nhà giáo dục đưa ra các mốc dạy tính tự lực.
Các nhà nghiên cứu đưa ra tiêu chí đánh giá mức độ phát triển tính tự lực của trẻ
mẫu giáo lớn:
-

Nỗ lực giải quyết nhiệm vụ hoạt động của mình mà không có sự trợ giúp của những
người xung quanh;

-

Kỹ năng xác định mục tiêu của hoạt động;

-

Kỹ năng lập kế hoạch sơ đẳng;
22



-

Kỹ năng thực hiện được ý tưởng và đạt được kết quả phù hợp với mục tiêu;

-

Năng lực chủ động và sáng tạo đạt được mục tiêu đề ra.[74]
Có ba mức độ phát triển tính tự lực:
Mức độ thứ nhất – khi trẻ hành động trong điều kiện quen thuộc, trong đó đã có

những thói quen cơ bản, không cần phải nhớ lại, không cần nhắc nhở và sự trợ giúp của
người lớn (tự thu dọn đồ chơi; tự rửa tay trước khi ăn; tự nói «Xin hãy» và «cảm ơn» khi
yêu cầu hoặc nhờ vả).
Mức độ thứ hai – trẻ tự sử dụng các phương thức hành động quen thuộc vào những
tình huống bất thường hoặc mới, nhưng vẫn tương tự và gần gũi với kinh nghiệm của trẻ...
Mức độ thứ ba - có sự chuyển dịch xa. Những quy tắc cơ bản của hành vi đạt được
mức khái quát và trở thành tiêu chí để trẻ xác định hành vi của mình trong tình huống xa lạ.
Tính tích cực chủ động của trẻ thể hiện ở mọi hình thức khác nhau của hoạt động và
giao tiếp và không vượt ra ngoài giới hạn quy định hành vi mà người lớn đưa ra.[61]
1.2.2. Sự phát triển tính tự lực trong hoạt động vui chơi
1.2.2.1.Khái niệm về hoạt động vui chơi của trẻ Mẫu giáo
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong quá trình chơi chứ
không nằm trong kết quả hoạt động, khi chơi đứa trẻ không chủ tâm vào một lợi ích thiết
thực nào cả, trong trò chơi các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội được mô
phỏng lại, chơi mang lại cho trẻ trạng thái vui vẻ, phấn chấn, dễ chịu. [43].
Động cơ nằm trong quá trình chơi thường là nhu cầu giải trí, tự khẳng định…
Trò chơi là một dạng hoạt động mang tính tự lập của trẻ, hơn bất cứ hoạt động nào,
trong vui chơi, trẻ mẫu giáo biểu hiện rõ nhất ý thức làm chủ, trẻ hoạt động hết mình, tích
cực, độc lập, chủ động. Tác dụng giáo dục của người lớn với trẻ trong hoạt động vui chơi là

ở chỗ người lớn biến những yêu cầu giáo dục thành nội dung của hoạt động vui chơi, và
hướng dẫn tổ chức cho trẻ vui chơi sao cho vừa thỏa mãn những nhu cầu, hứng thú của trẻ,
vừa đạt được những yêu cầu của giáo dục. Vui chơi càng mang tính chất tự nguyện bao
nhiêu thì càng phát huy ở trẻ tính tích cực, chủ động, độc lập và nảy sinh nhiều sáng kiến
bấy nhiêu. [17, tr 128-129]
Hệ thống phân loại trò chơi

23


×