Tải bản đầy đủ (.pdf) (189 trang)

thực nghiệm một số biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ từ 1 đến 3 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 189 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: CS2012.19.01.DATK

THỰC NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP
KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BIẾNG ĂN
TÂM LÝ CỦA TRẺ
TỪ 1 ĐẾN 3 TUỔI

Cơ quan chủ trì:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM

Chủ nhiệm đề tài: TS. Huỳnh Văn Sơn

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: CS2012.19.01.DATK

THỰC NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP
KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BIẾNG ĂN
TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ


1 ĐẾN 3 TUỔI
Cơ quan chủ trì:
TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM TP.HCM
Chủ nhiệm đề tài: TS. Huỳnh Văn Sơn
Nhóm nghiên cứu: TS Võ Văn Nam
THS. Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu
THS. Bùi Hồng Quân
THS. Đào Thị Duy Duyên
CH. Hồ Đặng Thảo Trinh
CH. Đào Lê Hòa An
CH. Nguyễn Vĩnh Khương

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM TP.HCM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Tp.HCM, ngày 9 tháng 4 năm 2012

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: THỰC NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG
BIẾNG ĂN TÂM LÝ CỦA TRẺ TỪ 1 ĐẾN 3 TUỔI
- Mã số:

CS 2012.19.


- Chủ nhiệm: TS. Huỳnh Văn Sơn
- Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hố Chí Minh
- Thời gian thực hiện: Tháng 9 năm 2011 đến tháng 4 năm 2012
2. Mục tiêu:
Xác định hiệu quả của một số biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn cho trẻ từ 1 đến 3
tuổi.
3. Tính mới và sáng tạo:
Đề tài góp phần hệ thống hoá các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: biếng ăn, biếng
ăn tâm lý của trẻ từ 1 đến 3 tuổi... Ngoài ra, cũng tiến hành thực nghiệm một số biện pháp
khắc phục khi trẻ biếng ăn trong giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi.
4. Kết quả nghiên cứu:
Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp nhằm khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý ở
trẻ từ 1 đến 3 tuổi dựa trên mô hình thực nghiệm được xác định dựa trên chuỗi nghiên cứu lựa
chọn sau:

1


- Kết quả thực nghiệm xét trên bình diện chung cho thấy tình trạng biếng ăn của trẻ
giảm đi một cách đáng kể. Nếu như trước khi thực nghiệm, điểm trung bình mức độ biếng ăn
của trẻ là 1,23 - tương ứng với mức biếng ăn khá nặng thì sau thực nghiệm, điểm trung bình
mức độ biếng ăn giảm xuống còn 0,47 - nằm trong mức biếng ăn nhẹ. Với độ tin cậy 95%,
mức ý nghĩa quan sát phi tham số thu được là 0,005, chứng tỏ đã có sự khác biệt ý nghĩa về
thống kê giữa điểm trung bình mức độ biếng ăn của trẻ trước và sau thực nghiệm. Điều này
chứng tỏ, sự chuyển biến về mức độ biếng ăn của trẻ dưới tác động của các biện pháp thực
nghiệm là thực chất và khách quan.
- Khi xem xét tình trạng biếng ăn của trẻ sau thời gian thực nghiệm theo từng loại
biếng ăn cũng cho thấy những chuyển biến hết sức khả quan. Tất cả các loại biếng ăn của trẻ
đều có xu hướng giảm đi đáng kể. Trong số sáu loại biếng ăn, loại ăn quá lâu giảm nhiều nhất
(chênh lệch ĐTB là 1,3), giảm thứ nhì là ăn không đủ (chênh lệch ĐTB là 1,0), giảm thứ ba là

hành vi né tránh (chênh lệch ĐTB là 0,71), giảm thứ tư là cảm xúc tiêu cực (chênh lệch ĐTB
là 0,6), giảm thứ năm là phản ứng sinh lý (chênh lệch ĐTB là 0,52) và giảm ít nhất là hành vi
chống đối (chênh lệch ĐTB là 0,41). Ba loại biếng ăn giảm nhiều nhất đó là thời gian ăn quá
lâu, ăn không đủ lượng thức ăn cần thiết và hành vi né tránh cũng là những loại biếng ăn
thường gặp nhất ở trẻ. Kết quả kiểm nghiệm phi tham số, loại kiểm nghiệm Wilconxon cho
thấy cả sáu loại biếng ăn có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê đó là: ăn không đủ lượng
thức ăn cần thiết (Sig = 0,005), ăn quá lâu (Sig = 0,005), bộc lộ cảm xúc tiêu cực (Sig =

2


0,017), hành vi tránh né (Sig = 0,008) và phản ứng sinh lý (Sig = 0,028) và hành vi chống đối
(Sig = 0,007). Kết quả phân tích trên từng trẻ cũng cho thấy những nhận định tương tự. Tóm
lại, tình trạng biếng ăn của trẻ trong nhóm thực nghiệm đã giảm đi đáng kể và những biện
pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ đã thực nghiệm có hiệu quả và giá trị.
5. Sản phẩm:
- Báo cáo toàn văn với các kết quả nghiên cứu theo mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên
cứu
- Các chuyên đề nghiên cứu theo yêu cầu
6. Hiệu quả, phương thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp dụng:
- Xác lập và thực nghiệm các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý ở trẻ từ 1
đến 3 tuổi.
- Chuyển giao kết quả nghiên cứu trực tiếp cho Nhà tài trợ của đề tài nghiên cứu.

Xác nhận của cơ quan chủ trì

Ngày 9 tháng 4 năm 2012

(ký, đóng dấu)


Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ và tên)

KT. HIỆU TRƯỞNG

TS Huỳnh Văn sơn

PHÓ HIỆU TRƯỞNG
PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng

3


MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING

SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

HCMC UNIVERSITY OF PEDAGOGY

Independence - Freedom – Happiness
******
Ho Chi Minh City, April 9, 2012

RESEARCH RESULTS INFORMATION
1. General Information
- TITLE: EXPERIMENTAL MEASURES TO REMEDY PSYCHOLOGICAL
ANOREXIA IN CHILDREN AGED 1 TO 3 YEARS.
- Code: CS 2012.19.
- Chairman: Huynh Van Son, PhD
- Sponsoring agency: University of Pedagogy, Ho Chi Minh City

- Duration: From September 2011 to April 2012
2. Objectives
To determine the effect of a number of measures to redress the lack of appetite in children
aged 1 to 3 years.
3. Novelty and innovation
The theme helps systemize theoretical issues related to topics such as: anorexia, anorexic
psychology in children aged 1 to 3 years. Also, the experiment was conducted for some
remedial measures in children aged 1 to 3 years with anorexia
4. Research results
A few experimental measures to be organized so as to redress the lack of appetite in children
aged 1 to 3 years based on empirical models based on identified research series as follows:
* Control group
* Test + observing children
Classification of anorexia types
Determine the level of anorexia
Determine the cause of anorexia
• Experimental group
Classification of anorexia types
Determine the level of anorexia
• Select measures
By type of anorexia
As to the cause of anorexia
• Impact
Working with parents

4


Application of each measure respectively
Application of measures

* Test + Post- experiment observations
- Re- determine the level of anorexia
- The experimental results have generally shown children’s lack of appetite decreased
significantly. As before the experiment, the average level of children’s anorexia is 1.23 corresponding to the heavy loss of appetite, after the experiment, average lack of appetite
level dropped to 0.47 - within the lighter lack of appetite. With 95% confidence level, the
observed non-parameter significance obtained is 0.005, suggesting that the difference was
statistically significant between the average level of the child's lack of appetite before and
after the experiment. This proves that the changes in levels of anorexia among children under
the impact of the measures are essentially empirical and objective.
- When considering the child's anorexia after experimental time for each type of
anorexia also showed the very positive changes. All kinds of child’s anorexia tend to be
greatly reduced. Of the six types of anorexia, the too- long eating- type is the largest decline
(the GPA difference of 1.3), the second reduction is not sufficient eating- type (GPA
difference of 1.0), third reduction is avoidance behavior (GPA difference of 0.71), fourth
reduction is negative emotions (GPA difference of 0.6), the fifth reduction is physiological
response (GPA difference of 0.52) and the least reduction is the opposition (GPA difference
of 0.41). Three types of anorexia with the largest decline are: too- long eating- type, not
sufficient eating- as needed- type and avoidance behavior- also the most common type of
anorexia in children. As a non-parametric test result, Wilconxon- approach showed that all six
anorexia categories have statistically as follows: not sufficient eating- as needed- type (Sig =
0.005), too- long eating- type (Sig = 0.005), negative emotions (Sig = .017), avoidance
behavior (Sig = 0.008) and physiological response (Sig = .028) and opposition act (Sig =
0.007). The results of analysis applied to each child also led to similar remarks. In summary,
the child's anorexia in the experimental group was significantly reduced and the measures to
overcome the psychological status of children with anorexia have been effective and had
experimental values
5. Product:
- Full-text report with findings as to the research objectives and tasks
- The seminars upon demand
6. Effectiveness, method of transferring research results and applicability

- Establishing and practical measures to overcome the psychological loss of appetite in
children aged 1 to 3 years.
- Transfer of research results directly to research sponsor

5


April 9, 2012
CERTIFICATION BY HOST AGENCY
(Signature and seal)

PROJECT MANAGER
(Signature and full name)

For PRINCIPAL
VICE PRINCIPAL
Assistant Prof Nguyen Kim Hong, PhD

HUYNH VAN SON, PhD

6


MỤC LỤC
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................... 1
MỤC LỤC ............................................................................................................ 7
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................... 9
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 10
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................10
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................11

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ....................................................................11
4. Giả thuyết nghiên cứu..........................................................................................11
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................11
6. Giới hạn đề tài ......................................................................................................11
7. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu ...........................................................12
8. Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu ..................................................................13

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾNG ĂN TÂM LÝ Ở TRẺ TỪ 1
ĐẾN 3 TUỔI ...................................................................................................... 15
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................15
1.1.1. Một số nghiên cứu về vấn đề biếng ăn của trẻ em trên thế giới ...................15
1.1.2. Một số nghiên cứu về vấn đề biếng ăn của trẻ em em tại Việt Nam ............16
1.2. Lý luận về biếng ăn và biếng ăn tâm lý ...........................................................21
1.2.1. Dinh dưỡng và giáo dục dinh dưỡng cho trẻ 1 - 3 tuổi ................................21
1.2.2. Biếng ăn ở trẻ từ 1 - 3 tuổi ............................................................................28
1.2.3. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ em ở độ tuổi từ 1 - 3 tuổi ...........................41

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BIẾNG
ĂN TÂM LÝ Ở TRẺ TỪ 1 ĐẾN 3 TUỔI ....................................................... 48
2.1. Một số biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý cho trẻ 1 - 3 tuổi ..48
2.1.1. Biện pháp 1: Thay đổi nhận thức của người lớn về sức khoẻ và dinh dưỡng
của trẻ cho khoa học và phù hợp hơn .....................................................................48
2.1.2. Biện pháp 2: Điều chỉnh cách thức chuẩn bị, chế biến và bài trí thức ăn cho
phù hợp với sở thích và khẩu vị của trẻ. .................................................................50
2.1.3. Biện pháp 3: Thay đổi cách thức cho trẻ ăn để trẻ cảm thấy thoải mái và hào
hứng khi ăn. ............................................................................................................52
2.1.4. Biện pháp 4: Có những biện pháp kích thích tâm lý khi cho trẻ ăn (khen
ngợi, động viên trẻ; cho trẻ chơi những trò chơi vui nhộn…) ...............................54
7



2.2. Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp nhằm khắc phục tình trạng biếng
ăn tâm lý ở trẻ từ 1 đến 3 tuổi .................................................................................55
2.2.1. Mục đích thực nghiệm ..................................................................................55
2.2.2. Nhiệm vụ thực nghiệm .................................................................................55
2.2.3. Khách thể thực nghiệm .................................................................................55
2.2.4. Giới hạn và phạm vi thực nghiệm ................................................................56
2.2.5. Mô hình thực nghiệm ...................................................................................56
2.2.6. Điều kiện thực nghiệm .................................................................................62
2.2.7. Các giai đoạn thực nghiệm ...........................................................................62
2.2.8. Công cụ đánh giá thực nghiệm .....................................................................63

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN
PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BIẾNG ĂN TÂM LÝ CHO TRẺ TỪ
1 ĐẾN 3 TUỔI ................................................................................................... 68
3.1. Mô tả chung về mẫu nghiên cứu thực nghiệm ...............................................68
3.1.1. Khách thể quan sát........................................................................................68
3.1.2. Khách thể nghiên cứu thực nghiệm ..............................................................72
3.2. Kết quả thực nghiệm chung trên toàn nhóm khách thể thực nghiệm .........80
3.2.1. Kết quả thực nghiệm xét trên bình diện chung.............................................81
3.2.2. Kết quả thực nghiệm xét theo từng loại biếng ăn .........................................83
3.2.3. Kết quả thực nghiệm xét theo từng trẻ trong nhóm thực nghiệm ................86
3.2.4. Kết quả thực nghiệm xét theo từng nhóm biện pháp tác động .....................88
3.3. Kết quả thực nghiệm trên từng trường hợp trẻ thực nghiệm ......................93
3.3.1. Kết quả thực nghiệm đối với bé Quang Nhật ...............................................93
3.3.2. Kết quả thực nghiệm đối với bé Gia Thuận .................................................97
3.3.3. Kết quả thực nghiệm đối với bé Kim Ngân................................................100
3.3.4. Kết quả thực nghiệm đối với bé Phương Vy ..............................................103

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 107

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 111
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 114

8


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BA

:

Biếng ăn

TNg

:

Thực nghiệm

ĐC

:

Đối chứng

Tp. HCM

:

Thành phố Hồ Chí Minh


MN

:

Mầm non

PH

:

Phụ huynh

ĐLC

:

Độ lệch chuẩn

ĐTB

:

Điểm trung bình

N

:

Số lượng


STT

:

Số thứ tự

9


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đáp ứng nhu cầu phát triển về thể chất, trẻ phải được cung cấp đầy đủ về dinh
dưỡng. Lúc mới sinh ra, nếu sức khỏe của phụ huynh và bé bình thường thì sữa mẹ là
nguồn thức ăn chính và duy nhất của trẻ. Thông thường, khi được gần một tuổi, nguồn
cung cấp dinh dưỡng cho trẻ chuyển dần từ sữa mẹ sang các nguồn cung cấp từ bên
ngoài như sữa và các loại thức ăn - thức uống khác. Lúc này, cho trẻ ăn khoa học và
hiệu quả là một yêu cầu quan trọng của những người làm cha mẹ. Tuy nhiên, trong
thực tế, đây không phải là một việc dễ dàng, nhất là trong xã hội hiện đại khi mà phụ
huynh có quá nhiều sự lựa chọn về thức ăn cho trẻ cộng với những thói quen của trẻ
khi ăn uống. Trong quá trình nuôi con, hầu hết phụ huynh đều gặp phải những khó
khăn trong việc cho trẻ ăn. Có những trường hợp, bữa ăn trở thành nỗi ám ảnh không
chỉ của đứa trẻ mà còn của phụ huynh. Khi đó, đứa trẻ không được cung cấp đủ chất
dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển của cơ thể, có thể dẫn đến bị suy dinh dưỡng hoặc
chậm phát triển.
Thực tế nghiên cứu trong đề tài tài “Biện pháp tâm lý khắc phục khi trẻ biếng ăn
trong giai đoạn từ 1 đến 6 tuổi” cho thấy số lượng trẻ rất biếng ăn và khá biếng ăn
chiếm tỷ lệ rất cao (54,58%). Trẻ biếng ăn là một khó khăn, thách thức đối với những
người làm cha mẹ. Đây là một gánh nặng về mặt tâm lý cho người làm cha, làm mẹ vì
những lo lắng đối với sự phát triển trước mắt cũng như lâu dài của trẻ [14].

Đối với trẻ từ 1 đến 3 tuổi, khả năng nhận thức, ghi nhớ và tình cảm của trẻ phát
triển mạnh mẽ, các tiền đề cho sự hình thành và phát triển nhân cách đã cơ bản được
hình thành mà đặc trưng là hiện tượng khủng hoảng trẻ lên 3. Với những đặc điểm như
vậy nên hành vi ăn uống của trẻ hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự khéo léo, khoa
học và hợp lý của người lớn.
Để khắc phục tình trạng biếng ăn bằng những biện pháp trước mắt cũng như lâu
dài thì những biện pháp cơ bản xuất phát từ người mẹ và các vấn đề xoay quanh hành
động chuẩn bị cho trẻ ăn, cho trẻ ăn và xử lý những tình huống khi cho trẻ ăn hay lúc
trẻ có dấu hiệu biếng ăn tâm lý là những biện pháp chủ yếu. Những biện pháp tác động

10


có thể thực hiện đó là thay đổi nhận thức của người lớn về sức khoẻ và dinh dưỡng của
trẻ, thay đổi cách cho trẻ ăn hay có những biện pháp kích thích trẻ khi ăn… Những
biện pháp này đã được khảo cứu về tính cần thiết và tính khả thi. Nổi rõ lên nhất là
biện pháp tác động về mặt tâm lý mà đặc biệt là kích thích tâm lý trẻ khi ăn là biện
pháp khá hiệu quả mà các phụ huynh đều cho rằng rất cần thiết và rất khả thi. Do đó
cần tiến hảnh thử nghiệm trên thực tế để tiến hành nhân rộng những biện pháp này
trong cộng đồng. Từ những lý do trên, đề tài “Thực nghiệm một số biện pháp khắc
phục tình trạng biếng ăn tâm lý cho trẻ từ 1 đến 3 tuổi” được xác lập.

2. Mục đích nghiên cứu

Xác định hiệu quả của một số biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý cho trẻ
từ 1 đến 3 tuổi.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý cho trẻ 1 đến 3 tuổi.

3.2. Khách thể nghiên cứu
Thực trạng biếng ăn tâm lý ở trẻ 1 đến 3 tuổi.

4. Giả thuyết nghiên cứu
Có thể khắc phục được tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ từ 1 đến 3 tuổi bằng các
biện pháp cụ thể phù hợp với từng loại biếng ăn, trong đó hiệu quả nhất là các biện
pháp kích thích tâm lý khi cho trẻ ăn.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: biếng ăn, biếng ăn
tâm lý...
5.2. Tiến hành thực nghiệm một số biện pháp khắc phục khi trẻ biếng ăn tâm lý
trong giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi.

6. Giới hạn đề tài
11


Trong các biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ từ 1 đến 3 tuổi,
đề tài chỉ tiến hành thực nghiệm một số biện pháp mà chủ yếu là biện pháp kích tâm lý
khi cho trẻ ăn như khen ngợi, động viên trẻ, cho trẻ chơi những trò chơi vui nhộn…

7. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu

7.1. Cách tiếp cận
Đề tài tiến hành dựa trên cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo hướng tiếp cận
biện chứng, hướng tiếp cận thực tiễn.
7.1.1. Hướng tiếp cận biện chứng
Tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ được xem xét trong mối liên hệ với thế giới
khách quan bên ngoài, nhất là trong mối quan hệ với những người thân trong gia đình

mà trực tiếp là người mẹ.
7.1.2. Hướng tiếp cận thực tiễn
Tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ có nguyên nhân từ điều kiện thực tiễn, từ
những sự tác động chưa thật sự hợp lý, khoa học của cha mẹ. Trong quá trình thực
hiện, đề tài sẽ nghiên cứu một số trường hợp cụ thể, nổi bật để tìm hiểu những nguyên
nhân tâm lý làm cho trẻ biếng ăn. Trên cơ sở đó, sẽ đề xuất các biện pháp tác động để
khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý cho trẻ một cách phù hợp với đặc điểm của trẻ.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Qua việc phân tích, tổng hợp các tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan
kết hợp với những vấn đề lý luận cơ bản, nhóm nghiên cứu sẽ xây dựng một hệ thống
khái niệm công cụ và những khái niệm có liên quan để định hướng cho việc triển khai
các biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý ở trẻ trong thực tế.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn được tiến hành để tìm hiểu sâu thêm một số trường hợp
nổi bật và nhằm đánh giá mức độ khả thi của việc thực nghiệm. Đồng thời, đề tài còn
tiến hành phỏng vấn đối với một số giáo viên mầm non và một số chuyên gia về dinh
dưỡng để thu thập những ý kiến nhận xét, đánh giá về các biện pháp tác động nhằm
12


khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ 1 đến 3 tuổi.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp này được thiết kế nhằm tìm hiểu thông tin về tình trạng biếng ăn
tâm lý của trẻ trước và sau thực nghiệm nhằm đánh giá hiệu quả của các biện pháp
thực nghiệm đã triển khai.
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống
Đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu một số trường hợp cụ thể, điển hình để tìm hiểu về
hoàn cảnh, điều kiện gia đình, cách thức nuôi dạy trẻ của gia đình để đánh giá mức độ
phù hợp của các biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ. Từ đó, sẽ xác

định được điều kiện hợp lý để triển khai các biện pháp khắc phục khi trẻ biếng ăn tâm
lý trong giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi.
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm
Đây là phương pháp chính của đề tài. Các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục
tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ sẽ được tổ chức triển khai thực nghiệm trong thực tế
trên khách thể là trẻ có biểu hiện biếng ăn từ 1 đến 3 tuổi. Thông qua đó đánh giá mức
độ hiệu quả và khả thi của các biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn tâm lý thông
qua so sánh trước và sau thực nghiệm, so sánh nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
7.2.6. Phương pháp thống kê toán học
Đề tài sử dụng phần mềm SPSS 15.0 để xử lý các dữ kiện thu được phục vụ cho
việc phân tích số liệu trong quá trình nghiên cứu, nhất là việc so sánh số liệu trước và
sau thực nghiệm.

8. Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
8.1. Về mặt lý luận
Đề tài góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về tình trạng biếng ăn tâm lý của trẻ
từ 1 đến 3 tuổi và các biện pháp khắc phục khi trẻ biếng ăn tâm lý trong giai đoạn từ 1
đến 3 tuổi.
8.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài chỉ ra được tính hiệu quả của một số biện pháp thực nghiệm nhằm khắc

13


phục tình trạng biếng ăn tâm lý trẻ từ 1 đến 3 tuổi. Đây là cơ sở để các bậc phụ huynh
tham khảo và áp dụng trong thực tiễn nuôi dạy con.

14



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾNG ĂN TÂM LÝ Ở TRẺ
TỪ 1 ĐẾN 3 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Một số nghiên cứu về vấn đề biếng ăn của trẻ em trên thế giới
Có thể nói những nghiên cứu về trẻ biếng ăn trên thế giới được đề cập ở khá
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, lược sử nghiên cứu này chỉ đề cập đến một vài
hướng nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Đầu tiên, những nghiên cứu biếng ăn tập trung nhiều nhất theo hướng tiếp cận về
sức khoẻ của đứa trẻ. Những tiêu chuẩn về thang đo được xác lập và việc khám phá ra
những trẻ em có chuẩn dưới thang đo (kênh sức khoẻ) được những nhà nghiên cứu
quan tâm và tìm hiểu để từ đó, những kết luận ban đầu về nguyên nhân của tình trạng
sức khoẻ không tốt hay suy dinh dưỡng được xác lập. Những nghiên cứu này là hướng
nghiên cứu khá phổ biến của nhiều chuyên gia dinh dưỡng ở các Quốc gia như: Pháp,
Mỹ, Xingapo, Thái Lan,…
Kế đến, nhiều nghiên cứu xoay quanh vấn đề biếng ăn của trẻ thông qua những
phản hồi của nhiều phụ huynh. Nhiều phụ huynh đã chia sẻ với các chuyên gia dinh
dưỡng và mong chờ một sự can thiệp nhất định để có thể chẩn đoán hay đánh giá về
tình hình biếng ăn. Trong những trường hợp như thế, nhiều nghiên cứu đã chứng minh
rằng vấn đề biếng ăn không hẳn là do đứa trẻ biếng ăn mà nhiều phụ huynh có cảm
giác rằng con mình biếng ăn. Mặt khác, không ít phụ huynh đã rơi vào “thế căng
thẳng” cứ mong mỏi con mình sẽ béo tốt hơn, sẽ tăng cân hơn nhiều so với chúng bạn
hay so với những gia đình khác. Số liệu nghiên cứu về điều này ở một vài Quốc gia lân
cận như: Thái Lan, Philippin, Xingapo cho thấy tỉ lệ các bậc cha mẹ vẫn chú trọng đến
hình thức bên ngoài của đứa trẻ như: sự mũm mĩm, sự tròn trĩnh… Nhận định của TS
Magaret Minben cho thấy có đến xấp xỉ 52% phụ huynh ở Xingapo vẫn còn định hình
suy nghĩ và biểu tượng về một đứa trẻ khoẻ mạnh và dễ thương từ 0 đến 3 tuổi theo
hướng này [42].
Trên thế giới, đã có nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này

15



cũng đã đề cập đến những phân tích sâu xa hơn về tình hình biếng ăn trong mối quan
hệ với các yếu tố khác như bẩm sinh di truyền, cấu trúc thể tạng… Điển hình như đề
tài “Nghiên cứu tình trạng biếng ăn trên cơ sở tác động của các yếu tố sinh học” do
Cynthia Bulik ở trường Đại học North Carolina - Chapel Hill làm chủ nhiệm đề tài đã
chỉ ra sự tác động của yếu tố di truyền đến chứng biếng ăn. Tác giả khẳng định rằng
giữa tình trạng biếng ăn hiện tại của trẻ có mối quan hệ với vấn đề di truyền từ cha mẹ
hoặc ông bà mà tình hình này sẽ tồn tại một cách khá dài hay khá phổ biến. Bên cạnh
đó, có thể đề cập đến tác giả Rexanne Dryden - Edwards khi nghiên cứu về mối liên
quan giữa não bộ và tình trạng biếng ăn của trẻ. Tác giả cho rằng sự bất thường của
một phần não bộ hoặc những vấn đề trong quá trình nuôi dưỡng có thể là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng biếng ăn của trẻ… Hay nghiên cứu của tập thể các nhà khoa học ở
bang Texas - Mỹ đã chỉ ra rằng trên thế giới tỉ lệ biếng ăn ở trẻ chiếm gần 50%. Con
số này có thể dao động từ 30 đến 55% ở những quốc gia khác nhau thông qua nghiên
cứu so sánh hơn 15.000 mẫu [48].
Những nghiên cứu về vấn đề biếng ăn tâm lý cũng bắt đầu được quan tâm. Ngay
từ đầu, các chuyên gia tâm lý không gọi hẳn đây là biếng ăn tâm lý mà gọi là tình
trạng biếng ăn do những nguyên nhân tâm lý. Những nghiên cứu đã chứng minh rằng
sự biếng ăn của trẻ không hẳn là do trẻ không muốn ăn hay sự “ngăn cản” của thực thể
mà vấn đề là do tâm lý ngán ngại. Đó là nguyên nhân từ người mẹ khi không có những
biện pháp thúc đẩy quá trình ăn uống của trẻ thoải mái và hợp lý, đó là sự dồn ép quá
mức, đó là sự nhàm chán trong buổi ăn với những cảm xúc tiêu cực, đó là sự lo lắng
hay hồi hộp trong khi ăn… Những điều này sẽ dễ dẫn đến những biểu hiện biếng ăn
của trẻ mà có thể đó là biếng ăn tâm lý.
Tuy nhiên, những vấn đề đề cập vấn đề biếng ăn tâm lý vẫn thường như một góc
nhìn về nguyên nhân của biếng ăn mà không hẳn được phân tích một cách chuyên biệt.
Đây cũng là một gợi mở lý thú và hấp dẫn…
1.1.2. Một số nghiên cứu về vấn đề biếng ăn của trẻ em em tại Việt Nam
Tại Việt Nam, có thể nói những nghiên cứu biếng ăn được thực hiện nhiều nhất

bởi các chuyên gia của Viện Dinh dưỡng, Bệnh Viện Nhi Trung Ương, Bệnh viện Nhi

16


đồng… Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này được tập trung nhiều
nhất ở Viện dinh dưỡng. Cụ thể như đề tài “Khảo sát tình hình chăm sóc dinh dưỡng ở
trẻ dưới 6 tháng tuổi đến khám tại phòng khám dinh dưỡng bệnh viện Nhi đồng II,
2008 - 2009”, của các tác giả Trần Thị Hoài Phương, Nguyễn Thị Kim Hoàng,
Nguyễn Thị Kiều Thu, Mai Quang Huỳnh Mai, Nguyễn Thị Thu Hậu đã đề cập đến
việc chăm sóc, cho con bú, chuẩn bị cho con ăn của phụ huynh trong đó có đề cập
những thông tin ban đầu việc cho trẻ bú không hợp lý hay cho ăn không đúng cách sẽ
làm trẻ biếng ăn. Cũng có thể đề cập đến một số đề tài kế tiếp như: “Hiệu quả của mô
hình thử nghiệm can thiệp cộng đồng phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ dưới 5 tuổi
tại một số xã thuộc thành phố Hồ Chí Minh” (từ tháng 9/2008 đến tháng 10/2009) của
các tác giả: Dương Công Minh, Lê Thị Kim Quí, Đỗ Thị Ngọc Diệp, Phạm Thị Kim
Hoa, Trương Thị Vui và cộng sự, đề tài “Bữa ăn thị phạm giải pháp phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi khu vực miền núi” của các tác giả như: Nguyễn Minh
Tuấn, Hoàng Khải Lập và đề tài “Tình trạng dinh dưỡng trẻ em tại bệnh viện trong các
năm 1997, 2001, 2003, 2006 và 2007” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Hoa, Hoàng Thị
Tín, Hoàng Thị Thanh Thủy, Đặng Thị Phương Lan, Hồ Thị Mỹ Ngọc, Đỗ Thu Cẩm,
Nguyễn Thị Phượng và cộng sự… cũng là những nghiên cứu về vấn đề dinh dưỡng trẻ
em và vấn đề thừa cân - béo phì hay suy dinh dưỡng - biếng ăn là những thông tin đã
được quan tâm bước đầu [50].
Bàn sâu hơn về các nghiên cứu biếng ăn thì các chuyên gia y tế đã tìm hiểu và
nghiên cứu về biếng ăn và cách điều trị, khuyến khích các thói quen ăn uống lành mạnh
để có được tình trạng dinh dưỡng đầy đủ cho sự tăng trưởng và phát triển tối ưu của trẻ.
Kết quả nghiên cứu mới nhất của các chuyên gia dinh dưỡng toàn cầu cho thấy tỷ lệ
biếng ăn của trẻ em Việt Nam khá cao so với tỷ lệ 20% - 45% đã được công bố trên thế
giới. Thông tin này được đưa ra tại Hội thảo khoa học “Biếng ăn - chẩn đoán và điều trị”

diễn ra từ ngày 13 - 14/05 tại tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với sự tham dự của hơn
600 bác sỹ chuyên khoa nhi, các bác sĩ dinh dưỡng trong và ngoài nước [17].
Có thể đề cập sâu hơn về hội thảo này như một nghiên cứu tổng quát khi hội thảo
có sự tham gia của hai trong các thành viên của nhóm chuyên gia dinh dưỡng toàn cầu
dành cho trẻ biếng ăn cùng tham dự, gồm Giáo sư Benny Kerzner, Chủ tịch Khoa tiêu

17


hoá và Dinh dưỡng trẻ em, Trung tâm Y tế Quốc gia Hoa Kỳ, Giáo sư Tâm lý Irene
Chatoor, Phó chủ tịch Khoa Tâm thần học, Giám đốc điều hành Chương trình sức
khoẻ tâm thần dành cho trẻ nhỏ và nhũ nhi thuộc trung tâm Y học Quốc gia dành cho
trẻ em Hoa Kỳ. Các chuyên gia trình bày các báo cáo mới nhất về tình hình dinh
dưỡng toàn cầu, tình trạng biếng ăn ở trẻ em và phương pháp khắc phục nhằm giúp
cho các cán bộ y tế, bác sĩ Việt Nam có được những thông tin mới nhất về phương
pháp chẩn đoán, cách tiếp cận một cách hệ thống về biếng ăn và cách điều trị đối với
từng trường hợp khác nhau [17].
Vấn đề biếng ăn đã trở thành mối quan tâm lớn trong hội thảo này cũng như trong
định hướng nghiên cứu của nhiều chuyên gia quan tâm về vấn đề chăm sóc trẻ em.
Biếng ăn là cụm từ được sử dụng rộng rãi để miêu tả những trẻ chỉ ăn được số lượng
ít, chỉ ưa thích một vài loại thức ăn nhất định, hoặc tránh né, sợ hãi hay không muốn
ăn món ăn mới. Theo các chuyên gia, có rất nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng biếng
ăn, bao gồm các yếu tố sinh lý như sự ngon miệng, khẩu vị, các vấn đề về di truyền và
ảnh hưởng từ các giai đoạn tăng trưởng. Các nguyên nhân khác có thể bao gồm các vấn
đề tâm sinh lý như: trẻ luôn có xu hướng đấu tranh đòi tự chủ, thay đổi cảm xúc và tâm
trạng, các mức độ tình cảm hoặc tương tác giữa mẹ và trẻ. Các bậc cha mẹ có thể không
biết là hành vi, thái độ của chính họ - cụ thể như dỗ dành, dụ ngọt hay việc đe dọa, ép trẻ
ăn, quan tâm hoặc thờ ơ thái quá đến chuyện ăn của trẻ - có thể vô tình làm vấn đề biếng
ăn ở trẻ trở nên trầm trọng hơn. Có thể nói nhận định này được tán đồng bởi nhiều quan
điểm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và tạo ra những ý kiến thống nhất.

Nhiều nhà khoa học cũng cho rằng nhiều phụ huynh có con biếng ăn đều rất lo
lắng về chế độ ăn và tình trạng dinh dưỡng của con mình. Dù rất nhiều nghiên cứu vẫn
đang được tiến hành, tuy nhiên các nghiên cứu đến nay cũng đủ cho thấy biếng ăn có
thể dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng như: chậm phát triển, rối loạn tăng trưởng, dễ
mắc các bệnh mãn tính và các rối loạn hành vi ăn uống sẽ tiếp tục tiến triển theo chiều
hướng xấu hơn mặc dù đã được điều chỉnh các nguyên nhân thực thể ban đầu. Biếng
ăn cũng có thể đưa đến sự thiếu hụt dinh dưỡng, đôi khi có thể dẫn đến các vấn đề cảm
xúc và tính thích nghi. Đó là chưa kể đến những biểu hiện như: không thích tiếp xúc,
chậm chạp, thờ ơ và không có hứng thú trong học tập và vui chơi.

18


Cũng trong hội thảo đã nêu, Giáo sư Benny Kerzner và Irene Chatoor đã cùng các
đồng nghiệp Việt Nam thảo luận về việc chuẩn đoán đúng những trường hợp biếng ăn
khác nhau, đa dạng của trẻ và những giải pháp tiếp cận và điều trị tương ứng theo từng
trường hợp cụ thể phụ hợp với nhu cầu thể chất của trẻ và sự mong đợi của phụ huynh.
Trong đó, hai Giáo sư đều nhấn mạnh giải pháp tâm lý để điều trị những trẻ gặp khó
khăn trong ăn uống. Đây là một trong những trọng điểm của hội thảo được nhiều nhà
khoa học tán thành. Còn GS. Kerzner cho biết: “Việc thay đổi hành vi, thói quen ăn
uống xấu của trẻ biếng ăn cần nhiều thời gian và nỗ lực của cha mẹ, cũng như của các
nhà chuyên môn. Trong khoảng thời gian này, cha mẹ thường lo lắng con mình ăn
uống không đầy đủ và thiếu hụt dưỡng chất, họ nên tham vấn các bác sĩ chuyên khoa
và bổ sung cho trẻ công thức dinh dưỡng đầy đủ và cân đối hàng ngày giúp trẻ ổn
định và tiếp tục hỗ trợ về quá trình phát triển thể chất và trí tuệ của trẻ và điều này
cũng giúp phụ huynh an tâm hơn, kiên nhẫn hơn để áp dụng đúng và đủ những
phương pháp tiếp cận và điều trị phù hợp cho bé.” [17].
Hay trong phần trình bày của mình, GS. Irene Chatoor, đã đưa ra bài phát biểu và
thảo luận về vấn đề “Những nguyên tắc và thực hành giúp khuyến khích trẻ tạo lập
những thái độ ăn uống tích cực”, đồng thời tư vấn về phương pháp cho trẻ ăn, những

khó khăn của các bậc phụ huynh khi cho trẻ ăn và lời khuyên về cách thức xử lý đối
với từng trường hợp. Đây là một trong những cơ sở cần chú ý để giải quyết thực trạng
biếng ăn tâm lý ở trẻ nhỏ mà đề tài cũng rất tán đồng.
Trong khi đó, GS. Hoàng Trọng Kim và Nguyễn Công Khanh cũng đã chỉ ra mối
quan tâm của giới chuyên môn trong nước đối với tình trạng biếng ăn của trẻ. Hai tác
giả nhấn mạnh cần phải phổ biến rộng rãi hơn nữa trong cộng đồng về tình trạng biếng
ăn của trẻ để nâng cao nhận thức cộng đồng về chứng biếng ăn nhằm có những biện
pháp điều chỉnh tâm lý và dinh dưỡng kịp thời. Hội Nhi khoa Việt Nam cũng đã lập ra
đường dây nóng tư vấn về biếng ăn qua điện thoại (08) 2.2436.426 (TP. Hồ Chí Minh)
và (04) 2.2436.426 (Hà Nội) và tổ chức những ngày tư vấn miễn phí về biếng ăn cho
cộng đồng. Đây cũng là một trong những cơ sở khoa học thực tiễn khá quan trọng cho
thấy việc nghiên cứu về vấn đề biếng ăn nói chung và biếng ăn tâm lý được quan tâm
bằng những hành động cụ thể.

19


Một hướng nghiên cứu nữa cũng được thực hiện trong thời gian gần đây là việc
nghiên cứu về tỉ lệ biếng ăn của trẻ em trong một nhóm mẫu. Theo kết quả nghiên cứu
mới nhất trong tháng 12 năm 2008 cho thấy tỷ lệ biếng ăn ở trẻ dưới 8 tuổi là 27%.
Trong đó, nhóm trẻ từ 1 - 6 tuổi có tỷ lệ biếng ăn cao nhất: 38%. Trên 40% những trẻ
biếng ăn này đã có dấu hiệu biếng ăn ngay từ khi dưới 3 tuổi. Rất nhiều bằng chứng
cho thấy biếng ăn không chỉ gây ra thiếu hụt dinh dưỡng ngắn hạn mà còn dẫn đến các
biến chứng lâu dài về sau [16].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn và nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài “Biện pháp tâm
lý khắc phục khi trẻ biếng ăn từ 1 đến 6 tuổi” đã cho thấy, tỷ lệ trẻ biếng ăn ở Việt
Nam khá cao (tỷ lệ trẻ khá biếng ăn và rất biếng ăn là 54,58%). Có những nguyên
nhân khác nhau dẫn đến tình trạng biếng ăn ở trẻ như: nguyên nhân xuất phát từ đứa
trẻ (trẻ quá ham chơi, sở thích ăn uống của trẻ thường xuyên thay đổi, trẻ quen đòi hỏi,
trẻ có xu hướng hành vi bạo lực…), nguyên nhân xuất phát từ người lớn trong gia đình

(cách lựa chọn và chế biến thực phẩm không phù hợp với sở thích của trẻ, cách bài trí
không hấp dẫn trẻ, quá nuông chiều trẻ, không biết cách động viên trẻ…) và nguyên
nhân xuất phát từ môi trường khi cho trẻ ăn (không khí bữa ăn buồn chán hoặc quá ồn
ào, xô bồ). Đề tài cũng đã khảo cứu tính khả thi của một số biện pháp khắc phục tình
trạng biếng ăn ở trẻ [28].
Bài viết của tác giả Huỳnh Văn Sơn đã đề cập đến nhận thức của phụ huynh về
vấn đề biếng ăn tâm lý ở trẻ từ 1 đến 6 tuổi trong bài viết cùng tên ở tạp chí khoa học
của Trường Đại học Sư phạm TP HCM. Kết quả nghiên cứu cho thấy các bà mẹ còn
hiểu biết khá mù mờ về hiện tượng biếng ăn tâm lý, đặc biệt là nhận thức chưa chính
xác trong việc xác định biếng ăn tâm lý là gì, các nguyên nhân có thể dẫn đến hiện
tượng này cũng như những biểu hiện thường xảy ra. Từ hạn chế trong nhận thức, các
bà mẹ lý giải hiện tượng biếng ăn của con mình chưa chính xác và từ đó có những
cách ứng xử thiếu khoa học, dẫn đến mức độ biếng ăn tâm lý của trẻ có thể ngày càng
trầm trọng hơn, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và sự sinh trưởng của bé sau này [27].
Ngoài ra, tác giả cũng đã phân tích và chỉ ra sáu biểu hiện biếng ăn ở trẻ, trong
đó, biểu hiện về thời gian ăn là thường gặp nhất, thứ hai là ăn không đủ lượng thức ăn
cần thiết, thứ ba là những hành vi né tránh, thứ tư là những phản ánh sinh lý trực tiếp,

20


thứ năm là bộc lộ những cảm xúc tiêu cực và cuối cùng là những hành vi chống đối.
Trong sáu biểu hiện đó, có năm biểu hiện là “thỉnh thoảng” xảy ra và một biểu hiện rất
ít khi xảy ra [27].
Tại hội thảo bàn về tình trạng biếng ăn tâm lý ở trẻ do nhãn hàng Vinamilk tổ
chức đã đi sâu phân tích nguyên nhân và các biểu hiện biếng ăn ở trẻ. Trên cơ sở đó,
những người tham gia đã chỉ ra các biện pháp tác động để khắc phục tình trạng biếng
ăn cho trẻ và nhấn mạnh biện pháp kích thích tâm lý khi cho trẻ ăn [25].
Rõ ràng những nghiên cứu về vấn đề biếng ăn trong đó có những tìm hiểu ban
đầu về biếng ăn tâm lý được quan tâm. Tuy nhiên, những nghiên cứu sâu về tính khả

thi, hiệu quả thông qua biện pháp thực nghiệm một số biện pháp khắc phục tình trạng
biếng ăn ở trẻ từ 1 - 3 tuổi còn hạn chế. Đây chính là hướng mở, là một “khoảng
trống” để nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài “Thực nghiệm một số biện pháp khắc
phục tình trạng biếng ăn tâm lý ở trẻ từ 1 đến 3 tuổi”.

1.2. Lý luận về biếng ăn và biếng ăn tâm lý
1.2.1. Dinh dưỡng và giáo dục dinh dưỡng cho trẻ 1 - 3 tuổi
1.2.1.1. Dinh dưỡng
a. Khái niệm dinh dưỡng
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về dinh dưỡng. Dinh
dưỡng là nhu cầu sống và tồn tại của con người, nó quyết định sự phát triển của cơ thể.
Trong cơ thể con người luôn luôn có hai quá trình đồng hóa và dị hóa, là hai mặt thống
nhất của quá trình trao đổi chất (quá trình dinh dưỡng). Đây là quá trình chuyển hóa
các chất của cơ thể từ những thức ăn phức tạp ngoài cơ thể (protit, lipit, gluxit, vitamin
và chất khoáng nguồn gốc động vật và thực vật) sẽ phân tích thành những chất đơn
giản (axitamin, axit béo, glucoza) và cung cấp năng lượng cho cơ thể. Quá trình này
thực hiện được nhờ quá trình tiêu hóa và hấp thu thức ăn trong hệ tiêu hóa.
Trong từ điển Tiếng Việt (2000): Dinh dưỡng là quá trình các tế bào, các cơ quan
trong cơ thể hấp thu và sử dụng các chất cần thiết cho việc cấu tạo và hoạt động của cơ thể.
Theo Lê Doãn Diên - Vũ Thị Thư cho rằng: “Dinh dưỡng là chức năng mà các
cá thể sử dụng thức ăn để duy trì sự sống, nghĩa là thực hiện các hoạt động sống như:
21


sinh trưởng, phát triển, vận động” [7, tr 15].
Với bác sĩ Lê Mai Hiệp thì dinh dưỡng gồm hai chữ: Dinh có nghĩa là xây dựng
và có ngụ ý cấu tạo. Ví dụ như sữa mẹ cung cấp nhiên liệu cần thiết cho trẻ sơ sinh
tăng 600 - 700g của mỗi tháng trong 5 tháng đầu. Dưỡng có nghĩa là cung cấp, nuôi
nấng, bồi dưỡng, đền bù lại những gì hao mòn trong cơ thể bằng những nguyên liệu
mới. Ví dụ như tế bào niêm mạc miệng bị lão hóa và lần lượt bị thải ra ngoài. Thực

phẩm phải cung cấp những nguyên liệu để bù đắp các tế bào hao mòn mất đi. Nói tóm
lại, dinh dưỡng theo nghĩa thông thường là cung cấp thực phẩm, những nguyên liệu
cần thiết cho sự sống [25, tr14].
Giáo sư Tremolieres - chuyên viên dinh dưỡng người Pháp thì Dinh dưỡng là một
khoa học nghiên cứu sự chuyển hóa của thực phẩm từ lúc vào miệng, hấp thụ qua ruột
vào máu đến các bộ phận của cơ thể, cấu tạo hoặc thay thế các mô tế bào [25, tr14].
Theo tác giả Nguyễn Kim Thanh, Dinh dưỡng học là một ngành khoa học nghiên
cứu ảnh hưởng của chất dinh dưỡng đối với cơ thể con người và xác định nhu cầu của
cơ thể về chất dinh dưỡng nhằm giúp con người phát triển khỏe mạnh, sinh sản để duy
trì nòi giống [24].
Ngày nay dinh dưỡng có nghĩa rộng hơn, nó là khoa học không những nghiên
cứu sự chuyển hóa thực phẩm mà còn khảo sát khẩu phần, tập quán ăn uống để phát
hiện và phòng ngừa những bệnh thiếu hoặc thừa dinh dưỡng, đề xuất chế độ ăn hợp lý
cho từng trường hợp để bảo vệ, tăng cường sức khỏe và góp phần điều trị bệnh.
Như vậy, Dinh dưỡng là một quá trình phức hợp bao gồm việc đưa vào cơ thể
thức ăn cần thiết qua quá trình tiêu hóa và hấp thụ để bù đắp hao phí năng lượng
trong quá trình hoạt động sống của cơ thể để tạo ra sự đổi mới các tế bào và mô
cũng như điều tiết các chức năng của cơ thể [24, tr.17].
Từ khái niệm trên cho thấy mối liên hệ giữa dinh dưỡng và sức khỏe của con
người. Dinh dưỡng là nhu cầu hàng ngày, một nhu cầu không thể thiếu của con người,
đặc biệt ở trẻ em. Ở trẻ em, cơ thể đang lớn và phát triển mạnh, nhu cầu dinh dưỡng
rất cao, đây là lứa tuổi rất nhạy cảm với vấn đề dinh dưỡng. Nếu cung cấp cho trẻ đầy
đủ các chất dinh dưỡng thì sẽ bảo vệ và nâng cao được sức khỏe của trẻ ở hiện tại cũng
như ở tương lai. Ngược lại, chế độ khiếm khuyết không cung cấp được cho trẻ đầy đủ

22


năng lượng ngay từ những năm đầu sẽ giảm độ tăng trưởng thể lực, giảm sự phát triển
trí não và sức đề kháng của cơ thể với các bệnh tật. Chính vì vậy, cần phải quan tâm đến

chế độ dinh dưỡng của trẻ nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
b. Chế độ dinh dưỡng cho trẻ em từ 1 - 3 tuổi
Về đặc điểm sinh lý, so với trẻ dưới 1 tuổi thì tốc độ tăng trưởng về cân nặng và
chiều cao ở lứa tuổi này chậm đi nhưng trẻ vẫn tiếp tục lớn và tăng trưởng mạnh. Các
cơ quan nội tạng cũng phát triển rất nhanh. Hệ tiêu hóa cũng hoàn thiện dần, chức
năng tiêu hóa của trẻ tốt hơn. Dinh dưỡng trẻ em ở độ tuổi này có sự mâu thuẫn lớn.
Đó là sự mâu thuẫn giữa nhu cầu cao do đòi hỏi của sự phát triển, hoạt động cơ thể trẻ
và khả năng tiếp thu thức ăn, khả năng chuyển hóa các chất dinh dưỡng còn chưa hoàn
chỉnh. Đây là một giai đoạn phát triển rất quan trọng ở trẻ em, nếu trẻ em không được
nuôi dưỡng tốt sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng và các bệnh tật khác có liên quan.
Để đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho trẻ em từ 1- 3 tuổi cần chú ý tuân thủ:
- Về nhu cầu các chất dinh dưỡng:
Theo đề nghị của Viện dinh dưỡng, năng lượng cần cung cấp cho trẻ độ tuổi này
là 1100 - 1300 Calo/ ngày. Với tỷ lệ các thành phần protid từ 2 - 3g/kg cân nặng, lipid
từ 2 - 3g/kg cân nặng, glucid từ 14 - 15 g/kg cân nặng (Tỉ lệ: P:L:G = 1:1:5). Theo
Viện dinh dưỡng đề nghị thì tỷ lệ đó là 1:1:4. [5]
- Về nguyên tắc cho trẻ ăn:
+ Thứ nhất, cho trẻ ăn các thức ăn từ mềm đến cứng, từ ít đến nhiều, lỏng đến
đặc, phù hợp với đặc điểm phát triển về cơ thể của trẻ.
+ Thứ hai, cho trẻ ăn nhiều bữa để cung cấp đủ nhu cầu năng lượng vì lượng dự
trữ glucid ở trẻ em rất ít nên chóng đói, chóng mệt lả khi hạ đường huyết.
+ Thứ ba, dùng nhiều loại thực phẩm phối hợp, thay đổi các món ăn làm cho trẻ
thích ăn, không gây chán ăn.
+ Thứ tư, nghiêm khắc trong chế độ ăn, hình thành và củng cố các phản xạ có
điều kiện về ăn uống, tạo thói quen tốt cho trẻ khi ăn uống như ăn đúng giờ, không vừa
ăn vừa chơi. Tuyệt đối không nên dọa dẫm trẻ khi trẻ ăn gây ấn tượng xấu cho trẻ đối
với ăn uống.
+ Thứ năm, hạn chế cho trẻ ăn quà ngọt, nhất là trước khi ăn vì đường sẽ làm cho

23



×