Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

việc xây dựng chính quyền thời các chúa nguyễn ở đàng trong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 103 trang )

TRƯỜNG ðẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM LỊCH SỬ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ðỀ TÀI:

VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN
THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN
Ở ðÀNG TRONG

Cán bộ hướng dẫn:
ThS. Lê Thị Minh Thu.

Sinh viên thực hiện:
Phùng Thị La.
MSSV: 6060938.
Lớp : Sư Phạm Lịch Sử K32.

Cần Thơ – 5/2010.


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC ...................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN:.............................................................................................................3
DẪN LUẬN: ...............................................................................................................4


1. Lý do chọn ñề tài: ....................................................................................................4
2. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu: ..........................................................................6
3. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................................7
4. Lịch sử nghiên cứu vấn ñề:......................................................................................7
5. Những ñóng góp của ñề tài:.....................................................................................8
6. Cấu trúc ñề tài:.........................................................................................................8
PHẦN NỘI DUNG: ..................................................................................................10
Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của xứ ðàng Trong:.....................10
1.1 Vài nét khái quát về vùng ñất Thuận Quảng trước khi Nguyễn Hoàng trấn thủ :10
1.1.1. Thời Bắc thuộc: ..........................................................................................10
1.1.2. Thời ðại Việt ñộc lập: ................................................................................14
1.2. Sự hình thành và phát triển xứ ðàng Trong: .....................................................22
1.2.1. Bối cảnh lịch sử hình thành xứ ðàng Trong: .............................................22
1.2.2. Quá trình khai khẩn và ổn ñịnh ñời sống chính trị - xã hội của xứ ðàng
Trong: .......................................................................................................................26
Chương 2: Tổ chức chính quyền của các chúa Nguyễn ở ðàng Trong:.............35
2.1. Chính trị - xã hội: ...............................................................................................35
2.1.1. Tổ chức hành chính: ...................................................................................35
2.1.2. Tổ chức quan lại: ........................................................................................40
2.1.3. Chính sách ñối với các bộ lạc Thượng: ......................................................50
2.2. Quân ñội: ............................................................................................................52
2.2.1. Phương thức mộ lính và ñời sống của binh lính:........................................52
2.2.2. Phương thức tổ chức quân ñội:...................................................................56
2.3. Chế ñộ thuế khóa: ...............................................................................................58
Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

1

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường



Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

2.3.1. Thuế ñinh:...................................................................................................58
2.3.2. Thuế ñiền thổ:.............................................................................................62
2.3.3. Các loại thuế khác: .....................................................................................64
2.4. Chính sách ngoại giao: .......................................................................................67
Chương 3: Những mặt tích cực và hạn chế của chính quyền chúa Nguyễn ñối với
sự phát triển của vùng ñất ðàng Trong: ...............................................................70
3.1. Những mặt tích cực: ...........................................................................................70
3.1.1. Về mặt kinh tế: ...........................................................................................70
3.1.2. Về mặt xã hội : ...........................................................................................74
3.1.3.Về mặt chính trị - quân sự : .........................................................................78
3.2. Những mặt hạn chế:............................................................................................83
3.2.1. Về mặt chính trị- xã hội :............................................................................83
3.2.2. Về mặt kinh tế : ..........................................................................................86
KẾT LUẬN: ..............................................................................................................93
PHỤ LỤC: .................................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO: ......................................................................................101

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

2

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp


Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

LỜI CẢM ƠN

Luận văn tốt nghiệp không chỉ là kết quả của những năm học tập và rèn luyện
dưới mái trường ñại học, mà còn là sự thử sức ban ñầu của sinh viên trên con ñường
tập tành nghiên cứu khoa học.
ðể hoàn thành ñề tài nghiên cứu này, trước hết, em xin chân thành cảm ơn quí
thầy cô trong Bộ môn Sư phạm Lịch sử ñã truyền ñạt những kiến thức cần thiết cho em
trong suốt thời gian qua. ðặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất ñến cô Lê
Thị Minh Thu – Cán bộ hướng dẫn, cô ñã tận tình hướng dẫn, giúp ñỡ em trong việc
hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin cảm ơn Trung Tâm Học Liệu Trường ðại học Cần Thơ, Thư viện
Khoa Sư phạm Trường ðại học Cần Thơ, Thư viện Thành phố Cần Thơ, Thư viện
Tỉnh Bạc Liêu ñã tạo mọi ñiều kiện tốt nhất cho em trong việc thu thập tài liệu.
Em cũng không quên gửi lời cảm ơn ñến những người bạn của em ñã ñóng góp
ý kiến, ñộng viên ñể em hoàn thành khóa luận này.
Cuối cùng, em xin gửi lời tri ân ñến cha mẹ em, ñã luôn yêu thương, hỗ trợ mọi
mặt tinh thần và vật chất ñể em có ñược kết quả học tập như ngày hôm nay.
Do thời gian không nhiều, nguồn tư liệu còn hạn chế, và do ñây là bước ñầu tập
tành nghiên cứu khoa học nên dù bản thân ñã có nhiều cố gắng song chắc chắn ñề tài
vẫn còn nhiều chỗ thiếu sót, kính mong quí thầy cô và các bạn góp ý ñể ñề tài ngày
càng hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Phùng Thị La

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.


3

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

DẪN LUẬN

1. Lý do chọn ñề tài:
Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc, lãnh thổ và biên
giới của nước Việt Nam ngày càng ñược mở rộng và từ lâu ñã trở thành một thực thể
thống nhất từ Bắc chí Nam.
Một số nước lớn có tham vọng mở rộng lãnh thổ bằng cách tiến hành các cuộc
chiến tranh thôn tính các nước nhỏ, ñiển hình là Trung Quốc. Trong lịch sử, quốc gia
này ñã nhiều lần ñem quân sang xâm lược nước ta nhằm sáp nhật ñất ñai của Việt Nam
vào ñất Trung Quốc. Các triều ñại phong kiến Việt Nam vẫn có chủ trương mở rộng
ñất ñai nhưng không phải bằng những cuộc chiến tranh thôn tính mà bằng cách ñưa ra
ñối sách khôn khéo với các thuộc quốc ñể từ ñó từng bước hợp thức hóa quyền cai trị
trên vùng ñất ñó, chẳng hạn như tiến hành các cuộc hôn nhân, hoặc nhân việc nước ñó
ñem quân sang quấy phá, ta ñem quân sang trừng phạt, rồi rút về, ñể chuộc lỗi, mới
ñem ñất dâng cho Việt Nam, hoặc lợi dụng tình hình bất ổn của nước ñó, tiến hành
xâm chiếm ñất ñai, theo hình thức “trả ơn” của các thuộc quốc…Trong ñó, thời kỳ mở
rộng ñất ñai chưa từng có trong lịch sử là từ thế kỷ XVI ñến thế kỷ XVIII, nhưng lại
có nguồn gốc xuất phát là một biến cố chính trị trong nước. Như Li Tana trong luận án
tiến sĩ với ñề tài “Xứ ðàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam trong các thế kỷ 17
và 18” ñã viết: “Biến cố ñã ñem lại cho Việt Nam gần 3 phần 5 số diện tích hiện nay

của nước này do quyết ñịnh rời khỏi kinh ñô của một dòng họ”. [12: 15]
Năm 1527, Mạc ðăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập nên nhà Mạc. Trước tình
hình ñó, một tướng nhà Lê là Nguyễn Kim sang Ai Lao tìm ñược Lê Duy Ninh lập lên
làm vua, gây dựng sự nghiệp, công cuộc trung hưng của nhà Lê mới bắt ñầu thì năm
1545 Nguyễn Kim bị ám hại. Sau ñó, quyền lực nằm trong tay Trịnh Kiểm. Trịnh
Kiểm - vì lo sợ trước công trạng ngày càng lớn của anh em Nguyễn Uông và Nguyễn
Hoàng - ñã sinh lòng nghi kỵ sát hại Nguyễn Uông. Trước tình thế ñó, Nguyễn Hoàng
buộc phải tìm cách thoát thân, với sự giúp ñỡ của chị gái là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm,
xin vào trấn thủ Thuận Hóa vào cuối năm 1558. ðiều này càng thôi thúc Nguyễn
Hoàng khi Nguyễn Hoàng cho người ñến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì
ñược khuyên rằng: “Hoành Sơn nhất ñái, vạn ñại dung thân”. Từ ñây, họ Nguyễn
từng bước hình thành cơ sở cát cứ của mình ở Thuận Quảng, ổn ñịnh tình hình chính
trị, ñẩy lùi bảy lần tấn công của chúa Trịnh, mở rộng lãnh thổ sâu xuống phía Nam, tới
tận Mũi Cà Mau hiện nay. Không chỉ mở rộng biên cương mà còn tiến hành khai phá,
ñưa nền kinh tế miền Nam từ hoang sơ ñến phát triển rất nhanh, không chỉ ñuổi kịp mà
Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

4

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

còn vượt hẳn ðàng Ngoài. Thoạt nhìn, sự kiện năm 1558 có dáng dấp một câu chuyện
về một dòng họ ñã có thể tồn tại và phát triển về mặt chính trị sau khi ñã bị chiếm mất
trọng trách nắm quyền bính ở triều ñình tại Thăng Long. Nhưng về bản chất, ñây lại là
một sự kiện ñã dẫn ñến việc thành lập một hệ thống chính quyền mới.

Thời kỳ các chúa Nguyễn từ thế kỷ XVI ñến thế kỷ XVIII là một thời kỳ lịch sử
với những cách nhìn nhận và ñánh giá hết sức khác nhau. Nhưng nhìn chung, ña số các
ý kiến có khuynh hướng phê phán các chúa Nguyễn (cũng như các chúa Trịnh) ñã chia
cắt ñất nước từ ñó mà công lao mở cõi của dòng họ Nguyễn vẫn chưa ñược ñánh giá
ñúng mức. Thái ñộ phê phán trên có nguyên nhân sâu xa trong bối cảnh chính trị của
ñất nước thời bấy giờ. Dân tộc Việt Nam luôn phải ñối mặt với các cuộc xâm lược của
các thế lực ngoại bang, nên sự ñoàn kết dân tộc và công cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm là hai vấn ñề nổi lên hàng ñầu của lịch sử dân tộc. Trong hoàn cảnh ñó, ñộc lập
dân tộc và thống nhất quốc gia là mục tiêu cao cả, có ý nghĩa thiêng liêng ñối với dân
tộc. Vì vậy khi nhìn lại lịch sử, bất cứ hành ñộng nào chệch hướng ấy ñều bị phê phán.
Lối thoát của họ Nguyễn ñến vùng ñất mới ñể gây dựng cơ nghiệp lâu dài ñã ñi ngược
lại với tiêu chí trên. Trước tiên, việc xây dựng cơ sở cát cứ của các chúa Nguyễn ở
vùng ñất mới ñến ñã phá bỏ sự thống nhất quốc gia, tiếp ñến, hậu duệ của họ Nguyễn
là Nguyễn Ánh ñánh bại nhà Tây Sơn với sự giúp ñỡ của thực dân Phương Tây, ñến
thế kỷ XIX, Vương triều Nguyễn một lần nữa ñể nước ta rơi vào tay thực dân. Trong
bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh ñã tác ñộng ñến thái ñộ của nhiều nhà nguyên
cứu trong ñánh giá, nhìn nhận về các chúa Nguyễn. Từ ñó mà lịch sử ðàng Trong vẫn
chưa ñược quan tâm và ñánh giá ñúng chừng mực. Tuy nhiên, công cuộc ñổi mới ñất
nước từ năm 1986, với những thay ñổi về tư duy kinh tế, sau ñó dần dần ñược mở rộng
sang các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ñã góp phần khiến các nhà sử học, các
nhà nghiên cứu quan tâm phải nhìn lại lịch sử theo hướng khách quan, khoa học, công
bằng hơn. Cũng từ ñó mà việc nhìn nhận, ñánh giá lại chính quyền họ Nguyễn và lịch
sử ðàng Trong cũng trở thành vấn ñề mà các nhà nghiên cứu quan tâm. ðã có nhiều
công trình nghiên cứu có giá trị trên nhiều phương diện, ở trong nước và ở cả nước
ngoài về vấn ñề này. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam ñã viết về lịch sử chính trị của
hai thế kỷ chia cắt này, một số tác giả phương Tây cũng ñã viết về lịch sử chính trị của
Việt Nam trong những năm này. Bên cạnh ñó, nhiều hội thảo về các sự kiện và nhân
vật thuộc thời kỳ lịch sử này ñã ñược tổ chức tại Việt Nam. ðặc biệt, vào ngày 18 và
19 tháng 10 năm 2008 hội thảo khoa học cấp quốc gia lần ñầu tiên ñược tổ chức về
“Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI ñến thế

kỷ XIX” diễn ra tại Thanh Hóa. ðây là kết quả của quá trình chuẩn bị từ những năm

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

5

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

1990 và cũng là tiếp nối của 20 cuộc hội thảo trước ñó nhằm nhìn nhận lại những ñóng
góp cũng như mặt còn hạn chế của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.
Các kết quả nghiên cứu ñã cho phép khẳng ñịnh công lao mở mang bờ cõi của
các Chúa Nguyễn từ Thuận Hóa, Quảng Nam vào tận ðồng bằng sông Cửu Long.
Nhưng “vấn ñề cần ñi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ là phương thức khai phá có hiệu quả
kinh tế cao kết hợp với việc xây dựng và củng cố chủ quyền quốc gia trên vùng ñất
mới của các chúa Nguyễn” (Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam,
báo cáo ñề dẫn tại Hội thảo về “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam từ thế kỷ XVI –XIX” diễn ra tại Thanh Hóa, 2008).
Qua việc tìm hiểu về thời kỳ lịch sử này nhằm góp phần làm sáng tỏ công lao
mở cõi và xác lập chủ quyền trên vùng ñất Nam Bộ của các chúa Nguyễn, ñã ñặt nền
tảng cho hàng loạt những bước tiến của lịch sử dân tộc. Và ñể có cái nhìn ñúng ñắn
hơn về vai trò của chính quyền các chúa Nguyễn ñối với vùng ñất phía Nam, góp phần
giáo dục lòng biết ơn, sự tôn kính của học sinh ñối với bậc tiền nhân nên tôi chọn ñề
tài: “Việc xây dựng chính quyền thời các chúa Nguyễn ở ðàng Trong” làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu:

2.1. ðối tượng nghiên cứu:
ðối tượng của ñề tài nghiên cứu là:
- Sự hình thành chính quyền các chúa Nguyễn ở ðàng Trong.
- Việc xây dựng và củng cố chính quyền.
- Vai trò của chính quyền ñối với ñời sống xã hội, kinh tế, chính trị ðàng
Trong.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm vùng ñất
Thuận Hóa cho ñến khi xứ ðàng Trong thuộc về Nguyễn Tây Sơn (Từ cuối năm 1558
ñến năm 1777).
- Phạm vi không gian: Quá trình lịch sử diễn ra ở khu vực Thuận Quảng
trở vào Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu:
Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

6

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

ðể hoàn thành ñề tài này, trước hết tôi vận dụng phương pháp lịch sử là chủ
yếu, kết hợp với phương pháp logic. Phương pháp lịch sử ñược vận dụng trong việc
khôi phục lại bức tranh lịch sử thời các chúa Nguyễn, còn phương pháp logic giúp hệ
thống hóa vấn ñề. Bên cạnh ñó tôi còn sử dụng các thao tác tổng hợp, phân tích, so
sánh ñể từ ñó rút ra kết luận của vấn ñề.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn ñề:
Với ñề tài này ñã có các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy chưa có công
trình nào ñầy ñủ và hoàn chỉnh về vấn ñề này, song qua một số công trình nghiên cứu,
những bài viết trên các tạp chí, chuyên san, giúp chúng ta có thể hình dung phần nào
về việc tổ chức bộ máy chính quyền của các chúa Nguyễn ở ðàng Trong trong các thế
kỷ XVI ñến thế kỷ XVIII. Trong quá trình nghiên cứu ñề tài này, bản thân tôi ñã tiếp
cận với các công trình nghiên cứu sau:
Ở trong nước:
Sách :
1. Việt sử xứ ðàng Trong (1558 -1777) của tác giả Phan Khoang, do
Nxb Văn học xuất bản năm 2001.
2. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim do Nxb Tổng hợp Tp. HCM
xuất bản năm 2005.
3. Việt Nam kỷ yếu của Trần Xuân Sinh do Nxb Hải Phòng xuất bản năm
2003.
4. Lịch sử Việt Nam giản yếu của nhiều tác giả do Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội xuất bản năm 2000.
5. Lịch sử Việt Nam (1427 – 1858), quyển 2, tập 1 của Nguyễn Phan
Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh do Nxb Giáo dục Hà Nội xuất bản
năm 1977.
6. Kỷ yếu về chúa Nguyễn và vương triều nguyễn trong lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI ñến thế kỷ XIX, hội thảo khoa học về “Chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI ñến thế kỷ XIX” diễn ra tại Thanh Hóa
vào ngày 18 tháng 10 năm 2008.
Tạp chí:
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử của Viện Khoa học xã hội, Viện Sử học.
Tạp chí xưa và nay, của Nxb Xưa và Nay.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.


7

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Một số công trình nghiên cứu của người nước ngoài:
1. Xứ ðàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 của
tác giả Li Tana, do Nxb Trẻ Tp. HCM xuất bản năm 1999.
2. Xứ ðàng Trong năm 1621 của tác giả Christoforo Borri do Nxb Tp.
HCM xuất bản năm 1998.
Nhìn chung các công trình này mới chỉ ñề cập ñến việc tổ chức chính quyền,
việc phân chia khu vực hành chính, các chính sách chế ñộ mà chưa ñi sâu vào khai
thác những mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế của chính quyền các chúa Nguyễn
ñối với sự phát triển của vùng ñất ðàng Trong.
Trên cơ sở kế thừa những công trình ñi trước, tôi tiếp cận ở những nét cơ bản
và sắp xếp lại một cách cụ thể về việc tổ chức chính quyền của các chúa Nguyễn ở
ðàng Trong. Trên cơ sở ñó, phân tích, ñánh giá ñể thấy ñược vai trò của chính quyền
các chúa Nguyễn ñối với các vấn ñề phát triển kinh tế, chính trị, xã hội ở ðàng Trong,
những hạn chế của tổ chức chính quyền lúc bấy giờ.
5. Những ñóng góp của ñề tài:
ðề tài hoàn thành sẽ có những ñóng góp sau:
- Cung cấp nguồn tài liệu cho những ai quan tâm nghiên cứu ñề tài này.
- Góp phần làm sáng tỏ vai trò của tổ chức chính quyền các chúa Nguyễn ñối
với lịch sử ðàng Trong.
6. Cấu trúc ñề tài:
Ngoài phần Dẫn luận, kết luận, phụ lục, ñề tài chia làm 3 chương:

Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của xứ ðàng Trong.
1.1. Vài nét khái quát về vùng ñất Thuận Quảng trước khi Nguyễn
Hoàng trấn thủ.
1.2. Sự hình thành và phát triển của xứ ðàng Trong.
Chương 2: Tổ chức chính quyền của các chúa Nguyễn ở ðàng Trong.
2.1. Chính trị - xã hội.
2.2. Quân ñội.
2.3. Chế ñộ thuế khóa.
2.4. Chính sách ngoại giao.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

8

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Chương 3: Những mặt tích cực và hạn chế của chính quyền chúa Nguyễn ñối
với sự phát triển của vùng ñất ðàng Trong.
3.1. Những mặt tích cực.
3.2. Những mặt hạn chế.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

9


Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
XỨ ðÀNG TRONG

1.1. Vài nét khái quát về vùng ñất Thuận Quảng trước khi Nguyễn Hoàng trấn
thủ:
1.1.1. Thời Bắc thuộc:
Năm 221TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, chia nước làm 36
quận. ðến năm 214TCN, Thủy Hoàng chiếm ñất Lục Lương1 ñặt ra quận Nam Hải,
quận Quế Lâm, quận Tượng Quận2. Năm 206 TCN Triệu ðà chiếm cứ Nam Hải, thôn
tính Quế Lâm và Tượng Quận, dựng nước gọi là Nam Việt rồi chia Tượng Quận làm
hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, quận Giao Chỉ gồm bình nguyên ñất Bắc Việt ngày
nay, quận Cửu Chân gồm ñất từ Thanh Hóa trở vào ñến trung bộ Trung Việt ngày nay.
Năm 111, Hán Vũ ñế dẹp yên Nam Việt, lấy ñất ấy chia ñặt chín quận, nay sáu quận
thuộc về Quảng ðông, Quảng Tây, nước ta chỉ ñược 3 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam. Trong ñó, Giao Chỉ gồm 10 huyện, Cửu Chân gồm 7 huyện, Nhật Nam
gồm 5 huyện. Ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là ñất Bắc Việt và bắc bộ,
trung bộ của Trung Việt ngày nay, quận Nhật Nam là ñất cực nam của Giao Chỉ bộ và
5 huyện của Nhật Nam là Tây Quyển, Tị Ảnh, Chu Ngô, Lô Dung, Tượng Lâm3, quận
lỵ ñóng ở Tây Quyển, và Tượng Lâm là huyện ở cực nam, ñây là chỗ ở của tổ tiên
người Chàm. Theo ðại Nam Nhất Thống Chí thì Tượng Quận ñời Tần, Quận Nhật
Nam ñời Hán phía Nam vào ñến tỉnh Phú Yên ngày nay. Theo L. Aurousseau thì
Tượng Quận của nhà Tần có một thành phố gọi là Lâm Ấp hoặc Tượng Lâm ở vùng

Trà Kiệu thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay.

1.

ðất Quảng ðông, Quảng Tây ngày nay, thời Tần gọi là ñất Lục Lương, vì người Lãnh Nam phần nhiều ở núi
rừng, trên bộ, tánh người manh tợn, nên gọi là Lục Lương (Từ Nguyên)
2.

Theo các nhà sử học trước kia thì quận Nam Hải là ñất tỉnh Quảng ðông ngày nay, còn quận Tượng Quận bao

quát ñất Bắc Việt.
3.
Tây Quyển: ñịa bàn ở bắc Quảng Bình, thuộc lưu vực Sông Gianh; Tị Ảnh ở nam Quảng Bình, thuộc lưu vực 5
huyện của miền nam Sông Nhật Lệ ñến Sông Bến Hải; Chu Ngô thuộc Quảng Trị, thuộc lưu vực sông Thạch
Hãn; Lô Dung ñịa bàn ở Thừa Thiên, thuộc lưu vực Sông Hương ñến Sông Bồ; Tượng Lâm từ ñèo Hải Vân ñến
núi ðại Lãnh.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

10

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Từ hậu bán thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, trên các ñồng bằng Trung Việt ngày
nay từ Khánh Hòa ra ñến núi Hải Vân tỉnh Quảng Nam, ñã có những man di giống

Malayo- polynésiens ở từ các hải ñảo tràn ñến ở. ðây là tổ tiên của người Chàm. ðến
thế kỷ thứ nhất, man di này ñã khá ñông nên sang cống nhà Hán, nhưng sau ñó lại nổi
lên chống lại nhà Hán. ðời vua Quang võ nhà ðông Hán, năm 40, ở Giao Chỉ hai chị
em Bà Trưng khởi nghĩa, man di ở Nhật Nam có hưởng ứng. Nhà Hán sai Mã Viện
sang ñánh dẹp, không ñầy 3 năm, bình ñịnh hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, nhưng
Quân Hán vào ñến hai huyện Cư Phong, Vô Công1 của quận Cửu Chân rồi trở lui, chứ
không vào ñến quận Nhật Nam. ðời vua Chương ðế man di ở Nhật Nam có dâng tê và
bạch trĩ lên vua Hán ñể tỏ lòng cung thuận. Sau ñó họ nổi lên chống nhà Hán ñể vận
ñộng ñộc lập.
ðến ñời vua Thuận ðế, năm 137, ở Tượng Lâm có người tên Khu Lân cùng
mấy nghìn người nổi lên ñánh huyện Tượng Lâm, giết trưởng lại. Triều ñình nhà Hán
sai Trương Kiều làm Thứ sử Giao Chỉ, Chúc Lương làm Thái Thú Cửu Chân ñến vỗ
về, dẫn dụ, mới yên ñược. ðến ñời vua Hoàn ðế năm 157, nhân Huyện lệnh huyện Cự
Phong, quận Cửu Chân tham lam, tàn bạo, người trong huyện là Châu ðạt, hợp với
người Chàm ñánh giết Huyện Lệnh, tấn công Cửu Chân. Vua xuống chiếu sai ðô Úy
Cửu Chân là Ngụy Lãng ñem quân ñánh phá ñược. Lúc này thế lực nhà ðông Hán ñã
suy yếu, không ñủ sức ñể chế áp, nhờ ñó người Chàm ở Nhật Nam ngày càng mạnh
lên. ðến cuối ñời ðông Hán, con của viên Công Tào huyện Tượng Lâm là khu Liên2
nhân trong xứ có loạn, giết quan Huyện Lệnh, tụ tập làm vua. Nước lập lên ấy, sử
Trung Hoa gọi là Lâm Ấp3, còn người ấy tự xưng là Cam (Chàm) hoặc Chiêm Bà (
Champa). Nước Lâm Ấp lấy ñất Quảng Nam ngày nay làm trung tâm ñiểm, dựng ñô ở
Trà Kiệu. Dựng nước và khá mạnh mẽ rồi, Lâm Ấp bắt ñầu mưu ñồ Bắc tiến. Thừa lúc
ở Cửu Chân, Bà Triệu khởi binh ñánh nhà Ngô năm 248, Lâm Ấp ñem quân xâm lấn
hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, chiếm ñược ñất Khu Túc, rồi tiến ñến xâm lấn huyện
Thọ Lãnh4 lấy ñó làm cương giới. Vua Hậu duệ cuối cùng của Khu Liên không có con
trai nên cháu ngoại là Phạm Hùng5 nối ngôi. Phạm Hùng liên kết với vua Phù Nam là
Phạm Tầm nhiều lần ñem binh ñánh phá các quận, huyện của Giao Châu, giết hại dân,
1
2


Ở trong tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Khu Lân, Khu Liên, có người cho là một nhân vật, vì danh từ ñọc lên gần giống nhau, nhưng có người cho là

hai nhân vật khác nhau, vì hai cuộc nổi dậy năm 137 và năm 192 cách nhau tới 55 năm. Nhưng theo những khảo
chứng của giáo sư Trần Kính Hòa thì Khu Lân hay Khu Liên không phải tên của người mà là dịch âm của thổ
âm Lâm Ấp Kalinga nghĩa là chủng tộc lãnh ñạo cuộc ñộc lập.
3
4

Có ý nói là ñô ấp của huyện Tượng Lâm.
Một huyện nhà Tấn ñặt thêm ở quận Nhật Nam.

5

Phạm không phải là họ, Phạm ñây là người Tàu phiên âm Phạn ngữ “ Varman” thường ñứng sau danh hiệu các
vị vua Chàm và vua Ấn ðộ.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

11

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Tôn Hạo sai ðào Hoàng coi Giao Châu, trong 10 năm ông ñã nhiều lần ñánh dẹp Lâm
Ấp giết bớt bọn ñầu sỏ.

Phạm Hùng chết, con là Phạm Dật kế ngôi, ông ñã kiến tạo thành trì, sửa trị
binh pháp. Thời bấy giờ, Lâm Ấp ít ruộng nên rất thèm muốn ñất ñai phì nhiêu của
Nhật Nam. Các thuyền buôn các nước ở Phương Nam thường ñem hóa vật ñi ñường
biển, qua các cửa biển Giao Châu ñể ñến trao ñổi với Trung Quốc, các quan Thứ Sử
Giao Châu, Thái thú Nhật Nam nhiều người tham lam, thường xuyên ñoạt hóa vật ñến
hai, ba phần mười, có khi ñến quá nửa. Thái thú Nhật Nam là Hạ Hầu Lãm càng tham
lam, khắc nghiệt hơn nữa, lại hay say rượu. Trước tình hình ñó, năm 347 Tấn Mục ðế
cử binh ñánh Hãm Nhật Nam. Phạm Văn ñem thây Hạ Hầu Lãm tế trời, san bằng
huyện thành Tây Quyển, rồi chiếm cứ Nhật Nam, ñòi lấy phía bắc Hoành Sơn làm
biên giới Lâm Ấp. ðại nam Nhất Thống Chí, tỉnh Quảng Bình, mục cổ tích chép: “Lũy
cũ Hoành Sơn (Hoành Sơn cổ lũy) ở phía bắc huyện Bình Chính, từ trên núi Ba Hi
chạy ngang suốt ñến biển. Tương truyền lũy này là do Phạm Văn (vua) Lâm Ấp ñắp ñể
làm ñường phân giới Giao Châu Lâm Ấp”.[19: 46]
Sau khi Phạm Văn trở về Lâm Ấp, Châu Phồn sai ðốc hộ Lưu Hùng ñóng giữ
Nhật Nam nhưng mùa thu năm ấy Văn trở lại, ñánh hãm Nhật Nam, năm sau ñánh úp
Cửu Chân. Năm 349, chính tây ðốc hộ ðằng Tuấn ñem binh Giao Châu và Quảng
Châu ñánh Phạm Văn ở Lô Dung, bị Văn ñánh bại, phải lui về Cửu Chân. Phạm Văn
cũng bị thương nặng rồi mất. Con là Phạm Phật kế vị tiếp tục công việc của vua cha.
ðời vua Tấn Mục ðế, Lâm Ấp lại ra cướp, lấy bên Ôn Công là mũi Chomay
(Chân Mây) thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay làm biên giới phía bắc của Lâm Ấp
ðến ñời vua Hiếu Vũ ðế (380), con là Phạm Hồ ðạt lên nối ngôi. Thừa dịp
Giao Châu nổi loạn Phạm Hồ ðạt Bắc xâm. Sau ñó yên ñược mấy năm rồi Lâm Ấp lại
hàng năm sang cướp phá. Bấy giờ nhà Tấn ñã suy yếu, Lâm Ấp thừa cơ vào cướp.
Năm 413 Phạm Hồ ðạt cướp Cửu Chân. Cũng năm ấy Phạm Hồ ðạt mất, con
là ðịch Chân ñược lập. Sau khi ðịch Chân lên ngôi, em là ðịch Khải cùng mẹ bỏ ñi,
ðịch Chân vời về không ñược nên thoái vị nhường ngôi cho một người cháu. Sự thoái
vị và ra ñi của ðịch Chân làm phát sinh nổi loạn. Mấy năm sau ngôi vua về tay một
người mà gốc tích còn chưa rõ là Phạm Dương Mại1. Trong thời gian trị vì, nhiều lần
cho quân sang cướp phá các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Cửu ðức, giết hại rất nhiều
người, khiến Giao Châu suy yếu, Lâm Ấp cũng hao mòn.


1

Tiếng Chiêm là yaMah, ý nói là “ vua vàng”.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

12

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

ðời Tống, năm 420, Lưu Dũ lên ngôi, thứ sử Giao Châu là ðỗ Tuệ ðộ ñược
tiến hiệu là Phụ Quốc tướng quân. Năm ấy, Tuệ ðộ ñem văn, võ 1 vạn người ñi ñánh
Lâm Ấp. Lâm Ấp phải xin hàng, xin dâng nạp voi lớn, bạc, vàng... năm sau (421),
Dương Mại sai sứ sang cống hiến, vua Võ ðế nhà Tống phong Dương Mại làm Lâm
Ấp vương, Lâm Ấp trở thành phiên thuộc của Trung Quốc, sau ñó các vua Lâm Ấp
cũng giữ lệ xin phong ñể củng cố ñia vị. Dương Mại mất, con là ðốt nối ngôi vẫn
mang danh hiệu cha, tức Dương Mại Nhị thế, Dương Mại II vẫn cho người sang cống
nhà Tống, mặt khác ông vẫn tổ chức cho quân cướp phá các quận, huyện Giao Châu.
Năm 433, Dương Mại II sai sứ sang cống nhà Tống và xin lãnh ñất Giao Châu ñể cai
trị nhưng nhà Tống trả lời vì ñường xa, không cho, Dương mại II tức giận. Từ ñó, tuy
vẫn thường cống hiến Trung Quốc, nhưng cũng vào cướp phá Giao Châu không ngớt.
Vả, cống phẩm cũng ít ỏi nên vua Văn ðế giận là trái lễ và ngạo, năm 446, sai thứ sử
Giao Châu là ðàn Hòa Chi ñi ñánh Lâm Ấp. Dương Mại tổ chức sai quân chống cự lại
nhưng bị thua. Hòa Chi cho quân vào ñánh phá Lâm Ấp, mấy trận ñều thắng, cho

chém hết người Chàm từ 15 tuổi trở lên, thây chất thành ñống, ðàn Hòa Chi vào kinh
ñô Lâm Ấp, thu ñược của báu, vật lạ không sao kể xiết, nhưng cha con Dương Mại
chạy thoát. Sau khi quân ðàn Hòa Chi rút lui, Dương Mại trở về, thấy cảnh hoang tàn,
buồn giận rồi chết. Từ ñó Lâm Ấp suy yếu, suốt thời Nam Triều1 không dám xâm
phạm phương Bắc nữa. Phạm Thần Thành kế Phạm Dương Mại làm vua Lâm Ấp,
nhưng khi Phạm Thần Thành mất, trong nước nổi loạn. Có người nước Phù Nam là
Cưu Thù La, vốn là con của vua Phù Nam, có tội chạy trốn sang Lâm Ấp, nhận ñánh
Lâm Ấp, cướp ngôi, xưng là Phạm ðương Căn Thuần. Năm 492, cháu Dương Mại là
Phạm Chư Nông ñuổi Phạm ðương Căn Thuần, lấy lại nước ñược vua Võ ðế phong là
An Nam tướng quân Lâm Ấp vương.
ðời nhà Lương, Lâm Ấp ñã mấy lần sai sứ sang cống. ðến nhà Tùy, năm 604,
các quan nhà Tùy nói rằng nước Lâm Ấp có nhiều của quí lạ nên cho Lưu Phương
chức hành quân Tổng quản ñạo Hoan Châu ñể kinh lựơc Lâm Ấp. Năm 605, Lưu
Phương sai thứ sử Khâm Châu là Ninh Trường Chân ñem bộ binh, kỵ binh từ huyện
Thương (quận Cửu ðức)2 sang và ñích thân ñem thủy binh từ Tị Ảnh3 vào. Thủy lục
ñều tiến ñến quốc ñô (Trà Kiệu), vua là Phạm Phạn Chi (Cambhuvarman) bỏ thành
chạy ra biển, Lưu Phương vào thành bắt hết người Chàm làm tù binh. Sau khi bình
ñịnh Lâm Ấp nhà Tùy chia ñất làm ba châu là: ðảng Châu, Nông Châu và Xung
Châu. Sau ñó, ðảng Châu ñổi là quận Tỵ Cảnh, Nông Châu ñổi là quận Hải Âm, Xung
1

Tống, Tề, Lương, Trần (420 -589).

2

Ở miền Hà Tĩnh ngày nay.
Huyện Tị Ảnh ñời Hán ở khoảng phía bắc và phía Nam Hoành Sơn. ðem thủy binh từ Tị Ảnh mà vào, có thể từ

3


cửa Nhượng hay cửa Sọt thuộc Hà Tĩnh ngày nay.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

13

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Châu ñổi là quận Lâm Ấp. Ba quận Tỷ Cảnh, Hải Âm, Lâm Ấp ñời Tùy là Bắc bộ,
Nhật Nam ñời Hán, ñại khái bao quát các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị cho ñến Thừa
Thiên ngày nay. Nhưng chưa ñược mười năm thì nước Tàu loạn, Phạm Phạn Chí khôi
phục ñất cũ.
ðời nhà ðường chia Giao Châu làm 12 Châu1, thuộc An Nam ñô hộ phủ quản
hạt, và châu cực nam là Hoan Châu, tức tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Biên giới ở phía Nam
của An Nam ñô hộ phủ là núi Hoành Sơn, và từ Quảng Bình trở vô là ñất của Lâm Ấp.
ðời vua ðường Túc Tông, năm 758, sử Trung Quốc gọi Lâm Ấp là Hoàn
Vương. Từ ðường Huyền Tông, năm 749 trở về sau, Lâm Ấp không vào cống Trung
Quốc nữa. Sau ñó vương triều thay ñổi, Hoàn Vương cũng không qua lại nhà ðường.
ðến ñời vua ðức Tông, năm 793 vua là Nhân ðà La Bạt Ma (Indravarman) mới sai sứ
vào cống trở lại, nhưng sau ñó Hoàn Vương không vào cống nữa.
Năm 875 một triều vua mới lên làm vua ở phía Bắc tại Indrapura (ðồng
Dương) trong tỉnh Quảng Nam ngày nay. Chính là ñệ lục vương triều (875 – 991).
ðồng thời, sử Trung Quốc cũng ñổi gọi là nước Chiêm Thành vua sáng lập triều ñại
mới này là Indravarman II. Trong thời gian này, An Nam bị Nam Chiếu xâm lăng, nhà
ðường phải lo ñối phó với Nam Chiếu nên không rảnh tay mà nghĩ ñến việc Chiêm

Thành.
Vào khoảng năm 945, 946 vua Chân Lạp là Rajendravarman II sai quân ñội
sang xâm lăng Chiêm Thành, nhưng sau cùng, quân Chân Lạp thua một trận lớn. Cri
Indravarman và các vua kế tiếp ñều cho sứ giả sang nói lại bang giao với Trung Quốc
mà trước ñó những cuộc hỗn loạn cuối ñời Ngũ ñại ñã làm gián ñoạn.
1.1.2. Thời ðại Việt ñộc lập:
Với trận Bạch ðằng năm 938, Ngô Quyền ñánh tan quân Nam Hán, Việt Nam
trở thành quốc gia ñộc lập và cũng từ ñây dân tộc ta bắt tay vào công cuộc xây dựng
nền ñộc lập tự chủ lâu dài. Cuối thế kỷ X, Lê Hoàn (942 -1005) bình ñịnh xong ñất
nước lên ngôi hiệu là Lê ðại Hành, ông ở ngôi 26 năm lo bình Chiêm phá Tống lần
thứ nhất trong lịch sử giữ nước và mở nước của dân tộc Việt Nam. Sau khi lên ngôi,
vua Lê ðại Hành sai sứ là Từ Mục Và Ngô Tử Cảnh sang giao hiếu với Chiêm Thành,
vua Chiêm giữ hai sứ giả lại. Vua Lê giận, sai ñóng thuyền, sửa soạn binh khí.

1

12 châu: Giao, Lục, Phong, Ái, Hoan, Diễn, Trường, Phúc Lộc,Thang, Chi, Võ An, Võ Nga.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

14

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Năm Nhâm Ngọ 982, biên giới phía Nam ñất nước ta bị quân Chăm vào cướp

phá, ông thân ñem quân ñi ñánh Chiêm Thành ñể phạt tội vua Chiêm ñã bắt hai sứ
thần của nhà vua. ðại quân do chính nhà vua thống lãnh ñánh chiếm kinh thành vua
Chiêm là Indravarman IV tại Indrapura (thuộc Quảng Nam ngày nay). ðây là cuộc
Nam phạt ñầu tiên trong lịch sử mở nước của tiền nhân ta. Vua Chiêm từ ấy hàng năm
phải triều cống và xưng thần triều ñình nước ta ngay từ hồi ñó.
Năm 986, vua Chiêm là Indravarman IV mất, Lưu Kế Tông công khai lên ngôi
vua Chiêm Thành. Nhưng người Chiêm Thành không chịu ñược sự thống trị của Lưu
Kế Tông, nhiều người bỏ xứ sang lánh nạn ở tận Hải Nam, Quảng Châu và sang cả
nhà Lê xin qui phụng. Năm 988 triều ñình Chiêm Thành tôn một vị lãnh ñạo lên ngôi
vua ở Phật Thệ (Vijaya) là Băng Vương La Duệ, hiệu là Cui Thi Lị Ha Thân Bài Ma
La, tức là Ku Cri Harivarman II. Harivarman II vừa lên ngôi, vua Lê ðại Hành thừa
dịp nước Chiêm suy yếu, cho quân sang ñánh châu ðịa Lý (Thuộc bắc tỉnh Quảng
Bình). Năm Thuần Hóa năm ñầu (990), Harivarman II sai sứ sang cống tê, phương vật
và dâng biểu tố cáo Giao Châu xâm lược, cướp bóc tài sản, bửu vật. Bấy giờ Vua Lê
ðại Hành vừa ñược vua Tống phong1, và hai nước giao hảo nên vua Tống gửi chiếu
cho vua Lê bảo nước nào hãy giữ yên biên giới nước ấy.
Vua Chiêm Thành Harivarman II sai Chế ðông sang dâng phương vật, vua Lê
ðại Hành trách là trái lễ, không nhận. ðến năm 994, vua Chiêm phải sai cháu là Chế
Cai vào chầu.
Từ năm Hưng Thống thứ 4 (992) Vua ðại Hành ñã sai Phụ Quốc là Ngô Tử An
ñem 3 vạn người ñi mở ñường bộ từ cửa biển Nam Giới (cửa Sót, ở huyện Thạch Hà,
Tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) ñến châu ðịa Lý (ñất Chiêm, miền Quảng Bình ngày nay).
ðây là con ñường bộ ñầu tiên nước ta chính thức khai thông ñể vào ñất Chiêm Thành
Từ triều Lý, nền ñộc lập của nước ta ñã vững vàng, nên các triều ñại Việt Nam
ñều muốn bành trướng về phía nam, và bắt buộc nước Chiêm Thành - chưa ñược khai
hóa, yếu nhỏ hơn mình - phải giữ bổn phận một phiên thuộc chư hầu như mình ñối
với Trung Quốc. Trái lại, vương quốc Chiêm Thành vì cái thâm thù ñối lập và nhục
nhã như vua bị giết, kinh ñô bị tàn phá ñã chịu ñựng từ lâu ñời với người Việt. Bên
cạnh ñó, cái bản tính hiếu chiến, cái nhu cầu của một xứ nghèo nàn nên ñã phải tìm
mọi cách ñể chống ñối, ñể xâm lăng, trong ñó có sự thần phục và triều cống Trung

Quốc ñể dựa thế, mà cái ấy, ðại Việt muốn ngăn cản. ðó là những nguyên nhân mà
cũng là những mối quan hệ láng giềng ràng buộc hai nước Chiêm - Việt phải tranh
chấp, chinh chiến trong nhiều thế kỷ, trên dải ñất từ hoành Sơn ñến biên giới của nước
1

Vua Tống phong Lê ðại hành là “ An Nam ñô hộ tỉnh hải quân Tiết ñộ sứ, Kinh triệu quận hầu”.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

15

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Chân Lạp. Sau thất bại nặng nề năm Nhâm Ngọ, người Chiêm nhận thấy kinh ñô
Indrapura ở ðồng Dương1 gần ñất Việt, rất dễ bị xâm lăng, nên gần cuối thế kỷ X họ
ñã thiên ñô vào Trà Bàn (Vijaya) (thuộc Bình ðịnh ngày nay) ñể tránh xa lực lượng
quân sự ðại Việt lúc ñó. Sau khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, ñến năm 1011, nước Chiêm
Thành sai sứ dâng sư tử2, nhưng sau ñó thì không thông sứ nữa. ðến năm 1020, vua
sai Khai Thiên vương Thái Tử Phật Mã và ðào Thạc Phu ñem quân ñánh Chiêm
Thành ở trại Bố Chánh3, ñến núi Long Tị4, chém ñược tướng Chiêm là Bố Linh. Bấy
giờ ở Chiêm Thành, cuối ñời vua Virantavarman IV, nội tình hỗn loạn, nhiều cuộc
tranh giành, xâu xé trong hoàng gia xảy ra, có nhiều người chạy sang triều Lý ñể lánh
nạn. ðời Thái Tông, năm 1039, con vua Chiêm là ðịch Bà Lạt cùng Lạc Thuấn, Sạ
ðẩu, La Kế, A Thát Lạt sang xin qui hàng. Năm sau, người coi trạm Bố Linh, Bố Kha,
Lan ðà Tinh ñem bộ thuộc hơn 100 người xin qui phụ.

Năm 1034, Chiêm Thành sang cướp phá ở ven biển, vua Thái Tông sai ðào Tử
Trung ñi ñánh dẹp. Vua hỏi các quan: “Tiên ðế mất ñã 16 năm, mà Chiêm Thành
chưa từng sai một sứ thần nào sang, ấy là cớ gì? Vì uy ñức của trẫm không ñến họ
chăng? Hay là họ cậy có núi sông hiểm trở?” Các quan tâu: “Chúng tôi cho là ñức
của bệ hạ tuy có ñến, nhưng uy thì chưa rộng. Sao thế ? Vì từ khi bệ hạ lên ngôi ñến
bây giờ, nó trái mạng không ñến chầu, bệ hạ chỉ bổ ñức, ban ơn ñể vỗ về, chưa từng
dùng võ ra oai. Chúng tôi sợ rằng các chư hầu khác họ trong nước ñều làm như
Chiêm Thành cả, chứ chẳng phải một mình Chiêm mà thôi”. [21: 326]
Trước lời tâu của các quan vua bèn quyết ý sang năm sẽ ñánh Chiêm Thành,
tháng 9 xuống chiếu sai ñóng vài trăm chiến hạm, ñặt hiệu là Long, Phụng, Ngư, Xà,
Hổ, Báo, Anh Vũ. Tháng 12, vua xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh ñể tháng
2 năm sau ñi ñánh Chiêm Thành. Tháng Giêng năm 1044, ngày Quí Mão vua thân ñi
ñánh Chiêm Thành. Ngày Giáp Thìn, xuất quân từ kinh sư, ngày Ất Tị, ñến cửa biển
ðại Ác5, sóng gió yên lặng, ñại quân qua biển dễ dàng, nên vua sai ñổi tên ðại Ác
thành ðại An, lần lượt qua núi Ma Cô6, qua vịnh Hà Não, ñến cửa biển Tư Dung7, ñến
tháng 7 vua cùng quan quân tiến vào thành Phật Thệ bắt cả triều ñình vua Chiêm.
1

Thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay.

2

Các nhà chú giải ñều cho là cá sấu. (chú theo Phan Khoang, Việt sử xứ ðàng Trong. Nxb Văn Học, hà Nội,

2001).
3
Bắc bộ tỉnh Quảng Bình ngày nay.
4
5


Núi ở xã Thuần Chất huyện Bình Chánh (nay là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình).
nay là cửa ðại An, thuộc ñịa phận huyện ðại An, tỉnh Nam ðịnh.

6

Tức núi Lệ ðệ, ở ngoài biển, thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh.

7

Tức cửa Tư Hiền ở Thừa Thiên.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

16

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Tháng 8 vua hồi kinh. Về ñến kinh sư, vua làm lễ cáo tiệp ở miếu Thái Tổ, ngự ñiện
Thiện An ñặt rượu mừng. Vua xuống chiếu cho các chiến tù Chiêm, theo từng bộ
thuộc, ñến ở từ trấn Vĩnh Khương thẳng ñến ðăng Châu1 lập ra làng, ấp theo danh
hiệu cũ Chiêm Thành mà ñặt tên.
Cuối năm 1061. Rudravarman III, sử ta gọi là Chế Củ, sử tàu gọi là Dương Bộc
Thi Lợi Luật ðà Bàn Ma ðề Bà lên ngôi vua Chiêm Thành. Từ khi lên ngôi, Chế Củ
lo tổ chức võ bị, luyện tập quân lính ñể chờ cơ hội báo thù ðại Việt. Còn về phía ðại
Việt, vua Lý Thánh Tông là vị vua có ý muốn mở mang bờ cõi ñể thành một nước lớn,

khi mới lên ngôi (1054) liền ñặt quốc hiệu là ðại Việt, bắt ñầu chế triều phục, ñịnh
quân hiệu, và năm 1059 kéo quân ñi ñánh Khâm Châu của nhà Tống, diễu võ dương
oai, rồi về. ðối với Trung Quốc một nước lớn còn làm thế thì ñối với Chiêm Thành,
chắc vua không khỏi thèm muốn ñất ñai. Vua Chiêm ñã sửa soạn chiến tranh và trước
hành ñộng quấy nhiễu biên giới của Chiêm Thành. Thánh Tông quyết ý thân chinh ñi
ñánh Chiêm Thành. Năm Kỷ Dậu (1069), tháng 2, ngày Mậu Tuất vua xuống chiếu
thân chinh, chọn Lý Thường Kiệt làm nguyên soái, ñem 5 vạn quân ñi tiên phong.
Ngày Canh Dần xuất quân, ñi bằng ñường thủy. Quân của Thánh Tông thắng lớn và
bắt ñược Chế Củ ñem về. Chế Củ xin lấy 3 châu ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chính ñể
chuộc tội. Vua nhận, tha cho Chế Củ về nước. Cuối năm ấy, vua Thánh Tông sai sứ
sang báo với nhà Tống biết sự thắng trận này. Lời biểu có câu: “Nước Chiêm Thành
ñã lâu không tới cống, tôi tự ñem quân ñi ñánh, ñã bắt ñược chúa nó về”. [21: 340]
Như vậy triều ñình nhà Lý ñã chính thức báo cho nhà Tống biết rằng vương
quốc Chiêm Thành là thuộc quốc nhà Lý.
Ba châu Bố Chính, ðịa Lý, Ma Linh là ñất tỉnh Quảng Bình và phần bắc tỉnh
Quảng Trị ngày nay. Châu Bố Chính là miền ở phía nam phía bắc sông Gianh, thời
thuộc Minh ñổi là Trấn Bình, ñời Lê chia làm 2 châu là Nội Bố Chính và Ngoại Bố
Chính, nay là ñất huyện Bố Trạch, huyện Quảng Trạch, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng
Bình.
Châu ðịa Lý là miền giữa và nam tỉnh Quảng Bình ngày nay, sau ñó ñổi là Lâm
Bình, ñến Trần Duệ Tông ñổi là Tân Bình, khi thuộc Minh vẫn giữ nguyên tên ñến
thời Lê Trung Hưng ñổi là Tiên Bình. Nay là ñất phủ Quảng Ninh, huyện Lệ Thủy tỉnh
Quảng Bình.
Châu Ma Linh là miền bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay, sau ñó ñổi là Minh Linh,
thời thuộc Minh ñổi là Nam Linh, nhà Lê ñặt làm huyện và ñổi là Minh Linh, nay là
ñất hai huyện Minh Linh và Do Linh tỉnh Quảng Trị.
1

Tức châu Qui Hóa, ñời lê ñổi là phủ Qui Hóa.


Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

17

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Sau khi Chế Củ trở về, nước Chiêm loạn lạc cực ñộ. Một hoàng thân tên Thân
(còn gọi là Mâdhavãmrti hoặc devatâmurtri) xưng vương năm 1074, lấy hiệu là
Harivarma IV. Sau khi lên ngôi ông cho quân sang ñánh phá biên giới ðại Việt, ñồng
thời ñem quân ñi ñánh Chân Lạp.
Năm 1075 vua sai Lý Thường Kiệt ñem quân ñi ñánh Chiêm Thành, trong ñợt
này Lý Thường Kiệt ñã họa ñồ hình thế núi sông ba châu Bố Chính, ðịa Lý, Ma Linh
rồi trở về, vua Lý ñổi Châu ðịa Lý làm châu Lâm Bình, Châu Ma Linh làm châu Minh
Linh xuống chiếu chiêu mộ nhân dân ñến ở và tổ chức lại việc cai trị. Từ ñấy ñất phía
Nam Hà Hoa ngoài dãy Hoành Sơn mới vào bản ñồ nước ta.
Năm Thiên Thuận thứ 5 (1132), người nước Chiêm Thành là bọn Cụ Ban trốn
về nước, ñi ñến trại Nhật Lệ thì người trại ấy bắt ñược giải về Kinh sư. Chiêm Thành
bèn cùng Chân Lạp hội quân vào cướp Nghệ An. Chân Lạp tức là nước Cao Miên
ngày nay.
Như vậy dưới thời Lý, tổ tiên chúng ta mới tiến vào ñến nửa tỉnh Quảng Trị
ngày nay, Chiêm Thành ñã mất phần ñất cực bắc.
Theo Phan Khoang trong Việt sử xứ ðàng Trong và các sử liệu khác thì từ khi
vua Trần Thái Tông lên ngôi (1225), vương quốc Chiêm Thành ñã mấy lần sai sứ sang
ðại Việt cống hiến, thần phục, ñồng thời có lúc lại sang quấy phá ven biển và các
vùng ñất ñã cắt nhượng cho ðại Việt vào các năm 1257 – 1266. Nhưng năm 1286 về

sau Chế Mân hiệu năm là Jaya Simhavarman cầm quyền ở Chiêm Thành thì ở nước ta
vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Trần Anh Tông. Chế Mân sai sứ sang mừng.
Trong thời ñiểm này Thượng hoàng Nhân Tông sang du lịch Chiêm Thành, Thượng
hoàng có hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Năm Hưng Long thứ 14 (1306)
Chế Mân nạp hai châu Ô, châu Lý làm sính lễ và ñưa công chúa về Chiêm mà ñương
thời có câu ca mỉa mai:
“ Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
ðã vo nước ñục lại vần lửa rơm”
hay sau này có câu thơ của Hoàng Cao Khải:
Hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi.
Năm sau (1307), người các thôn La Thủy, Tác Hồng, ðà Bồng không chịu
phục, vua Anh Tông sai hành khiển ðoàn Nhữ Hài ñến tuyên bố ñức ý, ñổi hai châu
Ô, Lý làm Thuận Châu và Hóa Châu, chọn người trong dân chúng làm quan, cấp cho
ruộng ñất và miễn thuế 3 năm ñể vỗ về. Phủ Triệu Phong, huyện Hải Lăng thuộc tỉnh
Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

18

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Quảng Trị ngày nay và huyện Phong ðiền, huyện Quảng ðiền, huyện Hương Trà
thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay là ñất Thuận Châu xưa, huyện Phú Lộc, huyện Phú
Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay và huyện Hòa Vang, huyện ðại Lộc, phủ ðiện
Bàn, phủ Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay là ñất Hóa Châu xưa. Chế Mân

chết con là Chế Chi nối ngôi, lấy hiệu là Cri Jaya Simhavarman IV. Chế Chi tuy thần
phục nhà Trần, nhưng hối tiếc việc nhượng ñất của vua cha, nên ðại Việt cho Chế Chi
là “phản trắc”. Năm 1311, vua Anh Tông ñi ñánh Chiêm Thành, ñến Lâm Bình thì
chia quân làm 3 ñạo, một ñạo ñi ñường núi, một ñạo ñi ñường biển, một ñạo ñi ñường
bộ, cùng ñến Chiêm Trại, dụ vua nước ấy là Chế Chí hàng, phong con Chí tước hầu.
Năm 1313, Chiêm Thành bị người Xiêm La xâm lược, vua sai ðỗ Thiên Hứ làm kinh
lược sứ Nghệ An và Lâm Bình ñem quân ñến cứu Chiêm Thành. Dụ Tông năm Thiệu
Khánh thứ 13, Quí Tỵ (1353), cử ñại quân ñi ñánh Chiêm Thành. Quân bộ ñến Cổ
Lũy, quân thủy không tiến ñược, bèn về. Chiêm Thành vào cướp Hóa Châu. Vua sai
Trương Hán Siêu ñem quân Thần Sách ñến giữ. Năm Tân Sửu (1361), vua cho Phạm
A Song làm tri phủ Lâm Bình (Châu Lâm Bình ñổi làm phủ không biết từ lúc nào).
ðến năm Bình Ngọ (1366), vua sai Trần Thế Hưng ñi ñánh Chiêm Thành ñến Chiêm
ðộng thì thua chết. ðến ñời Nghệ Tông, năm 1371, Chiêm Thành vào cướp, thuyền
vào cửa biển ðại An, ñến thẳng kinh kỳ, ñốt cướp rồi về.
Vua Duệ Tông lên ngôi năm 1373, xuống chiếu thân chinh Chiêm Thành, năm
Ất Mão (1375) ñổi Lâm Bình làm phủ Tân Bình, lấy người Thanh Hóa, Nghệ An, Tân
Bình, sửa ñường sá từ Cửu Chân ñến Hà Hoa. Lại sai Lê Quý Ly bắt Nghệ An, Tân
Bình và Thuận Hóa vận tải lương thực. Bấy giờ hai lộ Tân Bình và Thuận Hóa cùng
ba lộ Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, ñều xem là trọng trấn. Năm 1376, Chiêm
Thành ñến cướp Hóa Châu. Tháng 6, vua thân chinh ñi ñánh Chiêm Thành, quân ta
thua to, vua băng hà tại trận. Thừa dịp thắng thế, tháng 2 năm 1377, Chế Bồng Nga lại
xua quân tiến ra ñánh Thăng Long, Thượng hoàng sai ñem quân vào giữ cửa ðiện An,
nhưng quân Chiêm không vào cửa ðiện An mà vào cửa Thần Phù, rồi sau ñó tiến vào
Thăng Long cướp bóc. Năm 1378, Mậu ngọ, Chiêm Thành vào cướp nghệ An, rồi
ñánh sông ðại Hoàng, lại tiến ñánh Kinh Sư, cướp bóc rồi về. ðến năm 1382, quân
Chiêm ra ñánh cướp Thanh Hóa, ñánh tan quân của Lê Quý Ly. Năm 1384, Chiêm
Thành lại cướp Thanh Hóa, thuộc tướng của Lê Quý Ly và Nguyễn ða Phương ñánh
ñược, ñuổi theo ñến Nghệ An. Người Chiêm lại theo ñường biển vào cướp Kinh sư.
Vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại ngầm ñi ñường núi từ trấn Quảng Oai mà ra sách
Khổng Mục. huyện Mỹ Lương, trong khi quân thủy từ cửa biển vào sông ðại Hoàng,

thế rất dữ dội. Người Tân Bình và Thuận Hóa nhiều người làm phản theo giặc. Kinh
sư rung ñộng, vua sai ñại tướng Lê Mật Ôn chống cự, và ông ñã bị giặc bắt.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

19

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 2 (1389) tháng 10, Chiêm Thành ra ñánh
cướp ở Thanh Hóa, trong quân có nhiều người Tân Bình, Thuận Hóa. Vua sai Lê Quý
Ly ñem quân chống cự, tướng quân của Nguyễn Chí bị giặc bắt. Quý Ly trốn chạy về.
Tháng 11, Thượng hoàng sai Thượng tướng quân Trần Khát Chân ñem quân Long tiệp
ñi ñánh. Khát Chân ñến sông Hoàng, ñã gặp giặc rồi, nhưng chỗ ấy xem ra không thể
ñánh ñược, mới lui về ñóng ở sông Hải Triều. Tình hình rất nguy ngập, tháng giêng
năm sau, Chế Bồng Nga ñem hơn 100 chiến thuyền ñến xem hình thế trại quân Khát
Chân. Một tiểu thần của Bồng Nga, tên là Ba Lậu Kê, vì bị Bồng Nga trách phạt, sợ bị
giết, chạy trốn sang quân ta, chỉ cho ta biết ñâu là thuyền của vua Chiêm, Trần Khát
Chân ra lệnh cho quân bắn vào thuyền ấy, Bồng Nga bị trúng ñạn mà chết. Một tướng
của Bồng Nga tên là Lê Khải về nước, tiếm ngôi, lên làm vua (1390-1400).
Sau khi Chế Bồng Nga mất rồi, nhà Trần liền nghĩ ñến việc thu lại ñất cũ.
Tháng 2 năm Quang Thái thứ 4 (1394) sai Lê Quý Ly ñem quân ñi tuần Châu Hóa, xét
ñịnh quân ngũ, sửa, xây thành trì. ðất từ Hóa Châu trở ra lại trở về ðại Việt.
Nhiều quan chức Chiêm Thành ñã không phục La Khải và bỏ nước mà ñi. Năm
1397, tướng Chiêm là Chế ða Biệt cùng em là Mộ Hoa Từ Ca Diệp ñem gia ñình sang

hàng nhà Trần, nhà Trần sai ða Biệt trấn thủ Châu Hóa ñể chống giữ Chiêm Thành.
Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, ñổi Tân Bình làm trấn Tây Bình. Hồ Quý Ly
muốn lập một võ công ñể xoa dịu dư luận ñương buộc tội mình, nên liền nghĩ ñến việc
mở mang vùng ñất Thăng Hoa. Tháng 7, Quý Ly cử ñại binh ñi ñánh Chiêm Thành.
Vua nước Chiêm Thành là Ba ðích Lại dâng ñất Chiêm ðộng và Cổ Lũy ñộng. Quý
Ly nhận chia làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, ñặt An phủ sứ lộ Thăng Hoa ñể
cai trị. Lại lấy miền ñầu nguồn làm trấn Tân Ninh. ðem những dân không ruộng mà
có của dời ñến ở Thăng Hoa, biên làm quân ngũ, khuyên dân nộp trâu thì cho quan
tước ñể lấy trâu cấp cho dân di cư. Như vậy Chiêm Thành chỉ còn lại một nửa ñất ñai
mà 12 năm trước họ ñã chiếm ñược dưới thời Chế Bồng Nga.
Thời nhà Lê: sau một thời gian gần 20 năm bị quân Minh ñô hộ, năm 1418, Lê
Lợi khởi nghĩa giành ñược thắng lợi, lên ngôi vua. Sau khi ñã dựng xong nền ñại ñịnh,
triều ñình vẫn ñặt hai lộ Tân Bình và Thuận Hóa như ñời Trần và sai các trọng thần Lê
Khôi, Lê Chiết vào trấn thủ cho ñặt chức Tổng quản, Tri phủ xứ này.
Lúc này, người Chiêm thường sang châu Hóa (Bắc Quảng Nam, Thừa Thiên
ngày nay) cướp phá, triều ñình ðại Việt phản công quyết liệt nhưng vẫn bất phân
thắng bại. Năm 1470, quốc vương Chiêm Thành là Trà Toàn ñem quân thủy bộ ñánh
úp Châu Hóa. Vua Lê Thánh Tông liền cáo trong lẫn ngoài về việc ngoại xâm, nhà vua
thân chinh ñi ñánh dẹp. Quân của nhà vua ñóng ở Thuận Hóa, sai thủy quân Thuận
Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

20

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)


Hóa ra biển luyện tập, và sai Nguyễn Võ vẽ bản ñồ sông núi nước Chiêm Thành. Vua
ra tờ chiếu thông cáo với quốc dân, cùng thảo chiến thuật Bình Chiêm sách ban bố cho
quân rõ. Tháng 2, năm 1471, quân nhà vua ñánh phá Chà Bàn, bắt sống ñược Trà
Toàn. Tướng nước ấy là Bồ Trì chạy ñến Phan Lung, giữ ñất ấy xưng vương, chỉ còn
2/5 ñất nước, vua Chiêm sai người vào cống. Vua Thánh Tông nhân ñó chia ñất ñai
còn lại của Chiêm Thành làm 3 nước1 cho yếu thế ñi. Thánh Tông cho ñặt miền Vijaya
là phủ Hoài Nhân, tức tỉnh Bình ðịnh ngày nay.
Lúc mới ñuổi quân Minh, vua Thái Tổ chia nước làm 4 ñạo là Tây ñạo, ðông
ñạo, Nam ñạo, Bắc ñạo, ñem các phủ, lộ, trấn, châu, huyện và xã ñể thuộc vào ñạo.
ðến khi nước ñã yên, ñặt thêm ñạo Hải Tây, cho các lộ Thanh Hóa, Nghệ An, Tân
Bình, Thuận Hóa lệ thuộc vào.
ðến ñời vua Lê Thánh Tông tiến hành cải cách hành chính, chia nước làm 12
ñạo, ñó là các ñạo: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam sách, Quốc
Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.
Sau khi lấy ñất Chiêm Thành vua Thánh Tông ñặt làm ñạo Thừa tuyên Quảng
Nam, cộng trong nước là 13 Thừa Tuyên. Danh từ “Quảng Nam” bắt ñầu từ ñấy. ðạo
Thừa tuyên Quảng Nam thống lãnh 3 phủ, 9 huyện: Phủ Thăng Hoa có 3 huyện là Lê
Giang, Hà ðông, và Hi Giang. Phủ Tư nghĩa có 3 huyện là Bình Sơn, Mộ Hoa và
Nghĩa Giang. Phủ Hoài Nhân có 3 huyện là Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn.
Như vậy vùng ñất Thuận Quảng vốn không phải là ñất của nhà nước ðại Việt.
ðịa giới Chiêm thành lui mãi vào sau cửa thông quan, ñèo Ải Vân và thành những
Châu Hóa, Châu Thuận cho ñến tận sau ñời vua Lê Thánh Tông cũng chỉ thuộc về ðại
Việt trên danh nghĩa mà thôi, chứ triều ñình chưa thực sự quản lý ñất ñai, dân tình một
cách chặt chẽ.
`
Tóm lại khi nước ta thoát khỏi ách Bắc thuộc, vào thế kỷ thứ X thì Chiêm
Thành là một nước mạnh, ñối trỉ với nước ta. Người Chiêm là giống người hiếu chiến,
lại thiện chiến, thế rồi lại bị bắt buộc bỏ hết ñất ñai cho ta. Bởi vì người Việt không
hiếu chiến như họ mà khôn khéo nhẫn nại hơn, ngoài chiến tranh còn biết dùng nhiều
thủ ñoạn khôn khéo khác nữa ñể xâm lấn ñất ñai và từng bước xác lập chủ quyền.


1

Chiêm Thành (từ núi Thạch Bi trở vào Nam); Nam Bàn (Từ núi Thạch Bi trở về Tây); Hoa Anh (không khảo

cứu ñược).

1.2. Sự hình thành và phát triển xứ ðàng Trong:
Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

21

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

1.2.1. Bối cảnh lịch sử hình thành xứ ðàng Trong:
Nuớc Nam ta từ thời Hùng Vương, Triệu Vương ñến ðinh, Lý, Trần, Lê, sáu
triều ñại hưng phế tiếp nhau. Nhà Trần lại ñến lúc hết vận, quân nhà Minh kéo sang
xâm lược nước ta. Tướng giặc hung ác, dân ta bị giết hại khốn khổ. ðiều này ñược thể
hiện trong Bình Ngô ñại cáo của Nguyễn Trãi :
“Nướng dân ñen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con ñỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Trước tình cảnh ñó, vua Lê Thái Tổ, tức Lê Lợi vốn là người áo vải dấy nghĩa ở
ñất Lam Sơn, thu phục ñược giang sơn, ñánh ñuổi quân Minh ra khỏi nước ta. Dựng
lên triều Lê, cùng với Trung Quốc làm ñế một phương. Triều Lê truyền ngôi qua các
ñời Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông cho ñến Chiêu Tông hoàng ñế. ðầu thế kỷ

XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội ðại Việt mất dần cảnh thịnh trị, kinh tế
xa sút, nhân dân sống cực khổ, các vua Lê ăn chơi sa ñọa, quan lại tung hoành, nhũng
nhiễu dân chúng, các cuộc ñấu tranh của nhân dân nổ ra. Từ năm 1522, thế lực của
nhà Lê ngày càng tàn tạ. Dựa vào công lao của mình trong việc ñàn áp các cuộc khởi
nghĩa của nông dân và ñánh bại các thế lực chống ñối, thêm nữa là sự ủng hộ của một
số quan tướng. Thái phó nhân quốc công Mạc ðăng Dung tự quyền phế vua Chiêu
Tông, lập Lê Xuân lên làm vua. ðến năm 1527, ông bức vua Lê nhường ngôi lập ra
nhà Mạc. Trước hành ñộng cướp ngôi vua của Mạc ðăng Dung, vua Chiêu Tông phải
chạy ra ngoài, trở về ñất gốc Thanh Hóa, lấy làm hổ thẹn vì nỗi sinh linh phải chịu lầm
than. Vua bèn thu thập tàn binh diệt nhà Mạc, không may Chiêu Tông rơi vào tay Mạc
ðăng Dung rồi bị giết. Họ hàng con cháu của nhà Lê phải chạy trốn. Lúc ñó, người
con trai của Chiêu Tông là Lê Ninh còn thơ dại, bà mẹ sợ Mạc ðăng Dung trừ cỏ tận
gốc phải ôm con ñi lánh nạn ở tận Ai Lao. Bấy giờ cựu thần nhà Lê ñều theo về với
nhà Mạc mưu cầu danh lợi. Chỉ có viên tướng cũ là An Tĩnh hầu Nguyễn Kim, quê ở
Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, Trấn Thanh Hóa, ñã làm
quan dưới triều Lê ñược phong tước An Tĩnh Hầu. Vì lúc trước ở Thăng Long từng có
lần ngăn trở việc Mạc ðăng Dung xin quân nên Mạc ðăng Dung không vừa ý, bèn tức
giận giải tán bộ thuộc, lui về quê quán. Về sau ông vào trú ngụ ở Nghệ An, cũng nghĩ
sống an phận ñể bảo toàn mạng sống nhưng căm giận họ Mạc làm việc soán nghịch,
thấy cơ ñồ vương triều Lê ngày một suy vong, bề tôi một lòng theo giặc, Nguyễn Kim
vì thế ngày ñêm khóc thầm, bèn ñi khắp các nơi ở miền Thanh Nghệ chiêu tập hào
kiệt, nêu danh nghĩa phù lê diệt Mạc, ñược nhiều người hưởng ứng, về quy tụ. Sau khi
ñã chiêu tập ñược nghĩa quân, Nguyễn Kim bèn bàn với người họ Ngoại của vua
Chiêu Tông là Trịnh Duy Sản, sang Ai Lao tìm ñón Lê Ninh ñem về lập lên làm vua

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

22

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường



Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

(Tức Trang Tông), ñặt niên hiệu là Nguyên Hòa, cất dựng hành ñiện ở gần sông Tất
Mã1. Lại ñặt doanh ở sách Vạn Lại2 làm nơi ở, chiêu binh mãi mã, kêu gọi anh hùng,
dự trữ lương thảo, cùng nhau miêu ñồ việc khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim nhiều lần
ñánh nhau với quân Mạc giành ñược thắng lợi. Vì có công trong việc khôi phục lại
vương triều nhà Lê, nên Nguyễn Kim ñược phong làm Thượng phụ, Thái sư, Hưng
quốc công, nắm giữ mọi việc trong ngoài, giữ chức Thái tể, ðô tướng, Tiết chế các
dinh quân thủy, bộ. Thấy Nguyễn Kim là người có tài, chỉ trong một thời gian ngắn ñã
nhanh chóng khôi phục ñược cơ nghiệp nhà Lê nên nhà Mạc sai viên tướng là Trung
Hậu hầu3 sang trá hàng. Nguyễn Kim vì cả tin nên thu nhận, rồi sau ñó bị Trung Hậu
hầu ñầu ñộc mà chết, ñược tặng tước Chiêu Huân Tĩnh vương.
Về cái chết của Nguyễn Kim, Quốc sử chép như sau:
“Vua Lê thương tiếc, phong tặng cho tước Chiêu Huân tỉnh công, dùng hậu lễ
ñem táng ở núi Thiên Tôn ( Thuộc huyện Tống Sơn, Thanh Hóa). Tương truyền lúc
ñào huyệt trúng hàm rồng, khi ñặt quan tài xuống thì cửa huyệt ngậm lại, bỗng trời
ñất nổi gió sấm sét, mọi người hoảng sợ bỏ chạy. ðến lúc tạnh, trở lại thì núi ñá liên
tiếp, cây cỏ xanh tốt, không nhận ñược chỗ táng là nơi nào cả. Từ ñấy, khi cúng tế thì
chỉ trông vào núi tế vọng mà thôi”. [5: 26]
Nguyễn Kim chết, Nam triều rơi vào tình trạng khủng hoảng. Hữu tướng Trịnh
Kiểm, con rể của Nguyễn Kim tìm cách thâu tóm mọi quyền lực, hai người con trai
của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, hãy còn nhỏ chưa thể cầm nắm
việc quân, lại là phận em. Người con trai lớn của Nguyễn Kim là Lãng quận công
Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại và khống chế người con thứ là ðoan quận công
Nguyễn Hoàng ñể thao túng mọi hoạt ñộng của triều ñình nhà Lê. Nguyễn Hoàng cảm
thấy tính mạng mình luôn bị ñe dọa. ðể phòng thân và chờ cơ hội chống lại Trịnh

Kiểm, bề ngoài Nguyễn Hoàng tỏ ra thần phục, hòa thuận với anh rể, ông liền giả bệnh
ñể khỏi bị nghi ngờ. Nhưng bên trong, ông âm thầm tìm mọi cách ñể tạo dựng sự
nghiệp lâu dài cho họ Nguyễn. Ý ñồ này ñược thể hiện như sau:

1

Tức Sông Mã ở Thanh Hóa.

2

Nay là xã Vạn Lại, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa).
Tên tước của tướng nhà Mạc. ðại Nam thực lục tiền biên ghi là hoạn quan, tên là Trung, không rõ họ. Cương

3

mục ghi rõ họ tên là Dương Chấp Nhất, sau khi ñầu ñộc Nguyễn Kim lại trốn về với nhà Mạc.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

23

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


Luận văn tốt nghiệp

Chiến thắng Ấp Bắc (2 – 1 – 1963)

“ðến khoảng năm Thuận Bình ñời vua Lê Trung Tông, do có công, quận công
ñược tiến phong làm ðoan quận công. Bấy giờ Hữu tướng của triều Lê là Trịnh Kiểm

(bấy giờ tự xưng là lượng quốc công) cầm giữ binh quyền, chuyên chế mọi việc. Tả
tướng là Lãng quận công Uông, con trưởng của Triệu tổ (Tức Nguyễn Kim) bị Trịnh
Kiểm hãm hại. Kiểm thấy chúa (tức Nguyễn Hoàng) công danh ngày càng cao nên rất
ghét. Chúa thấy thế, trong lòng áy náy không yên, cùng bàn mưu với Nguyễn Ư Dĩ,
rồi cáo bệnh, cốt giữ mình cho kín ñáo ñể họ Trịnh hết ngờ.
Chúa nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Trung Am, xứ Hải Dương),
Trạng nguyên của triều Mạc, từng làm ñến Thái bảo ñã về trí sĩ là người giỏi về thuật
số, liền bí mật sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn hòn non bộ trước sân mà ngâm
rằng:
“Hoành sơn nhất ñái, vạn ñại dung thân” (Một dãy núi ngang, có thể dung thân
muôn ñời ñược). Sứ giả ñem câu ấy về thuật lại, chúa hiểu ý. Bấy giờ xứ Thuận Hóa
mới dẹp yên, tuy nhà Lê ñã ñặt Tam ty (ðô ty, Thừa ty, Hiến ty) và phủ huyện ñể cai
trị, nhưng nhân dân chưa một lòng. Kiểm ñương lấy làm lo, Chúa mới nhờ chị là Ngọc
Bảo nói với Trịnh Kiểm xin vào trấn ñất Thuận Hóa. Trịnh Kiểm thấy ñất ấy hiểm trở
xa xôi nên cho ngay. Anh Tông lên ngôi, Trịnh Kiểm dâng biểu nói:“ Thuận Hóa là
nơi quan trọng, quân và của do ñấy mà ra, buổi quốc sơ nhờ ñấy mà lên nghiệp lớn.
Nay lòng dân hãy còn giảo giở, nhiều kẻ vượt biển theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về
cướp, ví không ñược tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong. ðoan quận công là
con nhà tướng, có tài trí mưu lược, có thể sai ñi trấn chỗ ấy, ñể cùng với tướng trấn
thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới ñể lo ñến miền Nam”. Vua Lê nghe theo
và trao cho chúa trấn tiết1, phàm mọi việc ñể ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà
thôi”. [18: 28]
Ngay sau ñó, Nguyễn Hoàng xu xếp quân ñội ñi vào trấn thủ Thuận Quảng vào
cuối năm 1558. Từ ñó, con cháu họ Nguyễn thế tập giữ tước Quận công do vua Lê
ban cho. Khi mới vào trấn giữ Thuận Hóa, nghĩa dũng vùng Hương Khúc, Tống Sơn
và các nơi ở Thanh Hóa ñều vui vẻ theo ngài. ðến năm 1570, vua Lê cho gọi tổng binh
Quảng Nam là Nguyễn Bá ðông về trấn giữ Nghệ An. Cho Nguyễn Hoàng Kiêm lĩnh
luôn hai xứ Thuận – Quảng, mang ấn Tổng trấn tướng quân. Khi ấy, quân nhà Mạc
nhiều lần vào cướp vùng Thanh, Nghệ, giặc sợ uy danh của Nguyễn Hoàng nên không
dám ñánh vào, riêng vùng Thuận Quảng ñược yên ổn. Nguyễn Hoàng từ giã Tây ðô

vào Thuận Hóa, trong lòng vốn sẵn mối nghi ñối với người anh rể ñã ám hại anh ruột
mình, nhưng hai người vẫn giữ hòa hiếu. ðến khi Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lên
1

Cờ tiết vua trao cho làm huy hiệu của quyền trấn thủ.

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Khoa Năng Lập.

24

Sinh viên thực hiện: Trần Văn Cường


×