Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở mỹ tho (tây tiền giang) 1961 1965

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.83 MB, 162 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Văn Trọng

CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG, PHÁ
ẤP CHIẾN LƯỢC Ở MỸ THO (TÂY
TIỀN GIANG) 1961 - 1965

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Văn Trọng

CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG, PHÁ ẤP
CHIẾN LƯỢC Ở MỸ THO (TÂY
TIỀN GIANG) 1961 - 1965
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HUỲNH HOA

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi tài liệu trích dẫn
đều có ghi nguồn và liệt kê đầy đủ trong danh mục tài liệu tham khảo. Những kết luận, nhận
định là trung thực, do tôi tiến hành và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Văn Trọng

1


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 4
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 7
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 8
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 13
6. Đóng góp khoa học của luận văn ................................................................................. 14
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................................... 14

CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ CHI PHỐI CUỘC CHỐNG, PHÁ ẤP
CHIẾN LƯỢC Ở MỸ THO (TÂY TIỀN GIANG)................................................ 15
1.1. Khái quát địa lý – hành chính và đặc điểm xã hội - nhân văn khu vực Mỹ Tho
(Tây Tiền Giang) ............................................................................................................... 15
1.1.1. Khái quát địa lý – hành chính của Mỹ Tho (Tây Tiền Giang) .............................15

1.1.2. Đặc điểm xã hội - nhân văn và truyền thống yêu nước của nhân dân Mỹ Tho ....17
1.2. Chính sách của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam ................................................... 21
1.2.1. Mỹ và chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Genève, thi hành chính sách “tố
cộng, diệt cộng” ..............................................................................................................21
1.2.2. Mỹ và chính quyền Diệm loại Pháp và các phần tử thân Pháp, thành lập quốc gia
chống cộng ở miền Nam Việt Nam ................................................................................23
1.3. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Mỹ Tho trong những năm 1954
– 1960 ................................................................................................................................. 25
1.3.1.Tình hình Mỹ Tho từ sau Hiệp định Genève và phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân Mỹ Tho đến trước Đồng Khởi ..................................................................25
1.3.2. Phong trào Đồng Khởi ở Mỹ Tho trong những năm 1959 – 1960 .......................29
1.4. Mỹ triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và thực hiện “quốc sách ấp
chiến lược” ở Mỹ Tho ....................................................................................................... 34
1.4.1. Mỹ triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ...................................................34
1.4.2. Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện “quốc sách ấp chiến lược” ở Mỹ Tho .....36
1.4.3. Mỹ và chính quyền Sài Gòn triển khai “quốc sách” ấp chiến lược ở Mỹ Tho .....40

CHƯƠNG 2: QUÂN DÂN MỸ THO (TÂY TIỀN GIANG) ĐẤU TRANH
CHỐNG, PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC (1961 - 1965) ................................................... 50
2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng, Trung ương cục, Khu uỷ, Tỉnh uỷ Mỹ Tho
về chống, phá ấp chiến lược ............................................................................................. 50
2


2.1.1. Những điều kiện và nhiệm vụ mới của cách mạng miền Nam sau Đồng Khởi ...50
2.1.2. Trung ương Đảng, Trung ương cục, Khu uỷ và Tỉnh uỷ Mỹ Tho chỉ đạo phong
trào chống, phá ấp chiến lược .........................................................................................52
2.2. Cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho từ năm 1961 đến cuối năm
1963 .................................................................................................................................... 60
2.2.1. Buổi đầu kết hợp quân sự với nổi dậy chống, phá ấp chiến lược trong những năm

1961 – 1962.....................................................................................................................60
2.2.2. Chiến thắng Ấp Bắc và cao trào chống, phá ấp chiến lược trong năm 1963........69
2.3. Quân và dân Mỹ Tho đẩy mạnh phong trào chống, phá ấp chiến lược trong
những năm 1964 – 1965.................................................................................................... 83
2.3.1. Tình hình miền Nam và Mỹ Tho sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm ................83
2.3.2. Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện chương trình “ấp Tân sinh” ....................88
2.3.3. Chủ trương mới của Đảng về chống, phá ấp chiến lược trong thời kỳ mới .........91
2.4.2. Kết hợp ba mũi giáp công đẩy mạnh cuộc chống, phá ấp chiến lược trong năm
1964 - 1965 .....................................................................................................................94

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC
ĐẤU TRANH CHỐNG, PHÁ ẤP CHIẾN LƯỢC Ở MỸ THO (1961 - 1965) .. 100
3.1. Đặc điểm của cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho (1961 - 1965)100
3.2. Bài học kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho122

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 129
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 141

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỹ Tho, địa bàn phía tây của tỉnh Định Tường theo phân chia của chính quyền Sài
Gòn, được xem là khu vực trọng yếu. Về phía cách mạng, Mỹ Tho thuộc địa bàn của Khu
VIII cũ, có vai trò quan trọng về chiến lược, cầu nối với vùng căn cứ cách mạng Đồng Tháp
Mười với đường biển tiếp vận từ Gò Công, Bến Tre cho cả vùng Trung Nam Bộ. Vì thế,
trong kháng chiến chống Mỹ, Mỹ Tho trở thành chiến trường ác liệt, là nơi diễn ra tranh
chấp dai dẵng giữa ta và địch. Trong chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, đế quốc

Mỹ và chính quyền Sài Gòn coi việc bình định, giành dân, kiểm soát nông thôn là một giải
pháp chiến lược có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của các chiến lược chiến tranh xâm
lược của chúng. Trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, việc dồn dân, lập ấp chiến lược có
ý nghĩa sống còn, được mệnh danh là “xương sống” của chiến lược đó. Mục đích của việc
gom dân, lập ấp chiến lược là nhằm thực hiện “tát nước bắt cá”, chia rẽ dân với cách mạng,
thực hiện mưu đồ cô lập và tiêu diệt lực lượng cách mạng, nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân
mới lên miền Nam Việt Nam.
Luận văn nghiên cứu cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho (Tây Tiền
Giang) 1961 – 1965, bởi các lý do sau đây:
1. Chống, phá ấp chiến lược là một hoạt động rất quan trọng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Nghiên cứu về chống, phá ấp chiến lược nhằm góp phần làm rõ hơn
lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước anh dũng của dân tộc ta, nhất là trong giai
đoạn chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
2. Về thời gian, trong giai đoạn 1961 - 1965, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn
chuyển từ chính sách “tố cộng, diệt cộng” sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Đây là
giai đoạn mà chính quyền Sài Gòn triển khai và thực hiện ấp chiến lược trên toàn miền
Nam, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long vì phong trào Đồng Khởi đã phá nát hệ thống
kìm kẹp của nó. Chính sách “tố cộng, diệt cộng” bị thất bại, buộc đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn chuyển sang dùng bạo lực để đàn áp phong trào cách mạng miền Nam, trong
đó, việc lập ấp chiến lược là biện pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định đến thành bại của
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Chủ trương lập ấp chiến lược trong giai đoạn này được đế
quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn triển khai quyết liệt nhất và nâng lên thành “quốc sách”
hàng đầu. Để nâng cao hiệu quả của chủ trương này, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã mời
4


những chuyên gia, cố vấn có kinh nghiệm nước ngoài như Robert Thompson, được mệnh
danh là chuyên gia chống chiến tranh du kích; Taylor - Trưởng đoàn cố vấn Anh tại miền
Nam Việt Nam… Để nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện gom dân, lập ấp chiến lược, chúng đã
huy động cao nhất lực lượng vũ trang, bán vũ trang và các phương tiện chiến tranh hiện đại

tiến hành các cuộc hành quân càn quét, nhất là vùng giải phóng và các căn cứ cách mạng,
nhằm thực hiện tham vọng lập 16.000 ấp chiến lược trên tổng số 17.000 ấp ở miền Nam.
Đồng thời, chúng đã tiến hành nhiều thủ đoạn cực kỳ thâm độc, dã man, khốc liệt; kết hợp
trên nhiều mặt từ chính trị, kinh tế đến tư tưởng, chiến tranh tâm lý…
Để đánh trả âm mưu và thủ đoạn lập ấp chiến lược thâm độc của kẻ thù, Đảng bộ và
nhân dân miền Nam nói chung, nhân dân Mỹ Tho nói riêng xem việc chống, phá ấp chiến
lược là nhiệm vụ cấp bách, đồng thời là nhiệm vụ cơ bản có tính chiến lược quan trọng của
cách mạng. Chống, phá ấp chiến lược trong giai đoạn 1961 – 1965 là một nhiệm vụ cách
mạng hết sức quan trọng trong tiến trình chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
Về không gian, Mỹ Tho là địa bàn chiến lược quan trọng, là cửa ngõ nối liền từ Sài
Gòn xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Vì thế, Mỹ Tho cũng đồng thời là nơi diễn
ra cuộc tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Trong “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ Tho là nơi
diễn ra cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược gay go và quyết liệt nhất, điển hình như
trận đánh phá ấp chiến lược kiểu mẫu của địch ở Tân Lý Tây (Châu Thành). Mỹ Tho cũng
là nơi diễn ra chiến thắng đầu tiên của ta trong việc chống lại các chiến thuật tân kỳ “trực
thăng vận”, “thiết xa vận” - Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963), mở ra phong trào “Thi đua Ấp
Bắc, giết giặc lập công và phá ấp chiến lược” trên toàn miền Nam.
Trước đây, trong giai đoạn chống chính sách “tố cộng, diệt cộng” nhân dân ta chủ
yếu dùng giải pháp đấu tranh chính trị để chống lại những hành động bạo lực của kẻ thù.
Chủ trương đấu tranh chính trị đơn thuần đã gây cho cách mạng miền Nam những tổn thất
nặng nề, cơ sở cách mạng bị phá vỡ gần hết. Đấu tranh chính trị tuy hết sức quan trọng
nhưng nếu chỉ đấu tranh chính trị đơn thuần thì không thể giành thắng lợi trong bất kỳ cuộc
cách mạng nào, nhất là khi kẻ thù sử dụng bạo lực để đàn áp cách mạng. Đó là bài học mà
cách mạng miền Nam phải trả giá quá đắt trong thời kỳ này.
Từ bài học xương máu đó, dưới sự chỉ dẫn của Nghị quyết 15, nhân dân miền Nam
nói chung và nhân dân Mỹ Tho nói riêng đã đứng lên trong cuộc Đồng Khởi, phá vỡ hệ
thống kìm kẹp của địch, chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp đấu
tranh vũ trang nhằm chống lại âm mưu và hành động dùng bạo lực chiến tranh của kẻ thù.
5



Bước sang thời kỳ chống “chiến tranh đặc biệt”, nhiệm vụ chống, phá ấp chiến lược trong
giai đoạn này đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của đấu tranh quân sự với đấu tranh
chính trị và binh vận trên cả ba vùng chiến lược, thực hiện phương châm “hai chân, ba mũi”
và “bốn bám”. Đấu tranh chống, phá ấp chiến lược vẫn coi trọng đấu tranh chính trị của
quần chúng nhưng nhất thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ với tiến công quân sự và công tác
binh vận. Do phát huy được sức mạnh tổng hợp, nên việc chống, phá ấp chiến lược trong
giai đoạn này là cuộc đấu tranh cách mạng không chỉ quyết liệt mà còn mang tính sáng tạo,
diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, đem lại kết quả to lớn, góp phần quan trọng đánh
bại “chiến tranh đặc biệt”. Riêng ở Mỹ Tho, nó còn mang tính điển hình, đặc biệt dấy lên
cao trào phá ấp chiến lược trên toàn miền Nam sau Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963). Cuộc
đấu tranh chống, phá ấp chiến lược còn để lại nhiều bài học cách mạng quý giá.
3. Trước đây, tuy có nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề chống, phá ấp chiến lược
nhưng chưa có tác phẩm nào nghiên cứu chuyên sâu về chống, phá ấp chiến lược trên địa
bàn Mỹ Tho (Tây Tiền Giang), nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và mang tính
điển hình, nơi diễn ra chiến thắng mang tính kiểu mẫu dấy lên cao trào phá ấp chiến lược
trên toàn miền Nam.
Vì thế, tôi đã chọn đề tài “Cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho
(Tây Tiền Giang) 1961 – 1965” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình nhằm góp phần làm rõ
một trong những vấn đề quan trọng trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, góp phần nhỏ vào
việc bổ sung những khoảng trống về lịch sử địa phương trong giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ; đồng thời phục vụ cho công tác giảng dạy lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương của bản
thân, cũng như làm cơ sở cho việc thực hiện nghiên cứu ở bậc nghiên cứu sinh tiếp sau.

2. Mục đích nghiên cứu
- Trình bày có hệ thống về cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược của quân và dân
Mỹ Tho (Tây Tiền Giang) trong giai đoạn đấu tranh sôi động và quyết liệt đánh thắng chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
- Từ thực tiễn của cuộc đấu tranh đó, luận văn đi sâu nghiên cứu vai trò và nghệ thuật
đấu tranh cách mạng sáng tạo của quần chúng nhân dân; sự gắn bó đoàn kết máu thịt giữa

nhân dân với Đảng; việc phát huy sức mạnh tổng hợp chính trị, quân sự và binh vận trong
việc thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược.

6


- Đồng thời, thông qua cuộc đấu tranh này, luận văn làm rõ về sức mạnh của truyền
thống yêu nước, tinh thần cách mạng kiên cường kết hợp với những giá trị văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc đã góp phần to lớn tạo nên chiến thắng oanh liệt của nhân dân Mỹ Tho.
Từ những bài học kinh nghiệm quý báu của cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược
ở Mỹ Tho, luận văn rút ra một số vấn đề có tính quy luật về tinh thần đấu tranh cách mạng,
về tinh thần đại đoàn kết dân tộc...., qua đó có thể vận dụng trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ
Tho (Tây Tiền Giang). Trong đó, tác giả có đề cập đến chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của
đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, âm mưu và thủ đoạn của chúng trong việc triển khai
và thực hiện “quốc sách” ấp chiến lược, nhưng trọng tâm là cuộc đấu tranh chống, phá ấp
chiến lược của quân và dân Mỹ Tho; trong đó nổi bật nhất là tinh thần cách mạng kiên
cường, nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp kết hợp sáng tạo việc đấu tranh chính trị với
đấu tranh quân sự và binh vận.
Giới hạn thời gian của đề tài là bắt đầu từ giữa năm 1961 đến giữa năm 1965. Đây
cũng chính là giai đoạn đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam
Việt Nam.
Không gian nghiên cứu của đề tài là khu vực Mỹ Tho – Tây Tiền Giang, chính là địa
bàn của tỉnh Mỹ Tho thời Pháp thuộc (1902 - 1945), trừ phần đất An Hóa đã nhập về Bến
Tre. Ngày nay, khu vực này thuộc các đơn vị hành chính phía tây tỉnh Tiền Giang, bao gồm
thành phố Mỹ Tho và các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo và Tân Phước.
Mỹ Tho trong giai đoạn này không phải chỉ dùng để chỉ thị xã Mỹ Tho, hay tỉnh lỵ Mỹ Tho

mà còn chỉ cả khu vực của phía tây Tiền Giang ngày nay.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ mở, để đảm bảo tính logic và hệ thống, luận văn có mở
ra trong giới hạn cho phép. Về thời gian, luận văn có đề cập đến một số sự kiện trước giữa
năm 1961, tức là khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Về không gian, luận văn có mở rộng đến một số khu vực liên quan như Long An, Bến Tre,
Đồng Tháp và đặc biệt là khu vực Gò Công vì những liên hệ về mặt hành chính của nó.

7


4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là một sự kiện lịch sử
có ý nghĩa thời đại, vì vậy có rất nhiều công trình, tác phẩm viết về cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam của đế quốc Mỹ dưới nhiều góc độ khác nhau, từ nhiều phía, kể cả những
người trực tiếp tham gia hoặc những nhà nghiên cứu bên ngoài.
Ở nước Mỹ đã có hàng ngàn cuốn sách viết về cuộc chiến tranh Việt Nam, đề cập ít
nhiều đến vấn đề chống, phá ấp chiến lược ở Miền Nam Việt Nam. Tiêu biểu như:
- Tác phẩm “Giải phẩu một cuộc chiến tranh” của Gabriel Kolko bắt đầu viết từ
năm 1964, xuất bản năm 1965 tại New York. Ông viết khá sinh động và hấp dẫn về diễn
biến cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
- Tác phẩm “Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước Mỹ” của George C.Herring
xuất bản năm 1981 tại Mỹ, đã lên án giới cầm quyền Mỹ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược
lâu dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trong chương 3: Hợp tác có mức độ giữa Kennedy và
Diệm (1961 - 1963), trong đó ông viết về chương trình ấp chiến lược và đánh giá dù có
nhiều cố gắng nhưng mang lại kết quả không đáng kể cho phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
- Tác phẩm: “Sự lừa dối hào nhoáng – John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam”
của Neil Sheehan, xuất bản tại Mỹ năm 1988, đã lên án các giới cầm quyền Mỹ lừa dối nhân
dân Mỹ và thế giới về cuộc chiến tranh bẩn thỉu mà Mỹ đã gieo rắc thảm họa cho nhân dân
Việt Nam. Quyển sách được đánh giá cao tại Mỹ, và được trao giải thưởng Pulitzer.
- Cuốn hồi ký “Nhìn lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”,

của Robert S.Mc.Namara xuất bản tại Mỹ. Năm 1995, 20 năm sau khi cuộc chiến tranh Việt
Nam kết thúc, nguyên Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, người trực tiếp tham gia hoạch định kế
hoạch, chiến lược chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam dưới hai đời Tổng thống
Kennedy và Johnson, đã hoàn thành quyển Hồi ký. Trong tác phẩm, Mc.Namara đã đánh
giá lại những chính sách của Mỹ đối với Việt Nam và những sai lầm của người Mỹ trong
đánh giá về Việt Nam. Tác giả cũng có lý giải về nguyên nhân thất bại của chính sách bình
định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong chiến tranh từ cái nhìn của người trong cuộc
nhưng đứng bên kia chiến tuyến.
- Đặc biệt là cuốn “Defeating communist insurgency. The lessons of Malaysia and
Vietnam” (Đánh giá sự nổi dậy của cộng sản. Bài học của Malaysia và Việt Nam) của
Robert Thompson – chuyên gia của chương trình bình định “chống nổi dậy” ở Malaysia,
được Mỹ - Diệm mời về Việt Nam làm chuyên gia cho chương trình ấp chiến lược. Tháng
8


3/1965, sau nhiều thất bại ở Việt Nam, R.Thompson về nước và tháng 7/1965 ông viết cuốn
sách này. Trong tác phẩm, ông đã đi sâu trình bày mục đích, biện pháp và quá trình tiến
hành chương trình ấp chiến lược ở Malaysia và Việt Nam, rút ra những nguyên nhân thất
bại của chương trình này ở Việt Nam. Tác giả đặc biệt so sánh chính sách này ở Malaysia
với Việt Nam, từ đó lý giải vì sao chính sách đó khá thành công ở Malaysia mà lại thất bại ở
Việt Nam. Tuy nhiên, do có cái nhìn từ phía bên kia, R.Thompson cũng có nhiều nhìn nhận,
đánh giá một cách chưa thoả đáng lắm về nguyên nhân thất bại của nó. Chẳng hạn, ông ta
cho rằng nguyên nhân dẫn đến thất bại của chương trình ấp chiến lược ở Việt Nam chủ yếu
do vai trò của Ngô Đình Nhu – “người chịu trách nhiệm chính thực hiện ấp chiến lược ở
Việt Nam … Trong đó, sai lầm đầu tiên là do quá “nôn nóng” thúc ép thực hiện chương
trình này, Ngô Đình Nhu đã “áp đặt kiểm soát chính trị từ trên xuống chứ không phải giành
được sự ủng hộ của dân chúng” [81, tr.10].
Ở Việt Nam, cũng có nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu, tổng kết khá công phu
về cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược của nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học và cá
nhân:

- Tiêu biểu nhất là tác phẩm: “Quốc sách ấp chiến lược của Mỹ - Diệm” của Hồ
Quý Ba và Nam Hùng, xuất bản tại Hà Nội năm 1962. Tác phẩm đã phân tích âm mưu, thủ
đoạn thâm độc của Mỹ - Diệm trong việc thực hiện “quốc sách” ấp chiến lược.
- Tác phẩm “Ấp chiến lược trại tập trung trá hình của Mỹ - Diệm” của Nguyễn
Hà, xuất bản tại Hà Nội năm 1963. Tác giả đã đi sâu phân tích và lên án âm mưu thâm độc
của Mỹ - Diệm trong việc gom dân lập ấp chiến lược.
- Tác phẩm “Chiến tranh đặc biệt” là sự phát triển của chủ nghĩa thực dân mới
và là giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam”
của Nguyễn Văn Hiếu xuất bản năm 1964. Tác giả đã nêu chính sách tập trung dân vào ấp
chiến lược là chính sách tàn bạo nhất của đế quốc Mỹ, động chạm đến quyền lợi của toàn
thể nhân dân miền Nam mà đa số là nông dân, nhất định sẽ bị nhân dân vùng lên đập tan.
- Tác phẩm “Miền Nam giữ vững thành đồng”, tập II của Trần Văn Giàu, xuất bản
năm 1966. Trong chương hai - phần C: Địch lập “ấp chiến lược” – Ta phá “ấp chiến lược”,
tác giả trình bày chi tiết về quốc sách ấp chiến lược; cách chống càn quét, gom dân, phá ấp
chiến lược của đồng bào miền Nam trong giai đoạn địch triển khai chiến lược “chiến tranh
đặc biệt”.

9


- Tác phẩm “Đồng bằng khu Trung Nam Bộ chống Mỹ cứu nước” do Ban chỉ đạo
công trình lịch sử kháng chiến chống Mỹ Khu 8 – Trung Nam Bộ biên soạn. Tác phẩm đã
trình bày một cách có hệ thống về cuộc kháng chiến của nhân dân Khu VIII – Trung Nam
Bộ trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ.
- Tác phẩm “Tây Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1975)” do Ban chỉ đạo biên soạn
công trình lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến. Công trình này đã tập hợp tư liệu rất phong
phú, có sự tham gia của những người từng lãnh đạo trong cuộc kháng chiến, trình bày khá
hấp dẫn, sinh động về cuộc kháng chiến 30 năm của nhân dân các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Trong đó, tác phẩm cũng có đề cập đến phong trào chống, phá ấp chiến lược trong đề mục
về chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.

Gần đây, có nhiều tác phẩm nghiên cứu chuyên về phong trào chống, phá ấp chiến
lược:
- Tiêu biểu có tác phẩm “Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá “quốc sách”
ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961 - 1965)” của tác giả Trần Thị
Thu Hương, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2003. Đây là công trình
nghiên cứu công phu, hệ thống với nguồn tư liệu phong phú và những nhận định, đánh giá
từ nhiều phía. Tác phẩm gồm ba chương: chương 1 trình bày về chính sách ấp chiến lược
trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1961 1965); chương 2 trình bày về quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá “quốc
sách” ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy ở miền Nam; chương 3 tác giả nêu thắng lợi của cuộc
đấu tranh chống, phá “quốc sách” ấp chiến lược và những bài học kinh nghiệm về lãnh đạo
của Đảng.
- Thứ hai, tác phẩm “Phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược” của Nguyễn
Công Thục cũng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát hành năm 2006. Tác phẩm đã khái
quát về chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với quốc sách ấp chiến lược, sau đó trình bày về
phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược trong năm 1963 và chống phá ấp tân sinh - ấp
chiến lược trong năm 1964, rút ra ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh nghiệm của phong trào
đấu tranh chống, phá ấp chiến lược trong hai năm 1963 – 1964.
- Luận án Tiến sĩ Lịch sử của Huỳnh Thị Liêm, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2006 với đề tài: “Phong trào đấu tranh chống, phá ấp chiến lược
ở miền Đông Nam Bộ (1961 -1965)”. Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu và
có hệ thống với nguồn tư liệu phong phú từ nhiều nguồn lưu trữ khác nhau. Trong đó, tác
10


giả đã khái quát một cách hệ thống về chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với quốc sách ấp
chiến lược, cũng như phục dựng lại một cách tương đối đầy đủ về phong trào chống, phá ấp
chiến lược của nhân dân miền Đông Nam Bộ (1961 -1965).
Trong phạm vi tỉnh Tiền Giang, có một số công trình nghiên cứu, viết về cuộc đấu
tranh chống, phá ấp chiến lược trên địa bàn toàn tỉnh:
- Công trình “Lịch sử Đảng bộ Tiền Giang”, tập 2 (1954 - 1975) và do Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia phát hành năm 2010. Trong đó, chương II: Đảng bộ tỉnh lãnh đạo
chống địch càn quét và lập ấp chiến lược, mở mảng chuyển vùng giành quyền làm chủ ở
nông thôn (4-1961 – 3-1965) với 2 tiểu mục: Chống địch càn quét và lập ấp chiến lược (41961 – 12-1962); Chiến thắng Ấp Bắc và cao trào phá ấp chiến lược, mở mảng chuyển vùng
giành quyền làm chủ ở nông thôn (1-1963 – 4-1965).
- Tác phẩm “Lịch sử kháng chiến quân dân Tiền Giang (1940 - 1975)” của Ban
chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành năm 2008.
Nội dung tác phẩm gồm 8 chương, khái quát cuộc kháng chiến của quân dân Tiền Giang từ
sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ cho đến chiến thắng năm 1975. Trong đó, Chương 5 với đề
mục II: Chiến thắng Ấp Bắc và cao trào phá ấp chiến lược.
- Tác phẩm tiêu biểu nhất có lẽ là Luận văn Thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Mạnh Thắng
với đề tài “Phong trào đấu tranh phá ấp chiến lược của quân dân Mỹ Tho – Gò Công
giai đoạn 1961 – 1965” được bảo vệ tại Viện khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh năm
2001. Luận văn có cấu trúc nội dung chính gồm 3 chương: Chương I: Vài nét về địa lý tự
nhiên và kinh tế xã hội ở Mỹ Tho – Gò công; chương II: Bối cảnh hình thành và quá trình
thực hiện quốc sách Ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy tại Mỹ Tho – Gò Công; chương III:
Phong trào chống phá Ấp chiến lược của quân và dân Mỹ Tho – Gò Công. Tác giả đã có
công khôi phục lại bức tranh quá khứ của cuộc đấu tranh của quân dân Mỹ Tho – Gò Công
trên địa bàn toàn tỉnh Tiền Giang ngày nay. Tuy nhiên, tác giả chỉ bước đầu khái quát cuộc
đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Tiền Giang mà thôi. Bởi vì, Luận văn có 3 chương với
125 trang nhưng trọng tâm của cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược với chương 3
khoảng 36 trang mà thôi, còn chương 1 lại giới thiệu khái quát về Tiền Giang và chương 2
lại tập trung trình bày về bối cảnh lịch sử và quá trình thực hiện quốc sách ấp chiến lược của
Mỹ - Ngụy tại Tiền Giang.
Ngoài ra, có rất nhiều công trình lịch sử mang tính địa phương có đề cập đến cuộc
đấu tranh chống phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho như:
11


- Quyển “Dự thảo lịch sử Đảng bộ Tiền Giang, tập 2 (1954 - 1975) do Ban nghiên
cứu lịch sử Đảng Tiền Giang xuất bản năm 1986 với 2 tiểu mục: Đấu tranh chống kế hoạch

bình định và lập ấp chiến lược (4/1961 – 12/1962) và “Chiến thắng Ấp Bắc – Cao trào phá
ấp chiến lược (1/1963 – 4/1965).
- Quyển “Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang (1945 -1954) của
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang xuất bản năm 1986 với chương 6 : Từ khởi nghĩa
chuyển thành chiến tranh cách mạng - Trận Ấp Bắc và cao trào phá Ấp chiến lược (4/1961 –
3/1965).
- Hay “Dự thảo Lịch sử Công an Nhân dân Tiền Giang, tập 2 (1945 - 1954) do
Công an Tiền Giang xuất bản năm 1995. Trong chương 2 có mục An ninh Mỹ Tho ra đời
góp phần đánh bại kế hoạch bình định “lập” ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy (4/1961 –
3/1965).
- Tác phẩm “Công tác binh vận ở Tiền Giang trong kháng chiến chống Mỹ” do
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Tiền Giang xuất bản năm 1998.
Ngoài ra, bên cạnh những công trình mô tả về các cuộc đấu tranh chống, phá ấp
chiến lược còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lịch
sử (Viện sử học), Lịch sử Đảng (Viện lịch sử Đảng), Lịch sử quân sự (Viện lịch sử quân sự
Việt Nam), với hàng trăm bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, cũng như về cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược. Riêng ở Tiền
Giang, cũng có rất nhiều bài viết về cuộc đấu tranh chống phá ấp chiến lược được đăng
trong các Kỷ yếu Hội thảo khoa học về Chiến thắng Ấp Bắc, Hội thảo khoa học về việc hình
thành vùng giải phóng 20 tháng 7 còn lưu tại Thư viện Tỉnh Tiền Giang.
Tuy nhiên, nhìn chung cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược của quân dân Mỹ Tho (Tây Tiền Giang) trong giai
đoạn đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Vì vậy, cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho (Tây Tiền Giang) trong giai
đoạn này vẫn còn là một đề tài khoa học cần đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống, với mong muốn bổ sung một số nội dung nhằm hoàn thiện kiến thức các công trình
đã nêu, đóng góp một phần thiết thực đối với khoa học và thực tiễn.

12



5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Các tác phẩm của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của các
nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Việt Nam.
- Các tài liệu của ta và địch về ấp chiến lược và liên quan đến tình hình bình định, lập
ấp chiến lược trên địa bàn Mỹ Tho của Tỉnh trưởng Định Tường, Ty cảnh sát, Ty công an
Định Tường, Ban đặc trách ấp chiến lược tỉnh Định Tường, Phủ tổng uỷ dân sinh nông thôn
(Việt Nam Cộng Hoà)... hiện còn lưu trữ tại Tiểu ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Tiền
Giang, Trung tâm thông tin và lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Bảo tàng Tiền
Giang và Trung tâm lưu trữ quốc gia 2 tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Hồi ký của các tướng lĩnh và những người tham gia kháng chiến trong chiến tranh
chống Mỹ, đặc biệt là những người từng lãnh đạo, chiến đấu trên địa bàn khu vực Mỹ Tho.
- Các công trình khoa học, các sách viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của Việt Nam đã được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Viện sử học, Viện lịch sử quân sự của Bộ quốc phòng, và nhiều nhà xuất bản trên cả nước
phát hành. Đặc biệt, là những công trình lịch sử địa phương ở Tiền Giang do Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ, và các cơ quan ban ngành ở
Tiền Giang xuất bản.
- Ngoài ra, còn có các bài viết trên các tạp chí: Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử Đảng,
Học tập (Cộng sản), hoặc các Kỷ yếu của các Hội thảo khoa học được lưu tại

Thư viện

tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Tỉnh Tiền Giang và tại các địa phương ở Tiền
Giang.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận văn là phương

pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Đồng thời, luận văn còn sử dụng một số
phương pháp khác như phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp nhằm cung cấp
cái nhìn toàn diện, bao quát những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của cuộc đấu
tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho (1961 - 1965).
Bên cạnh đó, công tác xác minh, xử lý, đánh giá tư liệu cũng được quan tâm chú
trọng để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu.

13


6. Đóng góp khoa học của luận văn
Cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ Tho (Tây Tiền Giang) là một cuộc
đấu tranh quyết liệt, dai dẵng giữa ta và địch. Địa bàn Mỹ Tho là địa bàn quan trọng không
chỉ của tỉnh Tiền Giang mà còn là trung tâm của vùng Trung Nam Bộ, hay Khu VIII cũ, là
cầu nối với các tỉnh phía nam sông Tiền, cũng như các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Vì vậy, kết
quả nghiên cứu của đề tài này sẽ mang lại những đóng góp sau đây:
- Trình bày và làm rõ một cách hệ thống âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn trong việc thực hiện quốc sách ấp chiến lược trong giai đoạn triển khai chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam nói chung, đặc biệt là ở khu vực Mỹ Tho.
- Phục dựng có hệ thống và toàn diện về cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược của
nhân dân Mỹ Tho (Tây Tiền Giang) trong giai đoạn chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Qua đó, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu
trong công tác vận động quần chúng, về vai trò của quần chúng cũng như công tác xây dựng
khối đại đoàn toàn dân...
- Làm sáng tỏ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng bộ Mỹ Tho được vận dụng
một cách linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể ở một địa bàn trọng yếu, mang tính chiến
lược. Đó là nghệ thuật sáng tạo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và binh
vận, cũng như việc vận dụng sáng tạo phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi và bốn
bám”.
- Cung cấp thêm tư liệu và giới thiệu một số tư liệu mới, góp phần phục vụ công tác

biên soạn giáo trình giảng dạy, học tập lịch sử địa phương; giáo dục truyền thống lịch sử
hiện đại, đặc biệt là trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước ở Tiền Giang.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn có ba
chương:
Chương 1: Những nhân tố chi phối cuộc đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Mỹ
Tho (Tây Tiền Giang).
Chương 2: Quân dân Mỹ Tho (Tây Tiền Giang) đấu tranh chống, phá ấp chiến lược
(1961 - 1965).
Chương 3: Đặc điểm và những bài học kinh nghiệm của cuộc đấu tranh chống, phá
ấp chiến lược ở Mỹ Tho.
14


CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ CHI PHỐI CUỘC CHỐNG, PHÁ
ẤP CHIẾN LƯỢC Ở MỸ THO (TÂY TIỀN GIANG)
1.1. Khái quát địa lý – hành chính và đặc điểm xã hội - nhân văn khu vực Mỹ
Tho (Tây Tiền Giang)
1.1.1. Khái quát địa lý – hành chính của Mỹ Tho (Tây Tiền Giang)
Trong giai đoạn 1961 – 1965, Mỹ Tho là vùng đất phía tây của tỉnh Mỹ Tho cùng tên
theo phân chia của chính quyền cách mạng, bao gồm các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu
Thành, Chợ Gạo và thị xã Mỹ Tho.
Tuy nhiên cần làm rõ thêm giai đoạn từ 1956 – 1967, thực hiện chủ trương xác nhập
các tỉnh để thuận lợi trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng, chính quyền cách mạng đã
xác nhập 2 tỉnh Mỹ Tho và Gò Công trước đây thành một tỉnh - đặt tên là tỉnh Mỹ Tho.
Còn chính quyền Sài Gòn lại thành lập tỉnh Định Tường trên địa bàn tỉnh Mỹ Tho cũ
và tỉnh Gò Công vào năm 1956, sau đó lại lập tỉnh Gò Công từ quận Gò Công vào tháng 12
năm 1963. Như vậy, trong thời gian 1961 - 1965, cả địa bàn tỉnh Tiền Giang ngày nay được
chính quyền cách mạng đặt là tỉnh Mỹ Tho (còn chính quyền Sài Gòn lại đặt là tỉnh Định

Tường đến 12/1963). Tuy nhiên, trong nhân dân nói chung lại gọi khu vực phía tây tỉnh này
là Mỹ Tho, còn khu vực phía đông tỉnh là Gò Công. Họ không gọi khu vực này theo tên tỉnh
của chính quyền Sài Gòn là Định Tường, cũng như họ không gọi chung cả hai là Mỹ Tho
như phân chia của chính quyền cách mạng. Vì thế, trong nhiều tác phẩm lịch sử địa phương
ở Tiền Giang ngày nay, khi đề cập đến Tiền Giang trong giai đoạn này (1956 - 1967), đúng
ra phải gọi là tỉnh Mỹ Tho nhưng lại thường dùng từ Mỹ Tho – Gò Công. Điều này cho thấy
thói quen phân biệt hai khu vực này ảnh hưởng sâu đậm trong nhân dân.
Cũng do địa bàn chiến lược quan trọng của Mỹ Tho mà vào tháng 12/1963, chính
quyền Sài Gòn đã tách phần Gò Công ra và thành lập tỉnh Gò Công, tỉnh Định Tường cơ
bản trở về địa giới của tỉnh Mỹ Tho thời Pháp thuộc. Hơn nữa, đến năm 1967, chính quyền
cách mạng lại tách tỉnh Mỹ Tho ra thành 2 tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và thành phố Mỹ Tho
ngang cấp tỉnh.
Hiện nay, Mỹ Tho là vùng đất phía tây của tỉnh Tiền Giang, bao gồm các huyện Cái
Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước (thành lập năm 1994 từ phần đất tách ra của Cai Lậy
và Châu Thành), Chợ Gạo và thành phố Mỹ Tho.

15


Về phía chính quyền Sài Gòn, Mỹ Tho trong giai đoạn 1961 – 1963 là phần đất phía
tây của tỉnh Định Tường, từ năm 1964, trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh khi tách phần
đất phía đông tỉnh này để tái lập tỉnh Gò Công. Toàn tỉnh Định Tường được chia thành 8
quận thì vùng đất Mỹ Tho đã có 6 quận (trừ 2 quận của Gò Công).
Dưới đây là bản thống kê các đơn vị hành chính của toàn tỉnh Định Tường:
QUẬN

STT

SỐ
Tổng




Ấp

Dân số

Diện tích

01

Long Định

2

24

195

149.494

31.667

02

Bến Tranh

2

15


92

70.478

21.339

03

Chợ Gạo

2

13

108

61.962

16.444

04

Hòa Đồng

2

16

153


74.091

28.448

05

Gò Công

2

15

147

96.715

27.667

06

Sùng Hiếu

2

11

83

79.614


26.140

07

Khiêm Ích

2

20

76

105.491

31.259

08

Giáo Đức

2

10

49

56.702

19.191


16

124

903

694.547

202.165

Tổng cộng
Nguồn [143, tr.9].

Theo đó, vùng đất Mỹ Tho chiếm 12/16 tổng, 93/124 xã, 603/903 ấp về đơn vị hành
chính; dân số Mỹ Tho là 523.741 người trong tổng số 694.547 người toàn tỉnh với diện tích
146.050 mẫu trong tổng diện tích toàn tỉnh là 202.165 mẫu toàn tỉnh. Như vậy, Mỹ Tho
chiếm vị trí quan trọng trong toàn tỉnh Định Tường, chiếm trên ¾ dân số (78%), và gần ¾
diện tích cả tỉnh.
Mỹ Tho nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung Nam Bộ, phía bắc giáp tỉnh Long An,
phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía nam và tây nam giáp tỉnh Bến Tre, phía đông giáp khu
vực Gò Công. Vùng Mỹ Tho nằm dọc theo phía bắc sông Tiền, có chiều dài từ đông sang
tây khoảng 78 km, chiều rộng từ bắc xuống nam: rộng nhất khoảng 30km, hẹp nhất khoảng
10km.
Địa bàn toàn vùng chủ yếu là đồng bằng, xen kẻ các giồng cát chạy dọc theo hướng
Đông Bắc – Tây Nam. Mỹ Tho được chia làm hai vùng rõ rệt. Vùng đất phù sa nằm dọc
sông Tiền, phía nam lộ 4 (nay là quốc lộ 1), là khu vực đông dân cư nhất. Vùng thứ hai là
vùng Đồng Tháp Mười, là khu vực thưa dân và còn phần hoang vu.

16



Đường giao thông thủy bộ tạo nên một hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh. Đặc biệt
là hệ thống sông ngòi, kinh rạch chằng chịt, vừa là hệ thống giao thông thủy rất tiện lợi,
đồng thời cũng rất thuận tiện cho hoạt động chiến tranh du kích. Đó là sông Tiền chạy dọc
theo hướng đông – tây, là ranh giới tự nhiên ngăn cách với tỉnh Bến Tre, tỉnh Vĩnh Long.
Dọc theo sông Tiền là hệ thống các sông nhánh chạy theo hướng bắc – nam như sông Cái
Cối, sông Trà Lọt, sông Trà Tân, sông Ba Rài và hàng loạt các con rạch nhỏ khác. Ngoài ra,
ở vùng này cũng sớm có các kênh đào nối liền Mỹ Tho với khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn như
kinh Bưu điện, kinh Chợ Gạo.
Về đường bộ, quan trọng nhất là quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1) chạy từ Bắc Mỹ Thuận,
giáp tỉnh Vĩnh Long đến tỉnh Long An với chiều dài khoảng 78 km, cắt đôi khu vực này
thành 2 khu vực nam lộ và bắc lộ. Ngoài ra, tỉnh lộ 28 từ thị xã Mỹ Tho chạy dọc theo sông
Tiền đến thị trấn Cái Bè. Lộ 24 từ thị xã Mỹ Tho xuống Chợ Gạo, Gò Công. Lộ 12 từ thị
trấn Cai Lậy qua Đồng Tháp Mười đến tỉnh Kiến Tường. Lộ 30 từ An Thái Trung đến thị xã
Cao Lãnh. Ngoài ra, còn có các lộ sườn như lộ Chùa Phật Đá, lộ Cổ Chi từ Tân Hiệp đến
Phú Mỹ, lộ Ba Dừa từ thị trấn Cai Lậy đến ngã tư Hưng Long...
1.1.2. Đặc điểm xã hội - nhân văn và truyền thống yêu nước của nhân dân Mỹ Tho
Cùng với Nam Bộ, vùng đất Mỹ Tho mới chỉ được khai phá từ thế kỉ XVII bởi
những di dân người Hoa và lưu dân người Việt. Trải qua thời gian lịch sử, Mỹ Tho đã nhiều
lần thay đổi về tổ chức hành chính, cũng như địa giới và tên gọi. Năm 1753, chúa Nguyễn
lấy vùng đất phía tây đặt làm đạo Trường Đồn, trong đó bao gồm cả vùng Mỹ Tho. Năm
1832, sau cuộc cải cách hành chính của Vua Minh Mạng, Mỹ Tho trở thành một phần của
tỉnh Định Tường, một trong sáu tỉnh của Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Năm 1859, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam. Bằng Hiệp ước ký ngày 5
tháng 6 năm 1862 giữa Pháp với triều Nguyễn, ba tỉnh miền Đông bị Pháp chiếm, trong đó
có Mỹ Tho. “Năm 1867, thực dân chiếm nốt ba tỉnh còn lại ở miền tây Nam Kỳ, xóa bỏ Nam
Kỳ lục tỉnh của nhà Nguyễn. Sau đó, thực dân đã chia Nam Kỳ ra nhiều hạt thanh tra
(Inspeetion), đứng đầu mỗi hạt thanh tra là Thanh tra Công việc Bổn xứ” [61, tr.35]. Trong
đó, vùng đất Mỹ Tho chia thành 2 khu tham biện (Mỹ Tho và Cai Lậy) trong 4 khu tham

biện của tỉnh Định Tường cũ. Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ lại chia Nam Kỳ thành 4 hạt
hành chính lớn: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bassac. Khi đó, Mỹ Tho lại trở thành một
trong bốn khu tham biện trong hạt hành chính lớn: Mỹ Tho.

17


Về mặt hành chính, tháng 12 năm 1899, thực dân Pháp ban hành Nghị định đổi khu
tham biện thành tỉnh từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Khi đó, hai khu tham biện Mỹ Tho và Gò
Công nhập lại thành tỉnh Mỹ Tho. Tuy nhiên, “đến năm 1902, lại tách thành 2 tỉnh Mỹ Tho,
Gò Công và tồn tại đến năm 1945” [45, tr.9]. Từ đó, vùng đất Mỹ Tho trở thành một đơn vị
hành chính cấp tỉnh của chính quyền thực dân.
Cộng đồng cư dân ở Mỹ Tho đã hình thành tương đối sớm vào khoảng nửa sau thế kỉ
XVII với hai thành phần dân tộc chính là lưu dân người Việt và di dân người Hoa. Người
Hoa chủ yếu cư trú ở thị xã Mỹ Tho và các trung tâm dân cư đông đúc như các thị trấn Cái
Bè, Tân Hiệp, Chợ Gạo, Cai Lậy. Họ chủ yếu làm nghề buôn bán và các nghề thủ công
truyền thống. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, cơ cấu xã hội có sự thay đổi lớn. Hàng
vạn người Bắc di cư vào Nam, trong đó có một bộ phận chuyển đến cư trú ở vùng đất Mỹ
Tho. Mỹ - Diệm đã đưa về Mỹ Tho hơn 30.000 đồng bào công giáo di cư từ miền Bắc vào
bố trí ở 3 khu vực: Long Định, Xoài Hột (Bình Đức) và xã Xuân Đông (Chợ Gạo). Đây đều
là những vị trí trọng yếu xung quanh thị xã Mỹ Tho. “Ý đồ của chúng là vừa để thành lập
vành đai bảo vệ, vừa gây chia rẽ đồng bào Nam Bắc, chia rẽ lương giáo” [48, tr.207].
Theo “Bảng điều tra sơ lược về tỉnh Định Tường năm 1962”, dân số toàn tỉnh vào
thời điểm này là 694.547 người. Trong đó người Việt chiếm 98%, còn lại là người Hoa và
khoảng vài chục người thuộc các dân tộc khác. Thành phần nông dân chiếm đại đa số với
hơn 80% dân số. Còn lại là binh lính, công chức, một số thương nhân và thợ thủ công. Lực
lượng công nhân chỉ chiếm số lượng vài ngàn người, chủ yếu làm trong các hãng xưởng như
xay xát lúa gạo, xẻ gỗ, các hãng nước mắn và một số ngành nghề khác. Thợ thủ công thuộc
nhiều ngành nghề khác nhau, khá đa dạng. Lực lượng công chức chủ yếu trong ngành giáo
dục, y tế và các ngành dịch vụ điện, nước, công trình công cộng, giao thông vận tải... Dân số

trong vùng Mỹ Tho phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thị xã, thị trấn và dọc theo
lộ 4 [143, tr.6].
Về tôn giáo, Mỹ Tho là vùng đất có đủ các tôn giáo lớn ở Việt Nam: Cao Đài, Hòa
Hảo, Thiên chúa, Tin Lành, Phật giáo. Tuy nhiên, đa số nhân dân vẫn theo tín ngưỡng thờ
cúng ông bà tổ tiên. Sau khi Hiệp định Genève được kí kết, Mỹ - Diệm đã đưa hàng ngàn
đồng bào miền Bắc di cư đến định cư trên vùng đất Mỹ Tho. Họ chủ yếu là những người
theo đạo Thiên chúa bị dụ dỗ, cưỡng ép di cư vào Nam. Vì thế, Công giáo có khoảng hơn
20.000 tín đồ, tập trung phần lớn ở xã Xuân Đông, Hòa Định huyện Chợ Gạo, xã Bình Đức,
Long Định huyện Châu Thành, xã Ngũ Hiệp huyện Cai Lậy. Đạo Cao Đài có khoảng
18


30.000 tín đồ, đa số theo giáo phái Cao Đài Tây Ninh, tập trung ở vùng Phú Mỹ huyện Châu
Thành và rãi rác ở nhiều nơi. Đạo Hòa Hảo có khoảng 8.000 tín đồ, tập trung chủ yếu ở
vùng Bắc của hai huyện Cai Lậy, Cái Bè. Đạo Phật có khoảng gần 100.000 tín đồ sống trên
khắp địa bàn toàn tỉnh [143, tr.8].
Mỹ Tho là vùng đất có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm. Năm 1785, nhân
dân Mỹ Tho đã góp phần quan trọng cùng với đại quân Tây Sơn đánh tan 5 vạn quân Xiêm
trên đoạn sông Tiền – Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút. Khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, phong trào kháng chiến của nhân dân Mỹ Tho liên tục nổ ra. Hàng loạt các cuộc
khởi nghĩa lớn nhỏ đã nổ ra như Khởi nghĩa của Trương Định (1861 - 1864), Thủ Khoa
Huân (1861 - 1875), Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều (1861 - 1866), Trần Xuân Hòa (1861
- 1862), Tứ Kiệt (1868 – 1870) ở Cai Lậy, ... quân dân Mỹ Tho đã biến mảnh đất này thành
pháo đài kháng chiến, thành một trong những trung tâm kháng chiến hàng đầu ở Nam Kỳ.
Mặc dù các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều bị thực dân Pháp nhấn chìm trong biển
máu nhưng vẫn không làm lung lay ý chí đấu tranh của nhân dân Mỹ Tho. Đầu thế kỉ XX,
thực dân Pháp cơ bản đã thiết lập được nền cai trị nước ta, nhưng ở Mỹ Tho, ngọn lửa đấu
tranh của nhân dân vẫn bùng cháy. Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào
Duy Tân của Phan Châu Trinh, phong trào Thiên Địa Hội của Phan Xích Long, phong trào
Minh Tân ... đều được nhân dân Mỹ Tho hưởng ứng nhiệt liệt dù phải trả giá bằng sự hy

sinh, tù đày.
Vào những năm 1920 của thế kỉ trước, phong trào yêu nước của nhân dân Mỹ Tho
tiếp tục phát triển theo xu hướng mới. Khi tổ chức Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ra
đời, các thanh niên yêu nước tiến bộ đã tiếp thu và xây dựng các chi bộ đầu tiên ở Mỹ Tho.
“Cuối năm 1927, Tỉnh bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Mỹ Tho được thành lập do
đồng chí Trần Ngọc Giai làm Bí thứ. Cơ quan tỉnh bộ đóng ở thị xã Mỹ Tho. Các đồng chí
trong Tỉnh bộ phân công nhau đi xây dựng cơ sở cách mạng ở các địa phương trong tỉnh
như ở thị xã Mỹ Tho, xã Vĩnh Kim (quận Châu Thành), ...” [13, tr.50]. Khi các tổ chức cộng
sản ra đời năm 1929, Mỹ Tho là một trong ba nơi có chi bộ cộng sản sớm nhất.
Khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 tháng 2 năm 1930, Mỹ Tho đã có một tổ
chức cộng sản mạnh. Hàng loạt chi bộ đã được hình thành và lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Cuộc đấu tranh mở đầu cho cao trào cách mạng 1930 – 1931 là cuộc đấu tranh kỉ niệm
Ngày quốc tế lao động 1-5-1930 của quần chúng nhân dân 6 xã huyện Cai Lậy, 12 xã của
huyện Châu Thành và 7 chợ trong vùng thu hút hàng ngàn người tham gia biểu tình và bãi
19


chợ. Tiếp theo, khắp nơi treo cờ đỏ búa liềm, rãi truyền đơn, biểu ngữ và nhiều cuộc biểu
tình, mít tinh được tổ chức nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn như: Ngày cách mạng tư sản
Pháp (14-7), Ngày cách mạng tháng Mười Nga (7-11), Ngày quốc tế phụ nữ (8-3).
Trong các thời kỳ đấu tranh 1932 – 1935, thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương
1936 – 1939, Mỹ Tho luôn là nơi có phong trào yêu nước của nhân dân diễn ra sôi nổi, liên
tục và mạnh mẽ. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945, phong trào cách
mạng của nhân dân Mỹ Tho lại bùng lên dữ dội. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm
1940. Nhân dân Mỹ Tho đã tích cực tham gia khởi nghĩa, giành thắng lợi ở nhiều vùng rộng
lớn. Chính tại đây, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh được thành lập, trụ sở đặt tại Đình
Hưng Long. Lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước trụ sở chính quyền cách mạng.
Cuộc khởi nghĩa đã bị thực dân Pháp khủng bố dã man như triệt hạ các làng mạc trung tâm
của cuộc khởi nghĩa, dùng máy bay ném bom vào Chợ Giữa (Vĩnh Kim) khi nhân dân đang
họp chợ ... Chúng đã bắt gần 3.000 người ở Mỹ Tho tham gia khởi nghĩa trên tổng số 6.000

người trên toàn Nam Kỳ. “Ngày 3,4 và 6-12, chúng đã bắt hơn 400 người, riêng cuộc ném
bom chợ Vĩnh Kim giết hơn 100 người. Tiếp đó, từ ngày 6 đến hết tháng 12-1940, chúng bắt
hơn 2.500 người nữa” [42, tr. 135]. Điều đó chứng tỏ Mỹ Tho là nơi cuộc khởi nghĩa diễn ra
rất mạnh mẽ.
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, phong trào yêu nước của nhân dân Mỹ Tho vẫn tiếp
tục phát triển. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương,
nhân dân Mỹ Tho đã cùng đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thành
công, giành lại độc lập cho dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ Tho luôn là chiến trường trọng điểm của
Nam Bộ, nơi diễn ra các trận chiến đấu lập nên những chiến thắng vang dội như trận Cổ Cò,
Giồng Dứa, Kinh Bùi ... Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, Mỹ Tho đã góp phần
xứng đáng cùng nhân dân cả nước góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực
dân Pháp phải ký Hiệp định Genève, lập lại hòa bình. Chính truyền thống yêu nước ấy đã
tạo nên sức mạnh cho nhân dân Mỹ Tho vùng lên đấu tranh chống lại chính sách khủng bố
của Mỹ - Diệm sau này mà đỉnh cao là phong trào Đồng Khởi năm 1960.

20


1.2. Chính sách của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam
1.2.1. Mỹ và chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định Genève, thi hành chính sách
“tố cộng, diệt cộng”
Trong khoảng thời gian từ sau Hiệp định Genève (1954) đến những năm cuối thập
niên 50 của thế kỉ XX, cuộc chiến tranh lạnh giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc
chủ nghĩa diễn ra gay gắt trên quy mô toàn cầu.
Năm 1953, Eisenhower lên làm Tổng thống nước Mỹ. Ngay sau khi lên cầm quyền,
Eisenhower tiếp tục thực hiện Chiến lược toàn cầu với ý đồ làm bá chủ thế giới, tiếp tục đẩy
mạnh chạy đua vũ trang, và tiến hành chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa. Đồng thời, cũng chuyển chính sách “ngăn chặn cộng sản” sang chính sách “đẩy
lùi cộng sản”, đòi giải phóng các nước xã hội chủ nghĩa.

Đối với Việt Nam, từ đầu thế kỉ XX, Mỹ đã có ý đồ xâm lược. Từ sau năm 1953,
chính quyền Mỹ đã can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh của Pháp và chống lại xu
hướng của thực dân Pháp muốn giải quyết chiến tranh thông qua thương lượng. Trong cuộc
họp Hội đồng an ninh quốc gia ngày 8 tháng 1 năm 1954, Tổng thống Mỹ Eisenhower tuyên
bố: “Mĩ không được quên những lợi ích quan trọng của mình ở khu vực này (Đông Dương)
… Đông Dương như là con đê đang bị rò rĩ và giải pháp tốt nhất là mó tay vào hơn là để
cho cả con đê bị cuốn trôi” [75, tr.31].
Tuy từ chối không kí kết vào tuyên bố chung của Hội nghị Genève, nhưng Mỹ cho
rằng việc chia cắt Việt Nam là cơ hội cho Mỹ xây dựng lực lượng phi cộng sản tại Nam Việt
Nam, làm con đê ngăn chặn “làn sóng đỏ”. Ý đồ của Mỹ đối với Nam Việt Nam như sau:
“- Xây dựng Nam Việt Nam thành một thể chế quốc gia chống cộng, đối lập với
Miền Bắc. Không có thỏa hiệp, hiệp thương tổng tuyển cử theo tinh thần Hiệp định Genève.
- Thiết lập một chính phủ chống cộng mạnh, hoạt động có hiệu quả trong và ngoài
nước.
- Tập trung xây dựng một quân đội quốc gia với qui mô 10 sư đoàn đủ sức ngăn chặn
sự phá hoại hay xâm lăng bằng quân sự đến từ miền Bắc, tiến tới khống chế toàn bộ Đông
Dương.” [82, tr.30].
Theo quy định của Hiệp định Genève, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền
ở vĩ tuyến 17 để thực hiện ngừng bắn, tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực nhằm lập
lại hòa bình. Cũng theo Hiệp định, hai miền Nam Bắc sẽ tiến hành hiệp thương, tổng tuyển
cử tự do để thống nhất sau thời hạn hai năm. Chính quyền Mỹ đã chủ trương phá hoại cuộc
21


tổng tuyển cử dự kiến trong tương lai. Bởi vì, Tổng thống Mỹ cho rằng nếu tổng tuyển cử,
Hồ Chí Minh có thể thu được 80% số phiếu [71, tr.448 - 449]. Mà trong mắt giới cầm quyền
Mỹ, giờ đây, Hồ Chí Minh là một người cộng sản hơn là một người theo chủ nghĩa dân tộc.
Vì thế, Mỹ chủ trương phá hoại hiệp thương và tổng tuyển cử nhằm ngăn chặn thắng lợi của
Cộng sản thông qua tổng tuyển cử.
Mặc dù Hiệp định Genève quy định “mỗi bên cam kết không dùng cách trả thù hoặc

phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức, vì lý do hoạt động của họ trong lúc chiến
tranh, và cam kết đảm bảo những quyền tự do dân chủ của họ” [84, tr.9] nhưng sau khi tiếp
quản miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết tâm trả thù những người kháng chiến
cũ, tiêu diệt các lực lượng cách mạng và yêu nước.
Sau khi ta hoàn tất việc chuyển quân tập kết, chính quyền Diệm đã liên tiếp mở các
chiến dịch càn quét thí điểm để rút kinh nghiệm. “Tháng 2-1955, địch mở chiến dịch Phan
Châu Trinh, đánh phá thí điểm các tỉnh ở Trung Bộ, lấy Quảng Nam làm trọng điểm.
Tháng 4-1955, địch mở “chiến dịch giải phóng”, đánh phá tỉnh Quảng Ngãi và vùng
Bắc Bình Định.
Tháng 5-1955, địch mở chiến dịch Trịnh Minh Thế, đánh phá toàn bộ các tỉnh Khu
5”[172, tr.78].
Từ tháng 5 năm 1955, chính quyền Diệm phát động “chiến dịch tố cộng giai đoạn 1”
trên qui mô toàn miền Nam. Mục đích của “chiến dịch tố cộng” nhằm “Gây uất hận trong
dân chúng đối với Việt cộng” [172, tr.78].
Kế hoạch “tố cộng” lúc đầu đánh trên diện rộng, sau đó đánh vào chiều sâu, đánh cả
nông thôn và thành thị. Mục tiêu là tập trung nơi có phong trào mạnh. Đánh vào cộng sản và
đánh cả vào dân, lấy đánh vào Đảng cộng sản làm mục tiêu quyết định nhất, vừa tiêu diệt
con người, vừa tiêu diệt tinh thần, tư tưởng.
Thực hiện được các mục tiêu trên, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn sẽ củng cố
được thế lực, đẩy mạnh hành động phá hoại hòa bình, dập tắt phong trào đấu tranh của nhân
dân đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Trọng điểm là nhằm vào cán bộ đảng viên và những
vùng căn cứ kháng chiến cũ, những nơi có phong trào đấu tranh của nhân dân.
Mỹ - Diệm đã tổ chức bộ máy chỉ đạo “tố cộng” rất quy mô, thống nhất từ trung
ương xuống tận cơ sở. Ở trung ương, có Hội đồng nhân dân chỉ đạo tố cộng do Ngô Đình
Diệm làm Chủ tịch danh dự và Trần Chánh Thành làm Chủ tịch hội đồng, Hội đồng chỉ định
ra Ủy ban chỉ đạo tố cộng trung ương có Ban thường trực gồm đại biểu các Bộ thông tin,
22


Công an, Quốc phòng. Ban chỉ đạo tố cộng tổ chức từ trung ương xuống tận cấp xã theo hệ

thống hành chính. Chính quyền Diệm còn cho thành lập hàng loạt trung tâm cải huấn nhằm
giam cầm những người bị phát hiện, bắt họ viết tờ “ly khai với cộng sản”, tố cáo “tội ác của
cộng sản”, bắt xé cờ Đảng... Ở Mỹ Tho, thuộc tỉnh Định Tường “được chọn làm thí điểm
cho cuộc triển khai qui mô quốc sách tố cộng, diệt cộng. Tên Nguyễn Trân chống cộng khét
tiếng, từ Miền Trung Trung Bộ được đưa vào làm Tỉnh trưởng” [18, tr. 57].
Được sự ủng hộ và khuyến khích của Mỹ, Ngô Đình Diệm cự tuyệt đề nghị hiệp
thương và tổng tuyển cử của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 18 tháng 7 năm
1957, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho chính quyền Ngô Đình Diệm đề nghị
nhà cầm quyền hai miền hiệp thương về tổng tuyển cử và thiết lập quan hệ bình thường giữa
hai miền. Ngày 26 tháng 7, Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị trên.
Sau khi tiêu diệt các lực lượng vũ trang giáo phái, Ngô Đình Diệm tiến hành xây
dựng một chính quyền “hợp pháp, hợp hiến”. Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Diệm tổ chức
“trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại và tự xưng Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Tiếp
đó, ngày 4 tháng 3 năm 1956, Ngô Đình Diệm cho tiến hành bầu cử Quốc hội lập hiến riêng
rẽ ở miền Nam. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1956, Ngô Đình Diệm ban hành Hiến pháp, thiết
lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Ngay sau khi thành lập, Mỹ và một số nước tư bản đồng
minh của Mỹ lập tức công nhận chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là hợp pháp, hợp hiến.
Như vậy, đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã không chỉ cố tình phá hoại
Hiệp định Genève, cự tuyệt việc tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử mà còn thi hành chính
sách “tố cộng, diệt cộng” thẳng tay trả thù những người kháng chiến cũ. Chúng tìm mọi
cách để tiêu diệt những người cộng sản, kể cả những người có cảm tình hay có liên hệ với
cách mạng mà chúng cho là mối đe dọa nguy hiểm nhất. Bước tiếp theo trong mưu đồ của
chúng là loại bỏ thế lực của Pháp và các phần tử thân Pháp để biến miền Nam thành một
quốc gia chống cộng, là tiền đồn của “thế giới tự do”.
1.2.2. Mỹ và chính quyền Diệm loại Pháp và các phần tử thân Pháp, thành lập
quốc gia chống cộng ở miền Nam Việt Nam
Thấy tình thế thất bại của thực dân Pháp là không thể tránh khỏi, Mỹ chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để thay thế Pháp, chuẩn bị người của Mỹ để nắm chính quyền của Quốc
gia Việt Nam. Ngày 7 tháng 7 năm 1954, trước khi Hiệp định Genève được ký kết khoảng
hai tuần, Ngô Đình Diệm đã thành lập chính phủ mới. Ngày 9 tháng 10 năm 1954, Ngô

Đình Diệm cách chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia của Nguyễn Văn Hinh vì
23


×