Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

cảm hứng về tình yêu lứa đôi trong truyện thơ nôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 163 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Ngọc Ánh

CẢM HỨNG VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI TRONG
TRUYỆN THƠ NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Ngọc Ánh

CẢM HỨNG VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI TRONG
TRUYỆN THƠ NÔM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ THU YẾN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt luận văn này, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, tôi còn
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ quý báu từ các đơn vị và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với cô Lê Thu Yến, người đã hết lòng chỉ bảo và
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Xin gởi lời tri ân chân thành đến cô.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý Thầy, Cô trong Khoa Ngữ Văn của Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu,
cũng như tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cũng chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Thư viện Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình, bạn bè, người thân cùng
các đồng nghiệp đã không ngừng động viên, hỗ trợ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện luận văn của mình. Chân thành biết ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 10 năm 2013
Tác giả

Phạm Ngọc Ánh

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
DẪN NHẬP .................................................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................5
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ............................................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................8

5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................9
6. Những đóng góp của luận văn .......................................................................................9
7. Kết cấu luận văn ...........................................................................................................10

CHƯƠNG 1: MẤY VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG .................................................. 11
1.1. Truyện thơ Nôm .........................................................................................................11
1.1.1. Sự ra đời và phát triển ...........................................................................................11
1.1.2. Vấn đề phân loại ....................................................................................................12
1.1.3. Nội dung ................................................................................................................13
1.1.4. Hình thức ...............................................................................................................14
1.2. Khái niệm cảm hứng..................................................................................................15
1.3. Khái niệm tình yêu.....................................................................................................18
1.4. Chủ đề tình yêu trong văn học..................................................................................20

CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI TRONG TRUYỆN THƠ
NÔM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG...................................................... 25
2.1. Ca ngợi tình yêu tự do ...............................................................................................25
2.1.1. Yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên ................................................................................25
2.1.2. Chủ động trong tình yêu ........................................................................................32
2.1.3. Yêu nhau theo tiếng nói trái tim ............................................................................42
2.2. Đấu tranh bảo vệ tình yêu, hạnh phúc .....................................................................46
2.2.1. Những biến cố xảy ra ............................................................................................46
2.2.2. Hi sinh vì tình yêu .................................................................................................54
2.2.3. Vượt qua gian khó .................................................................................................61
2.3. Khát vọng tình yêu.....................................................................................................68
2.3.1. Khát vọng tình yêu đẹp .........................................................................................68
2.3.2. Khát vọng hạnh phúc ái ân ....................................................................................72
2



CHƯƠNG 3: CẢM HỨNG VỀ TÌNH YÊU LỨA ĐÔI TRONG TRUYỆN THƠ
NÔM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ............................................... 80
3.1. Nhân vật ......................................................................................................................80
3.2. Ngôn ngữ .....................................................................................................................86
3.2.1. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................................86
3.2.2. Từ tự xưng .............................................................................................................97
3.2.3. Từ ngữ mang chức năng biểu cảm ......................................................................108
3.2.4. Điển cố ................................................................................................................116
3.2.5. Thành ngữ, tục ngữ .............................................................................................128
3.3. Giọng điệu .................................................................................................................135
3.3.1. Giọng cảm thông .................................................................................................135
3.3.2. Giọng mỉa mai .....................................................................................................140
3.3.3. Giọng tự vấn ........................................................................................................145
3.4.4. Giọng triết luận, bàn bạc .....................................................................................153

PHẦN TỔNG KẾT ................................................................................................. 157
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 159

3


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Tình yêu tự nó ẩn chứa một sức mạnh vô hình và mạnh mẽ. Đề tài tình yêu là
muôn thuở, tồn tại song hành cùng thời gian. Chẳng thiếu những tác phẩm điêu khắc,
những bài ca, tranh vẽ… ca ngợi vẻ đẹp bất tận của nó. Tùy từng thời kỳ mà nó được
khoác lên mình bộ cánh khác nhau: Khi thì uyển chuyển nhẹ nhàng, khi thướt tha và
quyền quý, khi lại dân dã bộc trực, lúc lại quẫy đạp ngang tàng…
Tình yêu cũng là một đề tài vĩnh cửu trong văn học. Hễ có thơ có văn là phải
có tình yêu, nếu không muốn nói là chính nhờ có tình yêu mà con người mới dạt dào

cảm hứng để sáng tác nên những vần thơ óng ả cũng như những câu văn trau chuốt.
Sự đẹp đẽ và linh thiêng của tình yêu vốn đã được cha ông chúng ta nhận ra và ca
ngợi từ lâu. Từ khi còn nhỏ, con người đã biết yêu. Xuất phát đầu tiên là tình mẫu tử,
phụ tử, tình anh em ... và rộng hơn là tình yêu tổ quốc. Trong vô vàn những cung bậc
tình cảm ấy, tình yêu lứa đôi là một nốt nhạc vang lên du dương khiến xao xuyến
lòng người hơn bao giờ hết. Tình yêu trong thơ văn hướng ta đến những khát khao,
ước vọng tốt đẹp trong cuộc sống, giúp ta vượt qua những khó khăn, trắc trở lứa đôi,
đôi khi còn khiến ta thêm giữ vững tình cảm trong lòng.
Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học ở mọi giai đoạn từ văn
học dân gian truyền miệng đến nền văn học viết từ xưa đến nay. Nhắc đến những bài
thơ tình ta không khỏi nhớ đến những câu ca dao chuyển tải bao lời hò hẹn, nhớ
nhung của cha ông ta thuở trước, hay gần ta hơn như những nhà thơ thời nay: Xuân
Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận, Đỗ Trung Quân, Phan Thị Thanh Nhàn... Họ là những
nhà thơ trong giai đoạn thơ văn hiện đạị. Nhưng đã là người Việt Nam thì thật thiếu
sót nếu ta không nhớ đến kho tàng văn chương của cha ông từ ngàn xưa để lại: các
sáng tác về tình yêu trong văn học trung đại.
Văn học phản ánh cuộc sống con người vì thế địa hạt tình yêu trở thành mảnh
đất màu mỡ cho văn học, trong đó văn học trung đại đóng góp khối lượng lớn những
tác phẩm viết về tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng. Từ những tác giả khuyết danh

4


đến các tác giả hữu danh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du,
Đoàn Thị Điểm,….đều để lại cho hậu thế những tuyệt tác về tình yêu.
Truyện thơ Nôm là một trong những thể loại phát triển mạnh mẽ trong giai
đoạn trung đại. Qua truyện thơ Nôm, chúng ta có thể tìm hiểu về nếp sống, phong
tục, truyền thống văn hóa…của dân tộc mình. Những truyện thơ Nôm về tình yêu thể
hiện rất rõ đời sống tình cảm, quan niệm và cách ứng xử của cha ông trong tình
yêu.Chúng ta có quyền tự hào về những tác phẩm bất hủ về tình yêu như Truyện

Kiều, Phạm Tải-Ngọc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Sơ kính tân trang, …Rất nhiều tác
phẩm được dịch sang tiếng nước ngoài và nhận được sự ủng hộ, đánh giá cao của bạn
đọc quốc tế. Chúng ta ngày càng có nhiều hơn các công trình khoa học nghiên cứu
truyện thơ Nôm giá trị ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, tìm hiểu các tác phẩm
thuộc thể loại này viết về tình yêu đôi lứa một cách tập trung thì hầu như chưa có
chuyên luận nào.
Vì tất cả những lí do trên, tôi chọn“Cảm hứng tình yêu lứa đôi trong truyện
thơ Nôm” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Với đề tài này, tôi mong
muốn tìm hiểu vẻ đẹp của những câu chuyện tình trong các truyện thơ Nôm và nghệ
thuật thể hiện tình yêu trong các sáng tác ấy, góp phần đánh giá toàn diện hơn giá trị
các truyện thơ Nôm viết về tình yêu giai đoạn văn học trung đại. Đồng thời, tôi mong
rằng có thể rút ra ở đó những bài học hay và đẹp về văn hóa ứng xử của đôi lứa.
2. Lịch sử vấn đề
Trước hết là công trình biên soạn các truyện kể về tình yêu có thể kể đến như
cuốn Việt Nam phong tình cổ lục của tác giả Vũ Ngọc Khánh. Tác giả đã sưu tầm và
giới thiệu cho chúng ta một kho tàng phong phú về chuyện tình yêu của con người
Việt Nam, những con người thật, những danh tướng, nhà chí sĩ, nhà thơ, những người
nổi tiếng trong lịch sử và cả những người nổi tiếng trong lĩnh vực văn chương. Sự gợi
ý của giáo viên hướng dẫn và ảnh hưởng của tập sách này đã khơi gợi ở tôi mong
muốn tìm hiểu đề tài.
Tính đến nay, chúng tôi chưa tìm thấy bất cứ công trình nghiên cứu khoa học
nào đề cập đề tài “Cảm hứng tình yêu lứa đôi trong các truyện thơ Nôm” hoặc có
5


nội dung tương tự.Tuy nhiên, chúng tôi cũng tham khảo được nhiều ý kiến từ các
nghiên cứu về các tác phẩm thơ Nôm hoặc đề tài của thể loại truyện thơ Nôm ít
nhiều nhắc đến vấn đề tình yêu.Chúng ta có thể điểm qua một số công trình như:
• Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa học Xã
hội Hà Nội.

Tác giả đã đề cập đến mối tình Kim Kiều và khẳng định nàng Kiều đã vượt qua
khuôn khổ lễ giáo phong kiến để tìm đến tình yêu tự do.
• Nguyễn Thị Ngọc Lan (1996),Vấn đề giới tính trong văn học cổ Việt Nam giai
đoạn thế kỉ XVIII- thế kỉ XIX, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Công trình đã khẳng định vấn đề giới tính trong đó có đề cập tới tình yêu nam nữ
như một biểu hiện trạng thái tâm lí tự nhiên của con người với vẻ đẹp nhân bản.
• Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
Khi viết về truyện thơ Nôm, tác giả đã khái quát hình ảnh con người trong truyện thơ
Nôm đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ: “những con người chủ động trong tình yêu,
rất tích cực đấu tranh bảo vệ hạnh phúc”
• Nguyễn Mạnh Hùng (2000), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Trong tài liệu trên có trích dẫn bài viết “Xung đột nghệ thuật và tư tưởng thẩm mĩ của
Hoa Tiên”, trong đó tác giả bài viết đã chỉ ra tư tưởng của tác phẩm Hoa Tiên là ca
ngợi tình yêu tự do, đồng thời là tư tưởng giải phóng tình cảm, thể hiện tinh thần hòa
hợp giữa tình yêu của cá nhân tự do với nghĩa vụ.
• Bùi Duy Tân (2001), Khảo luận một số thể loại tác giả - tác phẩm văn học
trung đại tập 2, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Công trình này đề cập ba tác phẩm viết về tình yêu gồm Truyện Song Tinh, Chinh
phụ ngâm và Truyền kì tân phả. Đồng thời, tác giả khẳng định các tác phẩm trên hoặc
ca ngợi tình yêu tự do, hoặc ca ngợi sức mạnh tình yêu,sự chung thủy, gắn bó, chống
6


lại các thế lực cường quyền, hoặc than thở cho hạnh phúc lứa đôi khi bị chiến tranh
làm cho trắc trở.
• Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Mô típ tài tử giai nhân từ truyện Hoa Tiên đến Mai
Đình Mộng kí”, Văn học trung đại Việt Nam - Quan niệm con người và tiến

trình phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Bài viết khẳng định hình ảnh tài tử giai nhân trong các sáng tác thường xây dựng theo
mô hình lí tưởng về sự cuốn hút bởi vẻ bề ngoài cũng như tài năng theo quan niệm
“gái tham tài, trai tham sắc”. Thêm vào đó là sự đồng điệu của hai tâm hồn, say mê,
đam mê trong tình yêu. Ba yếu tố này tạo nên những mối tình đẹp trong truyện Hoa
Tiên và Mai Đình Mộng kí.
• Triệu Thùy Dương (2010), Văn hóa ứng xử người việt trong truyện thơ Nôm,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Công trình này đã trình bày văn hóa ứng xử người Việt trong truyện thơ Nôm,
trong đó một phần nhỏ đề cập đến tình yêu đôi lứa trong các truyện thơ Nôm.
• Hoàng Hữu Yên (2011), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Đại học Sư phạm.
Viết về truyện thơ, Hoàng Hữu Yên nhận địnhca ngợi tình yêu tự do, nêu lên khát
vọng cuộc sống lứa đôi ngoài khuôn khổ lễ giáo chính thống là đề tài phổ biến và rất
hấp dẫn của nhiều truyện thơ. Hoa tiên, Bích Châu kì ngộ, Sơ kính tân trang, Phan
Trần xứng đáng là những bản tình ca réo rắt và diễm lệ, trong trắng, chân thành và
tha thiết.
• Kiều Thu Hoạch (2011), Truyện Nôm lịch sử hình thành và bản chất thể loại,
Nxb Văn hóa Thông tin.
Khi viết về chức năng tư tưởng và thẩm mĩ của truyện Nôm, Kiều Thu Hoạch viết
rằng truyện Nôm thường chỉ thiên về lựa chọn loại đề tài tình yêu lứa đôi cùng với
chủ đề đấu tranh bảo vệ tình yêu chung thủy, bảo vệ gia đình, các tác giả không thể
không quan tâm tới vấn đề hôn nhân tự do như là một chủ đề cơ bản.

7


• Lê Thu Yến (2011), Văn hóa ứng xử người Việt thể hiện qua tình yêu Kim
Kiều,www.hcmup.edu.vn.

Công trình này nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt thể hiện qua tình yêu của
Kim Trọng và Thúy Kiều- hai nhân vật chính trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trên đây tôi đã ghi lại một số công trình có liên quan ít nhiều đến đề tài “Cảm
hứng tình yêu đôi lứa trong truyện thơ Nôm”. Như đã nói ở trên, hiện nay chưa có bất
cứ công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về vấn đề tình yêu trong văn học trung đại một
cách có hệ thống. Vì thế, trong khuôn khổ tài liệu mà tôi có được, tôi vô cùng trân
trọng những ý kiến, đề xuất khoa học của những người đi trước. Những tài liệu quý
giá trên sẽ là những định hướng cho tôi trong việc tìm hiểu vẻ đẹp tình yêu trong các
tác phẩm mà tôi tiếp nhận được.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn góp phần nhỏ của mình trong việc tìm
hiểu giá trị nội dung cũng như nghệ thuật thể hiện tình yêu trong các truyện thơ Nôm.
Mặt khác, qua những tác phẩm văn học ấy, người viết cố gắng tìm hiểu những giá trị
văn hóa dân tộc mình bởi lẽ hơn ở đâu hết văn học chính là kết tinh của tư tưởng tình
cảm, của văn hóa dân tộc. Từ đó, người viết mong mỏi chia sẻ và nhận được sự đồng
tình, đặc biệt của các bạn trẻ về tình yêu đẹp cũng như lối sống đẹp trong tình yêu cha
ông ta truyền dạy.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, người viết sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại được sử dụng trong quá trình sưu tầm tác
phẩm cũng như các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp so sánh đối chiếu được sử dụng trong so sánh đối chiếu các tác
phẩm cùng vấn đề giữa các giai đoạn văn học khác nhau cũng như trong các
sáng tác của các tác giả với nhau.
- Phương pháp lịch sử: Trong quan niệm tình yêu cha ông ta, có những giá trị
sống đẹp trường tồn trong từng tác phẩm vượt qua không gian và thời gian, vì
lẽ đó phương pháp lịch sử là không thể thiếu trong quá trình triển khai đề tài.
8



- Phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tình yêu vốn là câu chuyện muôn thuở. Sáng tác về tình yêu cũng vì thế vô
cùng đồ sộ và phong phú. Trong giới hạn đề tài này, chúng tôi chỉ xin tìm hiểu cảm
hứng tình yêu trong các sáng tác truyện thơ Nôm văn học trung đại. Thuộc giai đoạn
văn học này, ta cũng thấy sự nở rộ của các thể loại văn học một cách đa dạng từ thơ,
văn đến các truyện thơ cùng viết về tình yêu. Riêng với đề tài tình yêu thì truyện thơ
Nôm là đề tài có thế mạnh hơn cả ở giai đoạn văn học này.Vì lẽ đó, trong quá trình
khảo sát, người viết sẽ hướng đến các truyện thơ về tình yêu, bao gồm cả truyện thơ
khuyết danh và các sáng tác của các tác giả như sau:Truyện Phan Trần (khuyết danh),
Phạm Công - Cúc Hoa (khuyết danh, Phạm Tải - Ngọc Hoa (khuyết danh) , Tống
Trân - Cúc Hoa (khuyết danh), Thoại Khanh – Châu Tuấn (khuyết danh), Thạch Sanh
tân truyện (khuyết danh), Nhị độ mai (khuyết danh), Châu sơ kim kính lục (khuyết
danh), Vân Trung Nguyệt kính tân truyện (khuyết danh), Trương Viên truyện (khuyết
danh), Lâm Tuyền kỳ ngộ (khuyết danh), Hồng hoan lương sử (khuyết danh), Phương
Hoa (khuyết danh), Hoàng Trừu (khuyết danh), Hoàng Tú tân truyện (khuyết danh),
Mã Phụng – Xuân Hương (khuyết danh), Lý Công (khuyết danh), Bạch Viên tân
truyện (khuyết danh), (Bích Câu kỳ ngộ (Vũ Quốc Trân), Truyện Tây Sương (Lý Văn
Phức), Truyện Ngọc Kiều Lê (Lý Văn Phức), Song Tinh bất dạ (Nguyễn Hữu Hào),
Truyện Sơ kính tân trang (Phạm Thái), Hoa tiên (Nguyễn Huy Tự), Phù dung tân
truyện (Trúc Lâm Cư Sĩ), Từ Thức tân truyện (Lê Khắc Nguyên), Nữ tú tài (Đinh Gia
Thuyết), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu).
6. Những đóng góp của luận văn
Trong luận văn, người viết sẽ chỉ ra những giá trị nội dung cũng như nghệ
thuật thể hiện tình yêu trong các sáng tác truyện thơ Nôm giai đoạn văn học trung đại.
Luận văn dùng các sáng tác văn học dân gian như nguồn tư liệu quý giá và là
kho kinh nghiệm đúc kết bao đời của cha ông để soi chiếu vào các sáng tác tình yêu
9



truyện thơ Nôm, từ đó cố gắng chỉ ra và hệ thống những nét đẹp trường tồn vốn đã
trở thành chuẩn mực cho lối sống và quan niệm sống của người Việt Nam ta.
Luận văn cũng mong muốn trở thành chiếc cầu nối bạn đọc ngày nay với
những sáng tác mang giá trị văn hóa của cha ông ta ngày xưa để cảm nhận cái hay,
cái đẹp, để bảo tồn và phát huy giá trị sống đẹp, đặc biệt là trong địa hạt tình yêu.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, bố cục luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung
Trong chương này, chúng tôi chủ yếu trình bày khái quát về nội dung các khái
niệm tình yêu, tình yêu đôi lứa cũng như sự ra đời và phát triển, vấn đề phân loại bên
cạnh nội dung, hình thức của truyện thơ Nôm của người Việt, các khái niệm về cảm
hứng cũng như nguồn gốc vấn đề tình yêu trong văn học trung đại.
Chương 2: Cảm hứng về tình yêu lứa đôi trong truyện thơ Nôm nhìn từ phương diện
nội dung
Ở chương này, chúng tôi tìm hiểu giá trị nội dung của các truyện thơ Nôm về
mặt nội dung: ca ngợi tình yêu tự do, đấu tranh bảo vệ tình yêu và hạnh phúc cùng
những khát vọng trong tình yêu. Trong tương quan so sánh những giá trị đó trong
mạch nguồn truyền thống văn hóa dân tộc mà chủ yếu thông qua văn học dân gian,
chúng ta sẽ thấy được sức sống của truyền thống văn hóa Việt trong từng sáng tác
cũng như trong tâm lý tiếp nhận của người đọc.
Chương 3: Cảm hứng về tình yêu lứa đôi trong truyện thơ Nôm nhìn từ phương diện
nghệ thuật
Ở chương này, chúng tôi tìm hiểu nghệ thuật thể hiện tình yêu đôi lứa trong
các truyện thơ Nôm, trong đó tập trung vào các phương diện như: ngôn ngữ, nhân vật
và giọng điệu.

10



CHƯƠNG 1: MẤY VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Truyện thơ Nôm
1.1.1. Sự ra đời và phát triển

Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học
phong kiến Việt Nam. Giá trị của truyện thơ Nôm đã khẳng định qua thời gian tồn tại
của nó và lòng yêu thích của quần chúng nhiều thế hệ. Bộ phận văn học này được
sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc
nhất với quần chúng. Một sốviết theo thể thơ Ðường luật.
Theo Đặng Thanh Lê “Sự ra đời của truyện Nôm bắt nguồn từ một yêu cầu
phản ánh xã hội với những nội dung thời đại cũng như với những điều kiện thực tiễn
của bản thân thời đại ấy (…)truyện Nôm là sản phẩm văn học vào thời kì phong kiến
suy tàn, mang ý nghĩa phản ánh một thời kì bùng nổ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp
dưới chế độ phong kiến” [22, tr.57]. Từ thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam
ngày càng bộc lộ những mâu thuẫn trầm trọng. Trong đó nổi bật hai mâu thuẫn cơ
bản: thứ nhất là mâu thuẫn giữa nội bộ giai cấp phong kiến thống trị và thứ hai là mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị với nhân dân lao động. Nội chiến phong kiến giữa nhà
Trịnh với nhà Nguyễn, nhà Trịnh với nhà Mạc kéo dài. Các cuộc khởi nghĩa nông dân
liên tiếp diễn ra. Xã hội liên tiếp biến động kéo theo đó là sự lung lay nền tảng đạo
đức của chế độ phong kiến, làm nảy sinh những tư tưởng nhân văn của thời đại, đồng
thời cũng là tư tương nhân văn trong các truyện thơ Nôm. Về lực lượng sáng tác,
ngoài các tác giả bình dân khuyết danh, tham gia vào lực lượng sáng tác các truyện
thơ Nôm giai đoạn này còn có những nho sĩ có nhãn quan tiến bộ và cuộc sống gần
gũi nhân dân lao động.
Về nguồn gốc ra đời, nguồn gốc đầu tiên của các truyện thơ Nôm có lẽ là
những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong được thêm thắt về mặt nội dung, nghệ
thuật và đến một lúc nào đó được ghi lại thành sách, chính thức trở thành một truyện
Nôm. Ví dụ như Trương Chi, Tấm Cám… Nguồn gốc ra đời thứ hai của các truyện
thơ Nôm là các nhà chùa. Một số nhà sư có học đã diễn Nôm một số sự tích trong

kinh Phật nhằm truyền bá đạo Phật, tiêu biểu như Quan âm tống tử bản hạnh (dạng
11


cổ của Quan âm Thị Kính sau này), Nam Hải Quan âm bản hạnh (dạng cổ của truyện
Bà Chúa Ba)…
Về hình thức lưu truyền, truyện Nôm ra đời và tồn tại đầu tiên dưới hình thức
truyện thơ Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện thơ Nôm
truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử
dụng loại hình văn học này để sáng tác hoặc ghi chép lại những truyện thơ Nôm đã có
từ trước. Từ đó xuất hiện truyện Nôm viết. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định
được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào nhưng chắc chắn trước thế kỉ
XVIII, truyện Nôm lục bát đã xuất hiện và đã có những thành tựu nhất định với đỉnh
cao chói lọi là Truyện Kiều (Nguyễn Du).
Tóm lại, truyện thơ Nôm là bộ phận văn học ra đời và phát triển từ thế kỉ XV
đến thế kỉ XIX. Thời kì phát triển cực thịnh của nó là từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX.
Cho đến đầu thế kỉ XX, việc sáng tác truyện thơ Nôm dần dần chấm dứt vì các thể
loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó.
1.1.2. Vấn đề phân loại

Hiện nay, người ta tiến hành phân loại các truyện thơ Nôm theo ba cách sau:
* Phân loại dựa vào nguồn gốc đề tài: có 3 loại
- Truyện thơ Nôm lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian như: Trương Chi, Tấm
Cám, Thạch Sanh…
- Truyện thơ Nôm có nguồn gốc đề tài từ văn học Trung Quốc như: Truyện
Hoa Tiên, Nhị Độ Mai, truyện Phan Trần…
- Truyện lấy đề tài từ những sự tích ở Việt Nam như: Bích Câu kì ngộ, Tống
Trân Cúc Hoa…
* Phân loại dựa vào tác giả:
Theo Nguyễn Thị Chiến [3, tr.11] trước những năm 1960 đã xuất hiện quan

điểm chia truyện Nôm thành hai loại: truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết
danh.
-Truyện Nôm hữu danh: là những truyện còn tên tác giả như truyện Hoa Tiên
(Nguyễn Huy Tự), truyện Song Tinh (Nguyễn Hữu Hào), Truyện Kiều (Nguyễn
12


Du)… Tuy nhiên loại này còn lại không nhiều nhưng hầu hết truyện Nôm hữu danh
đều là truyện Nôm bác học.
- Truyện Nôm khuyết danh: là những truyện không còn tên tác giả:Tống Trân
Cúc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Thoại
Khanh Châu Tuấn… Hầu hết các truyện Nôm khuyết danh đều là truyện Nôm bình
dân.
* Phân loại dựa vào nội dung và hình thức: có 2 loại
-Truyện Nôm bình dân: Do các nho sĩ bình dân sáng tác nên có nội dung mang
đậm tính dân dã của người dân lao động và nghệ thuật mộc mạc, giản dị. Ví dụ: Tống
Trân Cúc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương,
Thoại Khanh Châu Tuấn…
-Truyện Nôm bác học: Do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác nên có nội
dung phức tạp, tình tiết, tâm lí nhân vật và nghệ thuật điêu luyện hơn so với truyện
Nôm bình dân. Ví dụ: Truyện Song Tinh, Phan Trần, Nhị độ mai, Truyện Kiều…
Sự khác nhau giữa hai loại truyện này là ở trình độ tác giả, chủ đề tác phẩm,
thao tác nghệ thuật, loại hình nhân vật.
Trong luận văn này, người viết sử dụng cách phân loại dựa vào đặc điểm nội
dung và hình thức vì cách phân loại này có cơ sở phân loại khoa học hơn cả.
1.1.3. Nội dung

Một trong những nội dung chính của truyện thơ Nôm giai đoạn thế kỉ XVIII XIX là tình yêu nam nữ. Trong các truyện Nôm bình dân, các tác giả đã xây dựng
những mối tình chung thủy, sắt son của những con người ở những hoàn cảnh trái
nhau. Hầu hết các mối tình đều nảy sinh từ một bên là các cô công chúa, hoặc tiểu

thư con nhà quyền quý giàu sang, với một bên là các chàng trai tuy có tài, nhưng đều
đang trong hoàn cảnh khó khăn. Đây đều là các mối tình vượt ra khỏi khuôn khổ của
lễ giáo phong kiến.
Nội dung thứ hai là vấn đề tình vợ chồng, hay rộng hơn là vấn đề gia đình trong
thời kì tan rã của chế độ phong kiến. Đó là cuộc đấu tranh để bảo vệ tình nghĩa vợ
13


chồng, bảo vệ gia đình, chống lại những nguy cơ làm nó tan vỡ. Ngoài ra, truyện
Nôm bình dân còn đề cao lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.
Với chủ đề đề cao con người và cuộc sống hiện thực, truyện Nôm cũng đã tố
cáo bộ mặt thối nát của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến từ quan lại, tầng
lớp quý tộc đến bọn nhà giàu phú hộ.Quan lại, sai nha vòi tiền, cảnh mua thịt bán
người, cảnh sống khốn khổ của nhân dân…được thể hiện rõ trong các truyện Nôm,
góp phần tái hiện chân thực và sống động bức tranh hiện thực cuộc sống.
1.1.4. Hình thức

Phần lớn những truyện Nôm tiêu biểu đều có một kết cấu cơ bản giống
nhau:Câu chuyện diễn biến theo trật tự thời gian, việc gì xảy ra trước kể trước, việc gì
xảy ra sau kể sau. Người kể luôn luôn đứng ở ngôi thứ ba và bao giờ cũng ghi nhớ
câu chuyện mình đang kể là thuộc về thời quá khứ.
Cốt truyện của truyện Nôm có hai đặc điểm đáng chú ý. Thứ nhất, những tình
tiết, những sự kiện trong truyện không có ý nghĩa khách quan chân thực của nó mà
chỉ có tác dụng soi sáng hay tô đậm cho tính cách nhân vật. Ví dụ như trong truyện
Lý Công, nàng công chúa bị chặt chân tay, xẻo mắt mũi nhưng vẫn sống hay như
nhân vật Phạm Công trong truyện Phạm Công - Cúc Hoa xuống tận địa phủ để tìm
vợ…Thứ hai, kết thúc của truyện Nôm có hậu giống truyện cổ tích.
Tóm lại, cấu trúc của truyện Nôm, cả bình dân lẫn bác học, đều có chung mô
hình: gặp gỡ - tai biến -đoàn tụ với kết thúc bao giờ cũng có hậu. Có thể nói cấu trúc
theo lối kết thúc có hậu của truyện Nôm là quy luật có tính tất yếu và là đặc trưng

mang tính loại biệt của thể loại truyện Nôm.
Về mặt ngôn ngữ, truyện Nôm bác học hầu hết đều là sản phẩm của các nhà thơ
có trình độ học vấn cao do đó ngôn ngữ tác phẩm bao giờ cũng gọt giũa, sử dụng
nhiều điển cố,thành ngữ Hán, ngôn ngữ ước lệ tượng trưng…. Ngay khi nói đến
những chuyện tế nhị, cũng phải sử dụng ngôn ngữ ước lệ để tránh sự dung tục, ví dụ
như đoạn nói về Kiều thất thân với Mã Giám Sinh:
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
14


Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương…
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Nói đến duyên tình, các tác giả hay dùng: tơ hồng, xích thằng, trăng già, nguyệt
lão xe tơ, phượng loan, sắt cầm… Để chỉ sự xa cách, tác giả dùngNgưu lang - Chức
nữ, cầu Ngân… Tuy nhiên, ngôn ngữ của truyện Nôm bác học cũng sử dụng các từ
ngữ đời thường, bởi truyện Nôm vốn là một thể loại sinh thành và phát triển từ nguồn
văn hóa dân gian. Thể Loan khi tiễn Vân Tiên lên kinh ứng thí cũng mượn ca dao
nhắn nhủ chàng:
Xin đừng tham đó bỏ đăng
Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn
(Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)
Truyện Nôm bình dân sử dụng ngôn ngữ giàu chất sống, mộc mạc, nôm na, có
nhiều khẩu ngữ, tục ngữ, thành ngữ.
Nhìn chung việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ và ca dao là khá nhiều,không chỉ
trong truyện Nôm bình dân mà còn ở cả truyện Nôm bác học. Thành ngữ, tục ngữ, ca
dao giúp cho tiếng nói của nhân vật thông minh, sắc sảo hơn, hữu tình hơn.
Với một số lượng truyện lớn, có nội dung khá tiến bộ và hình thức nghệ thuật
thấm đẫm tính dân tộc, truyện Nôm đã biểu hiện một cách độc đáo và sâu sắc truyền

thống nhân đạo và tâm tình mộc mạc của con người Việt Nam, tiếng nói tình cảm cất
lên sau những lũy tre làng và vang vọng mãi đến bây giờ.
1.2. Khái niệm cảm hứng
Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn,
thấy ngoại cảnh mà có hứng, muốn nói lên nỗi lòng mình, cảnh tình riêng của
mình.Có thể hiểu, thi ca là tất cả những gì thuộc tình cảm và lý trí chịu sự chi phối
của cảm xúc, của tình cảm. Thi tiên nổi tiếng đời Đường- Lí Bạch- từng ngâm nga:
“Hứng hàm lạc bút dao ngũ nhạc” (Khi cảm hứng say sưa, hạ ngọn bút làm rung
chuyển năm núi lớn)(Giang thượng ngâm).
15


Nguyễn Quýnh đề cao “cái hứng” trong thơ: “Người như sông biển, chữ như
nước, hứng thì như gió, gió thổi từ sông biển cho nên nước lay động làm thành gợn,
thành sóng, thành ba đào. Hứng chạm vào người ta cho nên chữ nổi dậy, không thể
nín được mà sinh ra ở trong lòng, ngâm vịnh ở ngoài miệng, viết ra ở bút nghiên,
giấy mực. Gió không bám vào chỗ nào nhất định, hứng cũng biến động, không ở yên,
mỗi cái tuy ở Đông, Tây, Nam, Bắc mà buột ra rất nhanh. Người làm thơ không thể
không có gió vậy”. Không chỉ thế, Nguyễn Quýnh khẳng định: “Người làm thơ không
thể không có hứng, cũng như tạo hóa không thể không có gió vậy…Tâm người ta như
chuông như trống, hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chuông trống
khiến chúng phát ra tiếng; hứng đến khiến người ta bật ra thơ”[15, tr 104]. Vậy,
không thể có thơ nếu không xúc động, hoặc nếu hồn không rung động cho lời buông
theo.
Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực nhà thơ phải hướng con người tới cái đẹp
bằng sự lên tiếng, bằng sự thăng hoa cảm xúc của chính mình. Vì vậy, cảm hứng
trong tác phẩm phải được nhà thơ biểu hiện qua mạch tư tưởng – cảm xúc chủ đạo,
qua sự lí giải các vấn đề đặt ra, qua giọng điệu…Khi đi sâu vào bản chất của cảm
hứng trong tác phẩm văn học, Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương trong Lí luận
văn học, vấn đề và suy nghĩ, nêu khái niệm cảm hứng: “Cảm hứng là sự thiết tha và

nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó”[25, tr 208]. Lẽ tất nhiên, tư
tưởng đó phải là tư tưởng lành mạnh, tiến bộ, cao đẹp. Tác phẩm văn học không chỉ
là chiếc gương soi của cuộc sống mà còn là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, nên ngoài việc tái hiện đời sống, văn học còn thể hiện tư tưởng, quan niệm và
sự lí giải của nhà văn đối với hiện thực được mô tả. Sự lí giải ấy không thể mang tính
chất lí tính khô khan mà phải gắn liền với tình cảm mãnh liệt của người nghệ sĩ.
Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương cũng nhấn mạnh: “Cảm hứng chủ đạo thấm
nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm, vào thế giới hình tượng, bao gồm không
gian, thời gian, tính cách nhân vật, vào xung đột và cốt truyện, vào ngôn từ và giọng
điệu của một bài thơ, một truyện ngắn, một thiên tùy bút hay một cuốn tiểu
thuyết”[35, tr 209]. Như thế, cảm hứng là cái tạo nên nền tảng của giọng điệu trong
16


tác phẩm của nhà văn, nó chi phối việc xây dựng hệ thống hình tượng nhân vật, xác
lập góc nhìn của tác giả đối với hiện thực được phản ánh. Và ứng với mỗi nguồn cảm
hứng ấy là một phương pháp sáng tác, một loại hình tác phẩm, một giọng điệu
riêng…
Như vậy, từ những quan niệm của các nhà mỹ học, các nhà nghiên cứu và
phê bình văn học, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất cảm hứng là một tình
cảm mạnh mẽ như nhiệt tâm, say mê. Cảm hứng trong tác phẩm nghệ thuật không
phải là một thứ tình cảm giả tạo hay hời hợt mà phải là một thứ tình cảm sâu sắc
mãnh liệt. Đó phải là một nỗi đau xé lòng, một tình yêu tha thiết, một sự căm ghét tận
xương tủy kiểu “ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” (Nguyễn Đình Chiểu)… Cảm
hứng trong tác phẩm phải là thứ tình cảm nghiêng về phía lẽ phải, gắn liền với những
tư tưởng lành mạnh, tiến bộ, cao đẹp. Nói cách khác, đó là niềm say mê khẳng định
chân lý, lí tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ
ngợi ca, đồng tình với những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực
đen tối, các hiện tượng tầm thường.
Trong sáng tác nghệ thuật, cảm hứng được biểu hiện nhiều biến thể, nảy sinh

từ ý thức con người về tư tưởng và cảm xúc, nhất là những người nghệ sĩ sáng tạo
nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy, tác phẩm nghệ thuật ngôn từ có nhiều biến thể cảm hứng.
Nhưng vẫn có một cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, nó chi phối toàn bộ tác
phẩm, từ hình tượng, hoàn cảnh, tình huống đến cả giọng điệu, lời văn… Điều này
tùy thuộc vào nội dung tư tưởng, tình cảm của nhà văn, tùy thuộc vào cá tính sáng tạo
nghệ thuật của mỗi người cầm bút. Nó còn tùy thuộc vào hoàn cảnh xã hội, thực tại
của đời sống mà nhà văn đang sống trong đó.
Như vậy, cảm hứng là niềm say mê khẳng định chân lí, lí tưởng, phủ định sự
giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với những
nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm
thường…Cảm hứng sẽ là nền tảng tạo nên giọng điệu tác phẩm và chi phối việc xây
dựng hệ thống hình tượng nhân vật. Cảm hứng có nguồn gốc từ trong tư tưởng của

17


tác giả đối với thế giới khách quan, được thể hiện qua tài năng, tính cách của mỗi tác
giả.
1.3. Khái niệm tình yêu
Tình yêu, trạng thái cảm xúc mạnh mẽ và đẹp đẽ nhất của con người lại cũng là
một trong những điều khó định nghĩa và nắm bắt nhất thế gian…Nhà thơ Xuân Diệu
từng viết “làm sao cắt nghĩa được tình yêu ?”. Thi sĩ Xuân Quỳnh cũng từng bộc
bạch :
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu ?
Khi nào ta yêu nhau
Em cũng không biết nữa.
(Sóng, Xuân Quỳnh)
Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu của mọi
người, nhưng theo nghĩa chung nhất, tình yêu là trạng thái tình cảm của chủ thể này

đối với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn được
gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định.
Chủ thể của tình yêu, ngoại trừ một số trường hợp được nhân cách hóa, còn lại
đều là con người. Còn chủ thể tác động của tình yêu thì rất đa dạng, có thể là bất kỳ
thứ gì, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhỏ bé đến vĩ đại, từ hữu hình đến vô hình,...
Ai trong chúng ta cũng có tình yêu, từ một đứa trẻ lớn lên biết yêu cha mẹ, anh
chị em cho tới những tình cảm thiêng liêng như yêu quê hương đất nước, từ những
tình yêu trai gái thơ mộng cho tới những cảm xúc mãnh liệt trước thiên nhiên hay
đồng loại…. Vậy, tình yêu đôi lứa là gì ?
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng định nghĩa về tình yêu: “Yêu là chết ở trong lòng
một ít/Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu”. Tình yêu đối với ông có một chút gì đó
đượm buồn và hi sinh. Ông cũng từng nói rằng :
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
18


Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu
(Vì sao, Xuân Diệu)
Tình yêu với ông luôn ẩn chứa trong đó cảm xúc vấn vương, quấn quít.
Có lẽ tình yêu là điều không thể định nghĩa một cách chính xác, nhưng đó là
một thứ cảm xúc tuyệt vời và không thể so sánh, nó tạo nên sức mạnh to lớn cả vô
hình lẫn hữu hình và suốt cuộc đời này, trên khắp thế gian này chúng ta luôn luôn
được chứng kiến nó. Shakespeare nói tình yêu của các chàng trai không nằm ở phía
tim mà ở đôi mắt. Ông bà ta cũng từng dạy “con trai yêu bằng mắt, con gái yêu bằng
tai”. Tình yêu vì thế được bắt nguồn từ những cái nhìn. Khi người ta yêu nhau, họ
luôn muốn mình trở nên đẹp hơn trong mắt người mà họ yêu, đặc biệt là các cô gái.
Họ thường chăm chút và làm đẹp hơn cho chính mình.
Yêu là khi bạn lấy đi tất cả mọi đam mê, cuồng nhiệt, lãng mạn mà cuối cùng

bạn vẫn biết rằng mình vẫn luôn nhớ về người đó. Tình yêu luôn đi đôi với nỗi nhớ.
Bởi vậy nên ông bà mình nói :
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
(Ca dao)
Tình yêu chân thật đòi hỏi chịu đựng nhiều gian lao và thử thách. Chỉ có những
lúc khó khăn thì người ta mới biết ai thực sự quan tâm, chia sẻ và ở bên cạnh họ. Vì
vậy, sau những lúc sóng gió trong cuộc sống, tình yêu của con người càng khăng khít
hơn với những kỉ niệm :
Em ơi! Chua ngọt đã từng,
Non xanh nước bạc, ta đừng quên nhau!
(Ca dao)
Yêu nhau tức là tôn trọng, nhường nhịn nhau:
Chồng giận thì vợ bớt lời
19


Cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê
(Ca dao)
Yêu là phải biết hi sinh vì tình yêu của mình. Sự hi sinh ở đây có thể hiểu là
quan tâm chia sẻ những khó khăn, có thể là đối mặt với mọi thử thách, mọi thế lực
muốn ngăn trở tình yêu. Yêu có nghĩa là đối xử với một ai đó tốt hơn tất cả mọi
người, tốt hơn với cả chính bản thân mình.
Bản năng con người trong tình yêu được nhìn nhận là những hành động suy
nghĩ sẵn có từ trong tự nhiên, trong đó có việc giao cấu để duy trì nòi giống (giữa hai
giống đực và cái), việc tụ tập số đông - kết hợp nhiều cá thể để đạt mục đích sinh
tồn,...
Trong xã hội loài người phát triển, con người không chỉ dừng lại ở việc kết hợp
cá thể hay giao cấu đơn thuần như ở động vật mà còn hình thành vô số những biểu
hiện quan tâm, chăm sóc, bảo vệ,... lẫn nhau.Từ đó, tình yêu trở thành điều tất yếu

trong xã hội . Và hơn nữa, sự kết hợp của trí tuệ làm cho những biểu thái của tình yêu
đa dạng thậm chí kỳ lạ, khiến nhiều người cảm thấy rất khó để có thể có một cơ sở
chắc chắn khi nói về tình yêu giới tính.
Nói tóm lại, tình yêu là tình cảm thiêng liêng và khó định nghĩa. Tình yêu vừa
xuất phát từ bản năng con người lại vừa là kết quả của sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn
đồng điệu, cùng gắn bó, thương yêu, vượt qua mọi khó khăn để đi đến hôn nhân hạnh
phúc.
1.4. Chủ đề tình yêu trong văn học
Để chứng tỏ quyền lực tối cao và phục vụ cho quyền hưởng thụ của mình, giai
cấp thống trị áp đặt con người không chỉ về mặt thể xác mà cả về mặt tâm hồn. Con
người bị bóp nghẹt trong mọi mối quan hệ trong đó đặc biệt là mối quan hệ nam nữ,
quan hệ yêu đương. Hôn nhân phải do cha mẹ định đoạt, phải được xã hội thừa nhận.
Khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng thì các chính sách ngăn cấm con người
trong quan hệ tình cảm lại càng khắc nghiệt hơn. Con người cá nhân hoàn toàn bị bác
bỏ, quan hệ tình cảm nam nữ hoàn toàn bị cấm đoán, đặc biệt là trong văn chương.
Tuy nhiên, song song với sự cấm đoán thì giai cấp thống trị lại sống trong sự ăn chơi
20


hoang dâm sa đọa. Thấy được bản chất thật sự của bè lũ thống trị cũng như ý thức
được vẻ đẹp của cuộc sống cũng như quyền sống, quyền được hạnh phúc, con người
đã chống lại sự áp chế khắc nghiệt của chế độ phong kiến, cất tiếng nói đòi quyền
sống, quyền tự do trong tình cảm, quyền sống đúng như chính bản năng của con
người đẹp nhất, tự nhiên nhất.
Cũng trong giai đoạn lịch sử này, phong trào nhân văn chủ nghĩa cũng lan rộng
nhiều nước trên thế giới. Vào thời kì Phục hưng và chuyển dần sang thế kỉ Ánh sáng,
chế độ phong kiến và giáo hội đang lung lay, suy sụp. Các nhà nhân văn chủ nghĩa
xem con người là châu báu của vũ trụ, vẻ đẹp của trần gian, con người chính tự thân
nó cao quý. Nhà thơ tình phương Tây Ronsard có những vần thơ xa lạ với tư tưởng
tôn giáo khắc kỉ, thần bí của thơ ca Trung cổ, thấm đượm lòng yêu đời, yêu người và

sự khẳng định tình yêu là nguồn hạnh phúc tuyệt diệu trên trần thế cũng như tự do
yêu đương là một trong những quyền căn bản của con người. Nhà văn Shakespeare
cũng góp phần thể hiện những quan niệm yêu đương mới mẻ trong thời đại Phục
hưng. Quyền tự do lựa chọn bạn đời, sự hấp dẫn về dung mạo, thể xác, vẻ đẹp chân
chính của tình yêu… là những đề tài chủ yếu của các vở Roméo và Juliet, Chàng
thương gia thành Venise, Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai... Nhìn chung văn
học của thời kì Phục hưng đã đấu tranh cho những quyền lợi chính đáng của con
người như quyền được ăn, uống, quyền được thụ hưởng những thú vui vật chất lẫn
tinh thần và đặc biệt là quyền được đối xử bình đẳng và quyền tự do yêu đương. Họ
xem con người là sản phẩm của tự nhiên, do đó con người có quyền có những nhu
cầu tự nhiên của nó về cả vật chất lẫn tinh thần. Con người với cuộc sống tự nhiện,
sinh động, bằng da bằng thịt, bằng sự tận hưởng tinh thần cũng như vật chất, thể xác
cũng như tâm hồn là lẽ tất yếu của cuộc sống. Đó cũng là triết lí sống của thời kìPhục
hưng.
Sang thế kỉ Ánh sáng (thế kỉ XVIII), văn học phương Tây càng khẳng định
mạnh mẽ hơn giá trị chân chính của cuộc sống trần tục. Các tác phẩm nổi tiếng như
“Những bức thư của Ba Tư” của Mongtekio lên án sự phân biệt đẳng cấp trong tình
yêu, đồng thời ca ngợi tình yêu nảy nở tự nhiên.
21


Cùng với tinh thần ấy, ở các nước phương Đông, đặc biệt là Ấn độ, các tác
phẩm kịch giai đoạn này đặt con người và tình yêu cuộc sống lên vị trí quan trọng.
Trong văn học Ấn, tình yêu và con người là đề tài ca ngợi. Theo Rig Vêđa, thần
Kama - thần tình yêu – là mầm móng của lòng người, của trí tuệ.Con người luôn ao
ước tình yêu đến với mình như được gặp Kama.
Gần chúng ta hơn là văn học Trung Hoa, các loại sách liên quan đến ái tình giai
đoạn ấy đều bị cấm đoán. Tuy nhiên, dù không được nói công khai thì tiếng nói ấy
vẫn rất tự nhiên và mạnh mẽ trong đời sống con người. Theo giáo sư Wang Chiu-kui,
khoa Sử đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh nhận xét rằngtriều đại Thanh đặc biệt nghiêm

khắc trong kiểm duyệt các ấn phẩm, mỗi hoàng đế nhà Thanh khi lên ngôi đều ban bố
một danh mục các sách bị cấm, và không một tiểu thuyết ái tình nào của đời Minh
được phép lưu hành, điều thú vị là đời Thanh, rất nhiều sách loại này vẫn tái xuất
hiện, mỗi lần lại mang một tựa đề mới.
Trở lại với văn học nước nhà, tiếng nói ngợi ca tình yêu có thể nói là rất mạnh
mẽ trong văn học dân gian. Văn học dân gian là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng tâm
hồn con người, đặc biệt là tâm hồn những con người đang yêu: rất mộc mạc, giản dị
nhưng mạnh mẽ và táo bạo, phá vỡ mọi trật tự tù túng, ngột ngạt, đưa con người đến
với tình yêu chân thành, cao đẹp:
Đố ai quét sạch lá rừng
Đố ai khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây rung cội rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng
(Ca dao)
Văn học viết của ta tuy có bước đi chậm hơn so với văn học truyền miệng
nhưng khi tình yêu đi vào địa hạt của nó thì lại ẩn chứa nội dung sâu sắc cũng như giá
trị nghệ thuật cao . Từ thế kỉ XV-XVI, khát vọng con người cá nhân đã bắt đầu xuất
hiện trong các tác phẩm. Ngay trong Thánh Tông di thảo, tình yêu cũng được ghi lại
với một niềm bâng khuâng xao xuyến :
Tư quân như thiết như tha
22


Tức hà khả thiết, ma hà khả lân
Thiết tha tâm bội tư quân
Như sơn dũ tuấn, như vân dũ trường
(Thánh Tông di thảo)
(Nhớ ai như cắt như mài
Dẫu mài không đứt, dẫu chùi không phai
Cắt mài lòng những nhớ ai

Cao cao hơn núi, dài dài hơn sông)
Trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn sưu tập, chủ đề tình yêu cũng thể hiện
rõ nét trong nhân vật Lý Quốc Hoa. Người thanh niên ấy đã lấy tình yêu làm lẽ sống,
yêu và bộc lộ hết mình tình yêu ấy:
Đạp trăng chàng tới vườn hoa
Sơ giao đằm thắm như là cố tri
Nỗi niềm giải hết tình si
Ái ân thủ thỉ e dè người ta
(Hương miết hành, Lê Quý Đôn)
Càng về sau, như đã nói, chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, nhu cầu
giải phóng cá nhân mạnh mẽ, tiếng nói tình yêu trong văn học ngày càng nở rộ. Các
sáng tác văn học đặc biệt là trong truyện thơ Nôm từ truyện thơ Nôm bình dân đến
truyện thơ Nôm bác học đều thiết tha và giàu ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Có thể thấy rằng, vấn đề giải phóng con người cá nhân, trong đó giải phóng
con người trong nhu cầu tình cảm là một yêu cầu chung và tất yếu.Văn học Việt Nam
cùng hòa nhập tiếng nói chung vào mạch nguồn ấy của văn học thế giới nhưng vẫn có
những sắc thái riêng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc mình. Điều đó bắt nguồn từ
cơ sở thực tiễn của lịch sử và văn học thế giới, cũng như những biến động trong lịch
sử và văn học Việt Nam. Đó là một quá trình diễn tiến tự nhiên và đầy giá trị.
Truyện thơ Nôm là một bộ phận văn học độc đáo của nền văn học dân tộc.
Truyện thơ Nôm ra đời vào thời kì xã hội phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng.
Ý thức hệ tư tưởng phong kiến bị lung lay mạnh mẽ, cùng với đó là các cuộc khởi
23


×