Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

đổi mới việc ra đề văn ở trường trung học phổ thông từ góc độ đổi mới kiểm tra đánh giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.26 KB, 174 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Linh Phương

ĐỔI MỚI VIỆC RA ĐỀ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỪ GÓC ĐỘ ĐỔI MỚI KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Linh Phương

ĐỔI MỚI VIỆC RA ĐỀ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỪ GÓC ĐỘ ĐỔI MỚI KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THANH BÌNH


Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


1

LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, góp ý chân thành và sự giúp đỡ từ quý thầy cô trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Trước hết tôi xin gửi lời cám ơn đến Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh, khoa Ngữ văn, Phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tôi thực hiện luận văn trong thời gian cho phép.
Tôi cũng xin cám ơn các đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình tiến
hành thực nghiệm cho luận văn.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy hướng dẫn là TS. Trần Thanh Bình đã
nhiệt tình hỗ trợ về mặt tài liệu và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Dù đã cố gắng thực hiện và hoàn thành luận văn bằng tất cả năng lực và tâm
huyết của mình nhưng luận văn sẽ không thể tránh khỏi những mặt thiếu sót. Rất
mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của quý thầy cô và các bạn.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 09 năm 2012.

Nguyễn Linh Phương


2

MỤC LỤC

LỜI CÁM ƠN ................................................................................................... 1

MỤC LỤC ......................................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... 5
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ 6
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 8
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 8
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................ 13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 13
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 14
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................... 14
7. Cấu trúc của luận văn............................................................................ 15
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 16
Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐỔI MỚI CÁCH RA ĐỀ

KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN........................................................................ 16
1.1. Cơ sở lí luận ....................................................................................... 16
1.1.1. Kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục ..................................... 16
1.1.1.1. Khái niệm....................................................................... 16
1.1.1.2. Vai trò của đề kiểm tra trong kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh .................................................................................. 19
1.1.2. Đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục ....................... 22
1.1.2.1. Quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục .. 22


3

1.1.2.2. Đổi mới phương pháp dạy học ...................................... 24
1.1.2.3. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh

................................................................................................................... 26
1.1.3. Đổi mới cách ra đề kiểm tra môn Ngữ văn............................... 28
1.1.3.1. Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ............... 28
1.1.3.2. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn
................................................................................................................... 30
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................... 35
1.2.1. Thực trạng việc ra đề kiểm tra môn Ngữ văn hiện nay ............ 35
1.2.2. Thực trạng đổi mới việc ra đề kiểm tra môn Ngữ văn hiện nay
................................................................................................................... 43
Chương 2 ĐỔI MỚI VIỆC RA ĐỀ KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG........................................................ 54
2.1. Mục đích đổi mới việc ra đề kiểm tra môn Ngữ văn ......................... 54
2.2. Yêu cầu cơ bản của đổi mới việc ra đề kiểm tra môn Ngữ văn......... 56
2.2.1. Phù hợp với đổi mới kiểm tra đánh giá hiện nay ...................... 56
2.2.2. Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học .............................. 58
2.2.3. Đảm bảo tính chính xác ............................................................ 61
2.2.4. Đảm bảo tính tích hợp............................................................... 65
2.2.5. Đảm bảo tính thực hành ............................................................ 68
2.2.6. Đảm bảo tính hệ thống, toàn diện ............................................. 70
2.3. Một số mô hình xây dựng đề kiểm tra môn Ngữ văn theo góc độ đổi
mới ............................................................................................................ 74


4

2.3.1. Xây dựng đề kiểm tra thường xuyên ........................................ 74
2.3.2. Xây dựng đề kiểm tra định kì ................................................... 79
2.3.3. Xây dựng đề kiểm tra học sinh giỏi .......................................... 82
2.3.4. Mô hình đề thi tốt nghiệp, đề tuyển sinh .................................. 84
Chương 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ....................................................... 89

3.1. Mục đích thực nghiệm ....................................................................... 89
3.2. Thời gian và quá trình thực nghiệm................................................... 89
3.3. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm .................................................... 90
3.4. Nội dung thực nghiệm ....................................................................... 91
3.4.1. Hệ thống đề kiểm tra thực nghiệm............................................ 91
3.4.1.1. Đề kiểm tra thường xuyên ............................................. 91
3.4.1.2. Đề kiểm tra định kì ........................................................ 91
3.4.1.3. Đề thi học kì ................................................................... 92
3.4.2. Quy trình xây dựng một số đề kiểm tra .................................... 93
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ......................................................... 106
3.5.1. Kết quả thực nghiệm ............................................................... 106
3.5.2. Nhận xét kết quả thực nghiệm ................................................ 112
3.5.3. Một số kết luận và kiến nghị ................................................... 115
KẾT LUẬN ................................................................................................... 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 120
PHỤ LỤC


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ, cụm từ

Viết tắt

Giáo viên

GV


Học sinh

HS

Kiểm tra đánh giá

KTĐG

Nhà xuất bản

Nxb

Nghị luận xã hội

NLXH

Nghị luận văn học

NLVH

Phương pháp dạy học

PPDH

Sách giáo khoa

SGK

Trung học cơ sở


THCS

Trung học phổ thông

THPT


6

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Thống kê kết quả khảo sát loại đề kiểm tra HS thích được làm
Bảng 1.2. Thống kê kết quả khảo sát ý kiến HS về những vấn đề xung quanh việc ra
đề
Bảng 1.3. Thống kê kết quả khảo sát mức độ điểm HS đạt được đối với từng loại đề
kiểm tra
Bảng 1.4. Thống kê kết quả khảo sát các cơ sở GV lấy làm căn cứ để ra đề
Bảng 1.5. Thống kê kết quả khảo sát ý kiến GV về những vấn đề xung quanh việc
ra đề
Bảng 1.6. Thống kê kết quả khảo sát mức độ cần thiết của đổi mới KTĐG
Bảng 1.7. Thống kê kết quả khảo sát những hướng đổi mới KTĐG của GV hiện nay
Bảng 1.8. Thống kê kết quả khảo sát hướng đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn
của GV ở trường phổ thông
Bảng 1.9. Thống kê kết quả khảo sát mục đích đổi mới KTĐG của GV
Bảng 1.10. Thống kê kết quả khảo sát hiệu quả việc đổi mới KTĐG của GV
Bảng 1.11. Thống kê kết quả khảo sát những khó khăn mà GV gặp phải khi đổi mới
KTĐG
Bảng 1.12. Thống kê kết quả khảo sát mức độ quan tâm của GV đối với những khía
cạnh của đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn
Bảng 1.13. Thống kê kết quả khảo sát mức độ quan tâm của HS đối với những khía

cạnh của đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn


7

Bảng 1.14. Thống kê kết quả khảo sát phần đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn
gây thích thú cho HS
Bảng 3.1. Thống kê kết quả thực nghiệm khảo sát GV về mức độ đạt được các yêu
cầu cơ bản cần đảm bảo khi ra đề của bộ đề thực nghiệm
Bảng 3.2. Thống kê kết quả thực nghiệm khảo sát GV về mức độ đạt được của bộ
đề thực nghiệm về một số mặt cơ bản cần đảm bảo của một đề kiểm tra
Bảng 3.3. Thống kê kết quả thực nghiệm khảo sát GV về các yêu cầu cơ bản cần
đảm bảo khi ra đề thể hiện trong Quy trình xây dựng một số đề kiểm tra cụ thể
Bảng 3.4. Thống kê kết quả thực nghiệm khảo sát HS về độ khó, độ mở, độ hấp dẫn
của bộ đề thực nghiệm


8

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dạy học là một quá trình gồm nhiều khâu liên hợp, có quan hệ mật thiết và
tác động qua lại với nhau như: mục tiêu, nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức
dạy học, KTĐG,…Trong đó, “đánh giá việc học tập của học sinh là một khâu vừa
đóng vai trò bánh lái, vừa giữ vai trò động lực của dạy học, kiểm tra, đánh giá có tác
động đến việc canh tân trong đào tạo” [11]. Khâu KTĐG không những phân loại
chất lượng giảng dạy và học tập mà còn có chức năng phát hiện, điều chỉnh giúp ta
điều khiển quá trình dạy học theo chiều hướng lành mạnh, tích cực: GV điều chỉnh
phương pháp dạy, HS điều chỉnh phương pháp học tập. KTĐG là khâu cuối cùng
của quá trình dạy học, đồng thời là cơ sở để mở ra một quá trình dạy học mới.

Chính vì vậy, khâu kiểm tra đánh giá có một vị trí và tầm quan trọng đặc biệt đối
với toàn bộ quá trình dạy học.
Điều 29 mục 1 Luật Giáo dục 2005 có ghi: “Chương trình giáo dục phổ
thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kĩ năng,
phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ
chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học
ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông” [1]. Như vậy, đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương
pháp, phương tiện đến KTĐG. Đổi mới PPDH để đáp ứng những yêu cầu mới của
mục tiêu dạy học nên kiểm tra, đánh giá cũng cần có sự chuyển biến mạnh mẽ theo
hướng bám sát vào mục tiêu dạy học; xác định được vai trò, vị trí của người học,
đáp ứng yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn mà nền giáo dục đặt ra.
Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn cũng như bất kì một môn học
khác theo tiến trình thời gian được xác định rõ hơn về mục tiêu, đổi mới về nội
dung chương trình, cải tiến về phương pháp…. Đổi mới khâu KTĐG là kết quả tất
yếu của quá trình đổi mới dạy và học văn, phù hợp với xu hướng đổi mới toàn diện
chương trình giáo dục phổ thông. KTĐG càng sâu sát, càng khách quan thì kết quả
thu được càng chính xác. KTĐG sẽ là một “cái kích” góp phần nâng cao chất lượng


9

và hiệu quả giáo dục của nước nhà, giúp các nhà quản lý giáo dục đánh giá đúng
những mục tiêu đã đặt ra.
Trong KTĐG, công việc ra đề là công đoạn quan trọng nhất bởi nó định
hướng, chi phối toàn bộ các công đoạn KTĐG sau nó nữa. Theo GS. Phan Trọng
Luận: “Đề thi là một khâu đột phá có thể giải quyết được nhiều vấn đề trọng đại của
nền giáo dục”. “Đề thi là thước đo trình độ văn minh của một nền giáo dục - đề thi
là lực nắn cách dạy, cách học…Ra đề thi sáng tạo thì tự nhiên đã diệt trừ tận gốc
mọi trò phao thi, mọi lò luyện thi. Trong nhà trường sẽ học sáng tạo, dạy thông

minh. Thực học sẽ được phục hưng, hư học sẽ được đẩy lùi” [41]. Hơn nữa, “đổi
mới cách ra đề là con đường ngắn nhất dẫn đến đổi mới phương pháp dạy học, cách
tiếp cận văn chương” [15]. Thời gian gần đây, vấn đề đổi mới cách ra đề thi môn
Ngữ văn đang là vấn đề bức xúc, được tranh luận sôi nổi đặc biệt xoay quanh việc
ra đề “mở”, về hình thức, nội dung, cấu trúc của đề, việc cải tiến qui trình ra đề,
soạn đáp án, chấm bài, trả bài kiểm tra thế nào cho hợp lí nhưng vẫn chưa ngã ngũ.
Đây thực sự là một vấn đề nan giải cần có sự chung tay góp sức của nhiều người.
Từ những luận điểm trên, người viết xây dựng đề tài Đổi mới việc ra đề
Văn ở trường trung học phổ thông từ góc độ đổi mới kiểm tra đánh giá với
mong muốn góp một cái nhìn sáng rõ hơn về việc đổi mới cách ra đề môn Ngữ văn
ở trường THPT; từ đó thực hiện ra đề theo tinh thần đổi mới ứng dụng vào thực tiễn
giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả quá trình dạy học môn Ngữ văn
ở trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Từ lâu trong lịch sử giáo dục, người ta đã sử dụng thi và kiểm tra để đánh giá
kết quả học tập của người học, đồng thời nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa thi,
kiểm tra với chất lượng dạy học. Ở Việt Nam, trong sự phát triển của nền giáo dục,
KTĐG là một bộ phận cấu thành của quá trình dạy học. Nó ra đời, tồn tại cùng với
sự đi lên của hoạt động dạy học. Cho đến nay, vấn đề này đã có nhiều công trình
nghiên cứu; trên các sách báo tạp chí về giáo dục đã xuất hiện nhiều bài viết, ý kiến


10

tranh luận, bàn luận xung quanh vấn đề đổi mới KTĐG sao cho phù hợp với tình
hình dạy học mới một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, có thể khẳng định
vấn đề Đổi mới việc ra đề Văn ở trường THPT từ góc độ đổi mới kiểm tra đánh giá
thì vẫn chưa có một công trình nào đề cập đến một cách hoàn chỉnh, hệ thống.
Các tài liệu nghiên cứu về KTĐG kết quả học tập của HS và đổi mới việc ra
đề có khá nhiều nhưng có thể phân làm hai loại: các công trình nghiên cứu chung và

các ý kiến cụ thể của cá nhân trên các báo, tạp chí khoa học.
Các công trình nghiên cứu về KTĐG kết quả học tập của HS theo thời gian
ngày càng mang tính khái quát lí luận cao. Những người có đóng góp vào lĩnh vực
nghiên cứu này phải kể đến nhóm tác giả Hà Thế Ngữ [48], Hoàng Đức Nhuận - Lê
Đức Phúc [51], Trần Thị Tuyết Oanh [52], Lâm Quang Thiệp [60], Dương Thiệu
Tống [68], Phạm Viết Vương [76],… Trong những tài liệu trên, những vấn đề về
khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng của KTĐG, các hình thức đánh giá đã được xây
dựng. Đây là định hướng tốt về phương diện lí luận, là cơ sở triển khai những nội
dung cụ thể về đánh giá trong các môn học.
Một số tài liệu nghiên cứu khác như Đổi mới phương pháp dạy học, chương
trình và sách giáo khoa [23], Bước đầu đổi mới kiểm tra kết quả học tập các môn
của học sinh lớp 6 [36], Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung
học phổ thông [61], Hệ thống đề kiểm tra nhằm đánh giá năng lực ngữ văn của học
sinh trung học cơ sở theo yêu cầu tích hợp [72], Kiểm tra đánh giá để phát huy tính
tích cực của HS bậc trung học [73] trình bày cơ sở kiểm tra, đánh giá kiến thức học
tập của HS phù hợp với PPDH tích cực trong thời đổi mới, cần thiết phải có sự thay
đổi toàn diện về KTĐG môn Ngữ văn trong nhà trường. Trong các công trình này,
các tác giả nêu lên các nguyên tắc và cụ thể hóa định hướng đổi mới PPDH Ngữ
văn như đổi mới nội dung, phương pháp, đổi mới KTĐG, đổi mới cách ra đề theo
yêu cầu tích hợp,…
Các công trình Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra
đánh giá môn Ngữ văn 10 [10], Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ Văn của
học sinh THCS, THPT [24] chỉ ra sự cần thiết phải đổi mới việc ra đề văn ở THPT


11

là một khi mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp…thay đổi thì không thể
không thay đổi cách KTĐG. Và để thay đổi cách KTĐG, việc đầu tiên là phải thay
đổi cách ra đề kiểm tra, nhất là ra đề phải bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng môn

học. Hai công trình này nêu rõ phương hướng đổi mới việc ra đề văn ở THPT là từ
những đổi mới về PPDH, đổi mới khâu KTĐG, đổi mới mục tiêu, nội dung chương
trình; đồng thời đề xuất hướng đổi mới cách ra đề văn cả về nội dung, cấu trúc, hình
thức cũng như giới hạn dung lượng bài viết. Các tác giả này cũng như giáo sư Đỗ
Ngọc Thống [61] đều nhất trí dạng đề văn trong nhà trường phổ thông hiện nay là
rất đa dạng. Việc ra đề dạng nào phụ thuộc vào mục đích của từng bài kiểm tra, vào
đối tượng HS.
Ngoài các công trình trên, còn có một số bài báo bàn về đổi mới KTĐG, đổi
mới thi cử. Chúng ta có thể kể đến các bài viết của Lê Trọng Đại [14], Phan Đình
Đông [16], Phạm Thị Trinh Mai [43], Lê Đức Ngọc [45], Phúc Nguyên [47], … Các
tác giả này yêu cầu cần phải xây dựng được bộ đề có nội dung phù hợp với mục tiêu
môn học, phù hợp với thời gian và phương pháp kiểm tra, kĩ thuật trình bày rõ ràng
không làm cho HS hiểu sai dẫn tới lạc đề. Tác giả Phan Đình Đông [16] còn nêu ý
kiến để đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập ở trường phổ thông thì nhất định
nhà trường phải xây dựng một ngân hàng đề thi và đáp án. Đề thi phải tuân thủ
những tiêu chí: đảm bảo mục tiêu dạy học, bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng; phải
có tính chất mở; đa dạng hóa công cụ đánh giá, phối hợp một cách nhịp nhàng giữa
các hình thức kiểm tra vấn đáp, trắc nghiệm, tự luận. Như vậy, đổi mới cách ra đề
đòi hỏi phải có sự thích ứng của những khâu liên quan.
Bên cạnh đó, bài viết của tác giả Nguyễn Duy Kha [35] góp phần làm rõ
nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế chất lượng KTĐG môn Ngữ văn ở trường phổ
thông không chỉ ở khâu ra đề mà còn ở khâu liên quan với nó, cụ thể là công tác
chấm bài chưa tốt; chuẩn và thang đáp án chưa rõ ràng.
Năm 2006, sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành triển khai đổi mới từ
nội dung chương trình, SGK, phương pháp, phương tiện dạy học đến đánh giá kết
quả học tập ở tất cả các môn học, Bộ chủ trương áp dụng các hình thức trắc nghiệm


12


khách quan vào việc kiểm tra một số nội dung môn học một cách hợp lí. Tuy nhiên,
trong thực tế dạy học, một số môn học mang tính đặc thù (như môn Ngữ văn) thì
việc ứng dụng cơ sở lí thuyết chung vào thực tiễn lại còn rất nhiều điều đáng bàn.
Những năm đầu thực hiện thi trắc nghiệm ở một số môn, vấn đề hình thức đề kiểm
tra gây nhiều tranh cãi: Ra đề tự luận hay đề trắc nghiệm? Cách kết hợp giữa chúng
ra sao? Hiệu quả thực tế đem lại là gì? Cao Đăng Chuyên [12], Trương Văn Hà
[19], Nguyễn Xuân Huỳnh [32], Hoàng Phương [53], Hoàng Thu [66], Nguyễn
Cảnh Toàn [67],… cho rằng thi trắc nghiệm là cách thức tiên tiến nhưng chưa hoàn
hảo, còn nhiều tiêu cực. Trái lại, Dương Đức Sáu trong bài viết của mình [56]
chứng minh thi trắc nghiệm là một biện pháp thực hiện “hai không” trong giáo
dục… Cùng nhìn nhận về hình thức đề kiểm tra, các tác giả Nguyễn Thị Bích [3],
Trần Hinh [22], Nguyễn Thế Hưng [33], Nguyễn Thị Lan Hương [34], Đặng Thị
Mây [44] quan niệm đổi mới cách ra đề tự luận, qui trình ra đề nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS khi làm bài sẽ là một trong những giải pháp
nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông,…Các tác giả Hùng
Phi Chường [13], Trần Đình Sử [57], Đỗ Ngọc Thống [64] tỏ ra tâm huyết với đề
văn mở trong quá trình nghiên cứu đổi mới công tác ra đề bởi đề mở là một hướng
tiến bộ trong dạy học làm văn, có tác dụng “thử tài tư duy sáng tạo, khả năng ứng
phó linh hoạt của HS” [57, 21]. Trong tham luận Hội thảo về Đổi mới ra đề kiểm
tra, đề thi môn Ngữ văn THPT, tác giả Ngô Trí Đương [17] đã góp thêm tiếng nói
khẳng định đổi mới ra đề thi môn Ngữ văn THPT là một việc làm phức tạp, khó
khăn, công phu.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu và bài viết về KTĐG, liên quan về đổi
mới cách ra đề xuất hiện nhiều nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên
sâu cả về lí luận và thực tiễn về đổi mới cách ra đề môn Ngữ văn từ góc độ đổi mới
KTĐG. Các kết quả nghiên cứu chủ yếu mới nêu lên các vấn đề cần giải quyết, biện
pháp thực hiện chưa nhiều, mức độ ứng dụng trong thực tế cụ thể vẫn chưa thể hiện
rõ. Việc nghiên cứu và đề xuất một hệ thống đề kiểm tra môn Ngữ văn theo tinh
thần đổi mới KTĐG môn học là một vấn đề cần được tìm hiểu và triển khai cụ thể,



13

từ lí luận đến thực tiễn và thực nghiệm khoa học. Điều này cũng phản ánh tính cấp
thiết của đề tài mà luận văn lựa chọn. Do vậy, trong phạm vi luận văn này, chúng
tôi sẽ kế thừa những kết quả đã đạt được, đồng thời tiếp tục bổ sung, phát triển về
mặt lí luận và xây dựng biện pháp, những hướng đi cụ thể hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn hướng tới việc chỉ ra những căn cứ khoa học
của việc KTĐG từ khâu ra đề trên cơ sở kết hợp liên hoàn với các khâu khác, đề
xuất cách thức tiến hành xây dựng đề kiểm tra, giúp GV có những định hướng cần
thiết cho việc ra đề trong quá trình dạy học, giúp HS tiếp cận với hình thức đánh giá
mới để chuẩn bị cho việc đổi mới toàn diện trong công cuộc đổi mới, nâng cao chất
lượng học tập môn Ngữ văn trong thời gian sắp tới.
3.2. Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết một số nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
3.2.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về đổi mới việc ra đề môn Ngữ văn từ
góc độ đổi mới KTĐG trong nhà trường phổ thông hiện nay.
3.2.2. Xây dựng yêu cầu, mô hình của hệ thống đề kiểm tra Ngữ văn trong tình hình
mới.
3.2.3. Triển khai thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của những đề
xuất về hệ thống đề kiểm tra môn Ngữ văn, trên cơ sở kết quả thực nghiệm sẽ tiến
hành phân tích, đánh giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho những bước
nghiên cứu tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vấn đề KTĐG trong môn học Ngữ văn không còn là vấn đề mới mẻ trong
nghiên cứu lí thuyết nhưng thực tế triển khai ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều bất
cập. Luận văn không tham vọng giải quyết tất cả vấn đề về KTĐG mà chỉ bước đầu
xác định vị trí, vai trò của việc ra đề trong quá trình KTĐG môn Ngữ văn, hiện thực
hóa một phần những định hướng về việc ra đề từ góc độ đổi mới khâu KTĐG. Từ



14

đó xây dựng mô hình của hệ thống đề kiểm tra đặc thù của bộ môn đáp ứng được
yêu cầu đổi mới trong dạy và học ở trường THPT hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và thực hiện được những nhiệm vụ mà luận văn đặt ra,
chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
5.1.

Phương pháp hồi cố tư liệu: nhằm phân tích, tổng hợp, khái quát các quan

điểm, luận điểm khoa học trong các tài liệu có liên quan đến đề tài.
5.2.

Phương pháp điều tra khảo sát
Để có cái nhìn tổng thể về việc ra đề kiểm tra môn Ngữ văn theo tinh thần

đổi mới của môn học nhất là ra đề phải căn cứ trên góc độ đổi mới khâu KTĐG,
người viết tiến hành điều tra, khảo sát GV và HS ở trường phổ thông. Trên cơ sở
những dữ liệu có được, tác giả luận văn sẽ sử dụng tiếp theo các phương pháp như
phân loại, thống kê, xử lí và đưa ra nhận xét.
5.3.

Phương pháp thực nghiệm
Muốn khẳng định giá trị và khả năng thực thi của một công trình nghiên cứu,

cần phải đưa những nghiên cứu đó vào thực tiễn để kiểm chứng hiệu quả. Do đó,
trong luận văn này, việc thực nghiệm là không thể thiếu. Chúng tôi tiến hành thực

nghiệm bằng cách phát phiếu trưng cầu ý kiến của GV và HS về hệ thống đề kiểm
tra đã được đề xuất trong luận văn và phân tích kết quả theo những tiêu chí đã được
xác định, qua đó chứng minh, khẳng định những đề xuất mà luận văn đưa ra không
chỉ có cơ sở khoa học mà còn có giá trị thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu nêu lên những cơ sở lí luận và thực tiễn của việc ra đề kiểm
tra môn Ngữ văn ở trường THPT trong tình hình mới. Từ đó đề xuất, hình thành
những yêu cầu, tiêu chí xây dựng các đề kiểm tra có chất lượng đáp ứng nhu cầu đổi


15

mới việc đánh giá môn học, phát huy vai trò của nó trong quá trình dạy học Ngữ
văn ở trường THPT.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Chương 1 làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đổi mới cách
ra đề kiểm tra môn Ngữ văn.
Chương 2: Trên cơ sở làm rõ cơ sở khoa học ở chương 1, người viết đưa ra
các yêu cầu có tính nguyên tắc khi xây dựng hệ thống đề kiểm tra Ngữ văn từ góc
độ đổi mới KTĐG. Chương này đi vào trọng tâm xây dựng mô hình đề kiểm tra trên
cơ sở những yêu cầu cơ bản nhất của việc đổi mới công tác ra đề.
Chương 3: Chương này mô tả quá trình thực nghiệm để từ đó đánh giá tính
khả thi của các mô hình đề kiểm tra mà người viết đề xuất.


16

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐỔI MỚI
CÁCH RA ĐỀ KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục
1.1.1.1. Khái niệm
Kiểm tra là một phần của quá trình dạy học. Theo Đại từ điển Tiếng Việt,
kiểm tra nghĩa là “xem xét thực chất, thực tế” [77, 937].
Theo Từ điển Giáo dục học, “kiểm tra là một bộ phận của hoạt động dạy học
nhằm nắm được thông tin về trạng thái và kết quả học tập của học sinh, về những
nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó để tìm ra các biện pháp khắc phục những lỗ
hổng đồng thời củng cố và tiếp tục nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học” [21,
224].
Một số nhà nghiên cứu cho rằng kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc
hoạt động mà GV sử dụng để thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức, kĩ năng và
thái độ học tập của HS trong học tập nhằm cung cấp dữ kiện làm cơ sở cho việc
đánh giá. Kiểm tra được hiểu theo nghĩa rộng như là theo dõi quá trình học tập và
cũng có thể hiểu theo nghĩa hẹp như là công cụ kiểm tra hoặc một bài kiểm tra trong
các kì thi.
Như vậy, có thể hiểu kiểm tra là theo dõi, sự tác động của người kiểm tra đối
với người học nhằm thu được những thông tin cần thiết cho việc đánh giá. Kiểm tra
có ba chức năng bộ phận liên kết, thống nhất, thâm nhập vào nhau và bổ sung cho
nhau đó là: đánh giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh.
Đánh giá là “nhận xét, bình phẩm về giá trị” [77, 589], là khả năng xác định
giá trị thông tin, xác định mức độ đạt được về thực hiện mục tiêu. Đánh giá là một


17


trong những nhiệm vụ quan trọng của hệ thống giáo dục. “Đánh giá trong giáo dục
là quá trình thu thập và lí giải kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng, khả năng
hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu dạy học,
mục tiêu đào tạo làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động giáo dục
tiếp theo” [51, 11]. Đánh giá thường ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo
dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao
hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.
* Mối quan hệ giữa kiểm tra, đánh giá:
Kiểm tra, đánh giá là những yếu tố phức tạp của quá trình dạy học, được thực
hiện thông qua hoạt động của thầy - trò nhằm đánh giá kết quả học tập của HS và
tạo động lực cho quá trình dạy học mới. Kiểm tra, đánh giá có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, là hai khâu trong một qui trình thống nhất xác định kết quả thực hiện mục
tiêu. Việc kiểm tra cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc
đánh giá. Kiểm tra được xem là phương tiện và hình thức quan trọng nhất của đánh
giá. Như vậy, nếu coi đánh giá là mục đích của một hoạt động thì kiểm tra là
phương tiện quan trọng để thực hiện mục đích đó. Thông qua khâu kiểm tra, GV có
thể nắm bắt cụ thể, chính xác năng lực học tập của mỗi HS qua việc giải quyết các
vấn đề đưa ra trong quá trình học tập, giai đoạn học tập. Và nhờ đánh giá, GV sẽ
phát hiện ra những mặt tốt lẫn chưa tốt trong trình độ đạt tới của HS, trên cơ sở đó
tìm hiểu kĩ nguyên nhân của những lệch lạc về phía người dạy cũng như người học
hoặc có thể từ khách quan. Phát hiện ra lệch lạc, tìm ra nguyên nhân của những lệch
lạc đó là rất quan trọng vì sự thành đạt trong kết quả là điều đã dự kiến trong mục
tiêu, còn những lệch lạc thường bị bỏ qua, mà nếu sửa chữa, loại trừ chúng thì chất
lượng sẽ tốt hơn.
Quá trình kiểm tra cho phép làm rõ các đặc trưng về số lượng và chất lượng
của thực trạng giáo dục. Kiểm tra và đánh giá là hai hoạt động đan xen nhằm miêu
tả và tập hợp những bằng chứng về kết quả của quá trình giáo dục nhằm đối chiếu
với mục tiêu. Kiểm tra luôn gắn với đánh giá vì kiểm tra mà không đánh giá dẫn



18

đến hiệu quả thu được không chính xác. Đánh giá mà không dựa vào số liệu của
kiểm tra thì dễ mang tính ngẫu nhiên, chủ quan, dễ dẫn đến chất lượng giáo dục
không thật. Trong thực tế, cũng có thể tiến hành thu thập các thông tin nhưng không
đánh giá. Tuy nhiên, để đánh giá được cần tiến hành kiểm tra, tức phải tiến hành thu
thập thông tin làm căn cứ cho đánh giá.
Trong giáo dục, KTĐG chất lượng giáo dục là việc làm cần thiết, nhằm xác
định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn của đối tượng được
đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Đây là hoạt động đánh giá các đối
tượng của giáo dục về mức độ đáp ứng các quy định về chuẩn đánh giá chất lượng
giáo dục đối với từng đối tượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Đối tượng
được đánh giá trong giáo dục phổ thông chủ yếu là chương trình, cơ sở giáo dục,
cán bộ quản lí, GV, HS,…
Để đánh giá chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học thì đánh giá kết quả học
tập của HS là một nguồn thông tin quan trọng. Đây là quá trình đo lường mức độ
đạt được của HS về các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học.
Để KTĐG hoạt động học tập của HS đạt hiệu quả, nhà giáo dục cần đảm bảo
các yêu cầu sư phạm như: tôn trọng tính khách quan, tính toàn diện, tính thường
xuyên và hệ thống, tính phát triển. Tính khách quan trong việc kiểm tra thể hiện ở
khả năng lĩnh hội nội dung tri thức trong các tài liệu học tập, mặt khác còn thể hiện
ở chuẩn đánh giá đúng đắn, rõ ràng, tinh thần chấm bài công tâm của GV. Tương
tự, việc đảm bảo tính toàn diện được xem xét trên hai mặt, một mặt là khả năng bao
quát lượng tri thức, kĩ năng, thái độ trong từng môn học, mặt khác, chú trọng đến
năng lực của trí tuệ, năng lực tư duy, sự sáng tạo của HS khi làm bài. Thêm nữa,
cần đảm bảo tính thường xuyên và hệ thống vì qui luật của trí nhớ được tái hiện một
cách liên tục. Cuối cùng, khi KTĐG cần xem xét toàn diện cả quá trình học tập, rèn
luyện của HS. Trên những cơ sở này, GV sẽ có những điều chỉnh cho phù hợp với
tình hình thực tiễn, từng bước nâng cao chất lượng dạy - học của thầy và trò.



19

1.1.1.2. Vai trò của đề kiểm tra trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
học sinh
Đề kiểm tra là những câu hỏi hoặc bài tập được đưa ra trong một thời điểm
nhất định, đòi hỏi HS phải trả lời, giải quyết bằng hình thức viết, làm thực hành thí
nghiệm hoặc trả lời miệng; có quy định cụ thể về thời gian thực hiện nhằm qua đó
đánh giá kết quả học tập của HS trong quá trình học tập hoặc một giai đoạn học tập.
Đề kiểm tra phản ánh được sự liên kết và phát triển của các kiến thức, kĩ năng được
trang bị cho HS qua từng đơn vị bài học của môn học.
Trong quá trình nâng cao chất lượng dạy và học ở trường phổ thông, đổi mới
chương trình và SGK cũng như cách dạy và ra đề thi là vấn đề then chốt, cần tiến
hành đồng bộ giữa đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và KTĐG. Nguyên Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã từng phát biểu với bạn đọc
báo tuổi trẻ: “Theo kinh nghiệm của Singapore, để chuyển đổi hiệu quả từ một nền
giáo dục “thuộc lòng” qua một nền giáo dục tạo ra con người có nhân cách, có tri
thức, có kĩ năng, biết cách tự học và nghiên cứu suốt đời thì then chốt và quan trọng
nhất là thay đổi cách ra đề thi”[49, 13]. Như vậy, việc ra đề thi, đề kiểm tra là một
biện pháp để uốn nắn cách dạy của GV và cách học của HS một cách hữu hiệu nhất.
Hơn nữa, KTĐG - trong đó việc ra đề là công đoạn quan trọng nhất - là điểm then
chốt sẽ tác động lại toàn bộ hệ thống, từ dạy, học, đến biên soạn SGK, chương trình
môn học. Chính vì vậy, công việc ra đề có một tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn
bộ quá trình dạy học.
Trong quá trình dạy học ở các cấp bậc, mục tiêu và nhiệm vụ dạy học luôn là
căn cứ cho việc lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, xác định
mục đích để KTĐG đồng thời là căn cứ cho việc xây dựng đề thi, đề kiểm tra. Đề
thi, đề kiểm tra nếu được xây dựng phù hợp, có nội dung đánh giá, hình thức diễn
đạt tương ứng với mục tiêu, nhiệm vụ môn học sẽ góp phần kích thích tính tích cực

học tập của HS, đảm bảo tính khách quan, toàn diện trong thi, kiểm tra từ đó tác
động mạnh mẽ đến chất lượng thi, kiểm tra.


20

Quá trình dạy học là một quá trình vận động và phát triển không ngừng. Vì
thế, ứng với từng thời điểm dạy học nhất định có những mục tiêu, nhiệm vụ nhất
định. Những mục tiêu, nhiệm vụ này đặt ra những yêu cầu kiểm tra, đánh giá khác
nhau, đòi hỏi nội dung đánh giá, hình thức diễn đạt của đề thi, đề kiểm tra khác
nhau. Do vậy, để thực hiện yêu cầu đánh giá tại thời điểm nào trong quá trình dạy
học, việc soạn đề thi, đề kiểm tra phải căn cứ trên cơ sở phân tích đúng đắn mục
tiêu, nhiệm vụ dạy học tại thời điểm đó. Đảm bảo được điều này sẽ đáp ứng được
yêu cầu và làm tăng chất lượng kiểm tra, thi cử.
Kiểm tra, thi cử trong nhà trường hiện nay là một phương thức để điều chỉnh
các khâu của quá trình dạy học. Và đề thi, đề kiểm tra là một trong những công cụ
góp phần hoàn thành nhiệm vụ đó. Đề thi, đề kiểm tra ngoài việc đặt ra các yêu cầu
về kiến thức, kĩ năng, thái độ mà HS cần đáp ứng còn có khả năng chỉ đạo phương
pháp học tập và nâng cao ý thức tự giác của HS khi làm bài. Do đó, đề thi, đề kiểm
tra có vai trò đáng kể thực hiện chức năng dạy học, giáo dục.
Đề thi, đề kiểm tra; phương pháp, phương tiện thực hiện thi, kiểm tra là
những yếu tố vừa có quan hệ chặt chẽ vừa có tính độc lập tương đối trong quá trình
thi, kiểm tra. Sự phù hợp của đề với các phương pháp, phương tiện thực hiện nó thể
hiện ở sự phù hợp giữa nội dung, hình thức diễn đạt của đề với các đặc điểm, khả
năng thực hiện của các loại phương pháp, phương tiện. Nếu không có sự phù hợp
giữa các yếu tố này trong đề thì chất lượng thi, kiểm tra nhất định sẽ bị hạn chế.
Trong thi cử, HS thường căn cứ vào yêu cầu của đề để thực hiện bài thi, bài
kiểm tra và GV căn cứ vào đề để đánh giá kết quả học tập mà HS đạt được. Do đó,
khi soạn đề, đảm bảo tính sư phạm và chính xác về mặt khoa học cho đề là yêu cầu
quan trọng, tránh không đạt được mục đích đánh giá.

Yêu cầu đối với một đề kiểm tra, đề thi là những đòi hỏi mà đề cần phải đạt
được nhằm đáp ứng chất lượng thi, kiểm tra. Các yêu cầu đặt ra đối với đề thi, đề
kiểm tra là phải phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ dạy học của từng thời điểm, trong


21

từng giai đoạn của quá trình đào tạo; góp phần thực hiện chức năng dạy học, giáo
dục của kiểm tra, thi cử; phù hợp với phương pháp, phương tiện thực hiện; đảm bảo
tính sư phạm, chính xác về mặt khoa học.
Một đề kiểm tra tốt phải thực hiện đầy đủ yêu cầu: phù hợp với mục đích của
việc kiểm tra, đánh giá được những kiến thức, kĩ năng cơ bản mà HS cần đạt trong
quá trình học tập, đồng thời tạo điều kiện cho HS củng cố, khắc sâu và nắm vững
kiến thức. Đề kiểm tra cần đảm bảo tính vừa sức và có sự phân hóa đối tượng làm
bài, phù hợp với thời gian cho phép thí sinh làm bài.
Nội dung kiến thức của đề phải nằm trong chương trình, có tính bao quát,
chú ý đến kiến thức trọng tâm của từng đơn vị kiến thức cần kiểm tra. Ngoài ra, một
đề kiểm tra chất lượng phải đảm bảo được một số đại lượng đặc trưng như độ khó,
độ phân biệt, độ tin cậy, độ giá trị cùng với tính đặc thù của môn học. Chẳng hạn,
môn Ngữ văn là môn học có thế mạnh đặc biệt trong việc bộc lộ đời sống tâm hồn
của mỗi HS. Do đó, một đề kiểm tra tốt đòi hỏi phải phù hợp mục tiêu dạy học và
phương pháp của từng đơn vị bài học cũng như mục tiêu đánh giá của mỗi bài kiểm
tra sao cho kết quả đánh giá thông qua bài kiểm tra không những cho thấy năng lực
học tập môn Ngữ văn mà còn phản ánh nhân cách và phẩm chất tinh thần của HS.
Đề kiểm tra phải được trình bày rõ ràng, khoa học, không quá ngắn hoặc quá
dài, phù hợp với điều kiện thực tế, có tính khả thi cao. Số lượng câu hỏi của từng
nội dung, kiến thức tương xứng với trọng số của phần đó. Nội dung kiểm tra không
nặng về kiểm tra trí nhớ mà tạo cơ hội cho HS vận dụng kiến thức, phát huy sáng
tạo, tạo hứng thú khi làm bài, kích thích HS học tập. Đặc biệt, đề phải yêu cầu HS
tái tạo kiến thức trên cơ sở tái hiện kiến thức đã học, đã biết.

Khi soạn đề kiểm tra, một yêu cầu nữa cần đảm bảo là phải xây dựng đáp án
rõ ràng, chính xác, khoa học; thang điểm không quá chi tiết tạo điều kiện thuận tiện
cho công việc chấm bài.


22

Căn cứ vào cơ sở lí luận về KTĐG, thực tiễn ra đề kiểm tra từ góc độ đổi
mới KTĐG, việc xác định một đề kiểm tra Ngữ văn tốt hay chưa có thể dựa theo
các tiêu chí sau:
-

Bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học, của từng chương, từng
bài.

-

Đảm bảo tính toàn diện các mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ của môn học.

-

Đánh giá được những kiến thức, kĩ năng trọng tâm của môn học, đặc biệt
đề có tính phân hóa đối tượng HS.

-

Đảm bảo tính hợp lí của các mức độ đánh giá (nhận biết - thông hiểu vận dụng) trong qui trình biên soạn đề kiểm tra.

-


Đảm bảo kĩ thuật biên soạn câu hỏi theo đặc thù môn học, cân đối tỉ lệ
giữa trắc nghiệm và tự luận, giữa NLVH và NLXH.

-

Đáp án, biểu điểm có tính mở, rõ ràng, hợp lí.

1.1.2. Đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục
1.1.2.1. Quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục
Đổi mới căn bản là đổi mới cái bản chất, cái chính, cái cốt lõi. Và, toàn diện
là quy mô rộng lớn, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực, nhiều thành phần. Như
vậy, đổi mới căn bản và toàn diện là đổi mới triệt để. Sau khi đổi mới căn bản và
toàn diện, nền giáo dục phải thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài phát triển đúng
hướng, phục vụ có hiệu quả sự phát triển đất nước.
Thủ tướng Phan Văn Khải, trong buổi làm việc với Ban Chấp hành Trung
ương Hội Khuyến học Việt Nam năm 2004 đã chỉ đạo: “Nền giáo dục quốc dân
phải được cải cách một cách cơ bản và toàn diện, bao gồm những vấn đề to lớn và
lâu dài và những vấn đề bức xúc trước mắt, có mặt phát huy các thế mạnh vươn lên
đạt chất lượng và trình độ của một nền giáo dục, một xã hội học tập tiên tiến, có mặt
phải khắc phục những yếu kém, loại trừ những hiện tượng tiêu cực, kéo dài, đang
gây tổn hại nhiều mặt và khiến cho nhân dân rất bất bình” [70].


23

Những ý kiến chỉ đạo này mở đầu cho cuộc cải cách giáo dục, đánh dấu sự
chuyển giai đoạn từ nền giáo dục khoa cử, khép kín, bao cấp sang nền giáo dục
nhân dân. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục chủ trương đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, phục vụ tích cực và có hiệu quả sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó cho thấy đổi mới căn bản, toàn

diện giáo dục là một vấn đề quan trọng, mang tầm vĩ mô, cần nhiều thời gian để
thực thi và kiểm chứng.
Các nhà giáo dục từ sự quan sát thực tiễn, sự nghiên cứu nghiêm túc (dù có
quan điểm chưa thật sự thống nhất) đã đưa ra cách hiểu cái căn bản cần đổi mới
trong giáo dục hiện nay là mục đích dạy học, nội dung dạy học, PPDH, người GV,
thi cử đánh giá, dạy thêm, học thêm,…Như vậy, muốn đổi mới toàn diện phải đổi
mới những yếu tố căn bản trên của giáo dục.
Quá trình giáo dục thường được hiểu là một chu trình khép kín, một hệ thống
động bao gồm các yếu tố: mục đích, nội dung, phương pháp, KTĐG. Do đó, để đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục cần xuất phát trên cơ sở phân tích cấu trúc và
tính qui luật của quá trình giáo dục cũng như thực trạng giáo dục Việt Nam, thấy
được các mâu thuẫn trong giáo dục Việt Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra biện pháp đổi
mới toàn diện bao gồm đổi mới cả tư duy và hành động.
Đổi mới cơ bản và toàn diện trong giáo dục Việt Nam là một cuộc cải cách
sâu rộng và mạnh mẽ về hệ thống, từ khâu học đến khâu thi cử. Thứ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển trong cuộc tọa đàm khoa học về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đưa ra ba giải pháp có tính đột phá trong
tình hình hiện nay là đổi mới quản lí giáo dục; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lí giáo dục và tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, PPDH, thi, kiểm tra và
đánh giá chất lượng giáo dục.
Giáo dục là một hệ thống phức tạp. Do đó, quản lí giáo dục cần có tư duy hệ
thống và một tầm nhìn chiến lược bao quát…Trong giáo dục, GV giữ vai trò quan


×