Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết và cổ tích việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.39 KB, 122 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_____________

Phan Ánh Nguyễn

MOTIF HÔN NHÂN
GIỮA NGƯỜI VÀ THẦN LINH
TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


2

LỜI CẢM ƠN
Luận văn này hoàn thành, dẫu kết quả có thế nào đi nữa bản thân cũng không
thất vọng vì đã nỗ lực hết sức.
Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
TS. Hồ Quốc Hùng – người đã hướng dẫn tôi rất tận tình.
Phòng Sau Đại học, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn cùng Ban quản lý
Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện


Hải Phú Tỉnh Phú Yên – các thầy cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành luận văn Thạc sĩ.
Thầy cô, Bạn bè – những người đã luôn giúp đỡ, động viên tôi.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Gia đình vì đã hỗ trợ tôi mọi mặt.
Học viên

Phan Ánh Nguyễn


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Học viên

Phan Ánh Nguyễn


4

MỤC LỤC
PHẦN MỘT: DẪN NHẬP........................................................................................ 6
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................... .. 6
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... .. 6
3. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... .. 9
4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. .. 9
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 11
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 11

PHẦN HAI: NỘI DUNG ........................................................................................ 14
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÝ THUYẾT ............................. 14
1.1.

Những cơ sở lịch sử - xã hội liên quan đến motif hôn nhân giữa người và

thần linh .................................................................................................................... 14
1.2.

Một số vấn đề về lý thuyết motif .................................................................. 23

1.3.

Các tiêu chí để lựa chọn motif hôn nhân giữa người và thần linh trong

truyền thuyết và cổ tích ............................................................................................ 27
CHƯƠNG 2: CÁC DẠNG THỨC CỦA MOTIF HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI
VÀ THẦN LINH TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH VIỆT NAM ... 32
2.1.

Các dạng thức của motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền

thuyết ....................................................................................................................... 33
2.1.1. Hôn nhân giữa người và thần linh hóa thân trong kiếp người .................33
2.1.2. Hôn nhân giữa người và thần linh không hóa thân trong kiếp người ......39
2.2.

Các dạng thức của motif hôn nhân giữa người và thần linh trong cổ tích ... 50
2.2.1. Hôn nhân giữa người và thần linh có lốt vật ...........................................50
2.2.2. Hôn nhân giữa người và thần linh không có lốt vật ................................54


CHƯƠNG 3: SO SÁNH MOTIF HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI VÀ THẦN
LINH TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH VIỆT NAM....................... 63
3.1. Motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chi tiết ............... 65
3.1.1. Dạng thức của motif ................................................................................65
3.1.2. Vai trò của motif đối với cốt truyện ........................................................69


5

3.2. Motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chủ đề ................. 72
3.2.1. Cốt truyện ................................................................................................73
3.2.2. Hệ thống motif .........................................................................................77
3.2.3. Kiểu nhân vật ...........................................................................................86
PHẦN BA: KẾT LUẬN .......................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 94
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 102


6

PHẦN MỘT: DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Kho tàng văn học dân gian là nơi gìn giữ những giá trị truyền thống về tư
tưởng, nghệ thuật. Nó đã trở thành dòng chảy xuyên qua các nền văn học và có ý
nghĩa với mọi thời. Cho đến nay, việc nghiên cứu văn học dân gian vẫn đang được
tiếp tục với sự đào sâu cũng như mở rộng về đối tượng và phương pháp nghiên
cứu.
Motif là một trong những vấn đề đã và đang được nghiên cứu trong chuyên
ngành văn học dân gian trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Đây là một

vấn đề có giá trị khoa học, hứa hẹn những đóng góp có ý nghĩa.
Về bản chất, truyền thuyết và cổ tích có những mối quan tâm khác nhau nhưng
hầu hết và trước hết là những khát vọng, mưu cầu về hạnh phúc cho con người ở
cõi trần gian, cuộc đời đích thực. Một trong những vấn đề đó là hôn nhân. Đánh
giá ở tầm bao quát hơn, trên bình diện nhân loại, hôn nhân là vấn đề lớn, là nền
tảng cho mọi nền văn hóa và văn minh. Mỗi thời đại có cách nhìn và nhu cầu cũng
như cách biểu đạt riêng về hôn nhân. Có những khía cạnh của hôn nhân luôn được
con người trăn trở, soi chiếu dưới nhiều góc nhìn qua mọi thời đại.
Từ nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài Motif hôn nhân giữa người và thần
linh trong truyền thuyết và cổ tích Việt Nam để tìm hiểu về văn hóa Việt Nam
nói chung, quan niệm nhân sinh, khát vọng hôn nhân hạnh phúc trong đời sống
tâm linh dân tộc nói riêng thể hiện qua truyền thuyết và cổ tích. Đồng thời, so sánh
motif này giữa hai thể loại để làm rõ sự chuyển hóa hay tương tác về mặt thể loại.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết và cổ
tích Việt Nam đã từng được các nhà nghiên cứu đi trước chú ý, nghiên cứu trên
một vài bình diện. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi tổng hợp được những tài liệu
cùng với các nhận định như sau:


7

Ở bài viết Hình tượng người mồ côi trong văn học dân gian Mèo đăng trên
Tạp chí Văn học, 1982, số 4, trang 67 (In lại trong: “Tuyển tập 40 năm Tạp chí
Văn học 1960 – 1999, Tập 1, Văn học dân gian”, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
Chí Minh, 1999), khi sơ đồ hóa truyện kiểu 1: quan hệ giữa mồ côi và lực lượng
thống trị, Lê Trung Vũ có đề cập đến tình tiết người mồ côi bị cướp người vợ thần
kì bởi lực lượng thống trị xã hội. Trong truyện kiểu 2: quan hệ giữa mồ côi và gia
đình bên vợ, tác giả kết luận về dấu vết của chế độ mẫu hệ qua mối quan hệ bố vợ
- chàng rể căng thẳng ở truyện có liên quan đến con gái vua trời.

Trên Tạp chí Văn học, năm 1983, số 5, trang 21, với bài viết Đề tài hôn nhân
trong truyện cổ tích thần kì Mường, khi làm rõ vấn đề hôn nhân trong những
dạng truyện ban đầu, Đặng Thái Thuyên đã xét đến hai dạng: hôn nhân huyết tộc
và hôn nhân vợ nhiều chồng. Với vấn đề hôn nhân trong quan hệ xung đột thực
tại, tác giả chú ý đến ba vấn đề: sự tranh đoạt, sự thử thách và sự chênh lệch gia
cảnh. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã dẫn chứng những truyện liên quan
đến hôn nhân giữa người và thần linh.
Trong công trình Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif (Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2001), Nguyễn Tấn Đắc khi nghiên cứu “Trường ca Ú Thêm” đã
nhận định: “Type truyện người trần lấy vợ tiên cũng rất phổ biến ở các nước Lào,
Campuchia, Thái Lan và Myanmar. Người ta có thể dễ dàng tìm thấy nó ở dạng
văn học viết Phật giáo” (trang 147) và cho rằng Ả Chức – Chàng Ngưu có lẽ thuộc
type truyện “Người trần lấy vợ tiên”.
Trần Thị Kim Thu - tác giả luận văn Thạc sĩ Truyền thuyết và giai thoại
Khánh Hòa (TS. Hồ Quốc Hùng hướng dẫn, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2006) khi tìm hiểu truyền thuyết Khánh Hòa đã nhận
định rằng việc nữ thần kết hôn với người trần thường gặp trong cổ tích, nó có sự
ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo và đề cao chữ duyên. Tác giả cũng xác định
motif thần thánh kết hôn với người trần thế là một motif phổ biến trong truyền
thuyết Khánh Hòa, từ đó, rút ra các nhận xét về motif này.
Trong Những hình thức thưởng phạt trong truyện cổ tích Việt Nam (Luận
văn Thạc sĩ, TS. Hồ Quốc Hùng hướng dẫn, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí


8

Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2007), Nguyễn Thị Ngân Sương khi làm rõ motif kết hôn
trong những hình thức thưởng đã phân tích hai motif: “Người trần kết hôn với
tiên” và “Người trần lấy vợ thủy cung”. Nghiên cứu hai motif này, tác giả không
chỉ làm rõ các dạng thức của motif, rút ra cách nhìn, kiến giải của người xưa, sơ

đồ hóa motif mà còn so sánh sự khác biệt trong một motif giữa dân tộc Kinh và
nhóm các dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam. Trong motif “người trần kết
hôn với tiên”, kết quả đối chiếu cho thấy trong truyện của dân tộc Kinh, người và
tiên kết hôn nhưng không hạnh phúc, phải chia xa còn ở dân tộc khác thì hạnh
phúc mĩ mãn. Motif “người trần lấy vợ thủy cung” phổ biến cho các dân tộc ở môi
trường canh tác lúa nước, nhiều ao rạch, sông ngòi,… Đối với các dân tộc khác,
motif phổ biến hơn là: người trần lấy ếch, cá. So sánh hai motif trên, tác giả kết
luận chúng đều thể hiện một cách đầy ấn tượng về mơ ước đạt được hạnh phúc của
con người.
Với công trình Tìm hiểu truyện cổ Tây Nguyên – Trường hợp của Mạ và
K’ho (Nxb Văn học, Hà Nội, 2010), khi tìm hiểu kiểu nhân vật mồ côi, nhân vật
mang lốt trong truyện cổ Tây Nguyên và so sánh truyện cổ Tây Nguyên với cổ
tích người Việt, Lê Hồng Phong có chú ý đến hôn nhân giữa người và thần linh và
đi đến những đánh giá bước đầu. Tác giả cũng thống kê và nhận xét tần số xuất
hiện của motif hôn nhân giữa người với thần linh trong kiểu truyện về nhân vật mồ
côi và nhân vật mang lốt. Phân tích những motif chủ yếu của kiểu nhân vật mang
lốt, tác giả đề cập đến một số vấn đề liên quan đến các dạng thức hôn nhân nói
chung, hôn nhân giữa người và thần linh nói riêng như: tiền hôn nhân, sự chung
chạ,...
Với luận văn Thạc sĩ Hình tượng rắn trong truyện kể dân gian Việt Nam
(TS. Hồ Quốc Hùng hướng dẫn, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Tp.
Hồ Chí Minh, 2010), Phạm Huyền Trâm đã nhận định rằng người lấy rắn là hôn
nhân do thực hiện lời hứa, thể hiện sự thần thánh hóa tự nhiên, quan niệm về sự
tích hợp giữa con người và tự nhiên, lốt rắn là ranh giới giữa người và thần linh.
Hôn nhân giữa người là thần linh là một mơ ước đẹp, mơ ước về sự công bằng.


9

Nhìn chung các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến motif hôn nhân giữa người và

thần linh trong truyền thuyết, cổ tích, chú ý đến những tầng văn hóa ẩn sau motif
này. Những thành quả đó đã hỗ trợ cho chúng tôi triển khai đề tài này. Tuy nhiên,
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu motif này ở truyền thuyết và cổ tích một
cách hệ thống và đặt ra vấn đề so sánh motif giữa hai thể loại để rút ra sự chuyển
hóa hay tương tác về mặt thể loại.
3. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này, chúng tôi muốn đạt những mục đích sau:
-

Làm rõ các dạng thức của motif hôn nhân giữa người và thần linh trong hai

thể loại truyền thuyết và cổ tích
-

So sánh motif hôn nhân giữa người và thần linh trong hai thể loại truyền

thuyết và cổ tích ở hai bình diện:
+ Motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chủ đề
+ Motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chi tiết
- Từ so sánh này có thể làm rõ sự chuyển hóa hay tương tác về mặt thể loại
Khám phá các lớp văn hóa, chủ yếu là quan niệm về hôn nhân ẩn sau motif hôn
nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết và cổ tích. Tầng văn hóa này
không chỉ biểu hiện đời sống của người Việt Nam ngày xưa mà còn tham gia vào
việc nhào nặn các yếu tố nghệ thuật.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Thực hiện đề tài này, chúng tôi nghiên cứu truyền thuyết và cổ tích của các
dân tộc ở Việt Nam, bao gồm truyện kể dân gian của dân tộc Kinh và dân tộc thiểu
số. Chúng tôi tập trung nghiên cứu bộ phận truyện của người Việt và có tham
chiếu truyện của đồng bào thiểu số. Để phục vụ cho việc khảo sát, chúng tôi sử
dụng các tài liệu sau:

1) Lã Duy Lan (2001), Truyền thuyết Việt Nam, Tập 1 & 2, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội


10

2) Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Tổng tập văn học dân gian
người Việt – Tập VI – Truyện cổ tích thần kì, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội
3) Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Tổng tập Văn học dân gian
người Việt – Tập 4 – Truyền thuyết dân gian người Việt, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội
4) Viện Khoa học Xã hội, Viện Nghiên cứu Văn hóa (2009), Tổng tập văn
học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 16, Truyện cổ tích thần
kì, truyền thuyết, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
-

Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát những tư liệu phục vụ cho quá trình so

sánh truyền thuyết, cổ tích Việt Nam với truyền thuyết, cổ tích Đông Nam Á nói
riêng, thế giới nói chung qua motif hôn nhân giữa người và thần linh. Vì motif hôn
nhân giữa người và thần linh là một vấn đề mang tính phổ quát của nhân loại. Cụ
thể là nguồn tài liệu sau:
1) Nhiều tác giả (2001), Truyện cổ năm châu, Nxb Văn hóa Thông tin, Bình
Hòa
2) Nhiều tác giả (1998), Hợp tuyển truyện cổ tích thế giới, Nxb Phụ nữ, Tp.
Hồ Chí Minh
Tổng số truyện truyền thuyết Việt Nam khảo sát được: 991 truyện.
Tổng số truyện cổ tích Việt Nam khảo sát được: 373 truyện.
Trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi chọn loại những truyện kể chưa

đúng với đặc trưng thể loại trong các tài liệu để có kết quả thống kê mang tính
chuẩn xác cao. Bên cạnh đó, chú ý những trường hợp truyền thuyết bị cổ tích hóa
và cổ tích bị truyền thuyết hóa để đưa chúng về đúng thể loại. Có những truyện
mang bóng dáng của truyền thuyết nhưng lại xuất hiện trong tuyển tập cổ tích hay
có những truyện chứa hơi hướng của cổ tích song lại được đưa vào tuyển tập
truyền thuyết. Trường hợp những truyện kể địa danh dễ dẫn đến sự nhập nhằng
như trên. Để xác định motif đúng với đặc trưng thể loại, chúng tôi dựa vào cảm
hứng chủ đạo trong từng truyện mà có sự phân loại thể loại phù hợp. Nếu cảm
hứng chủ đạo trong truyện là cảm hứng thế sự thì chúng tôi xếp truyện đó vào cổ


11

tích. Nếu cảm hứng chủ đạo trong truyện là cảm hứng lịch sử, thì chúng tôi xếp nó
vào truyền thuyết.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp sau:
-

Phương pháp so sánh: vận dụng trong quá trình so sánh motif hôn nhân

giữa người và thần linh ở hai thể loại truyền thuyết và cổ tích Việt Nam, giữa
truyện của dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số thuộc một thể loại; so sánh motif hôn
nhân giữa người và thần linh trong cổ tích Việt Nam và cổ tích thế giới
-

Phương pháp hệ thống: vận dụng khi tìm hiểu các truyện kể trong hệ thống

thể loại và triển khai đề tài
-


Phương pháp thống kê: dùng để thống kê tần số xuất hiện của các dạng

thức thuộc motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết và cổ tích
Việt Nam; motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chủ đề,
motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chi tiết ở hai thể loại.
Từ đó, rút ra những nhận xét có cơ sở
-

Phương pháp lịch sử - xã hội: sử dụng để tìm hiểu những cơ sở lịch sử, xã

hội liên quan đến motif, thể loại
-

Phương pháp liên ngành: vì vấn đề motif hôn nhân giữa người và thần linh

trong truyền thuyết và cổ tích còn liên quan đến văn hóa, dân tộc nên chúng tôi
dùng phương pháp này để vận dụng các tri thức về văn hóa học, dân tộc học,... để
nghiên cứu đề tài của luận văn
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, phần Nội dung được triển khai thành ba
chương với nhiệm vụ của từng chương như sau:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÝ THUYẾT (18 trang)
Trong chương này, chúng tôi trình bày những cơ sở về lý thuyết, tạo tiền đề
cho sự triển khai hai chương sau. Chương 1 tập trung vào ba vấn đề:
1.

Cơ sở lịch sử - xã hội liên quan đến motif

2.


Một số vấn đề về lý thuyết motif


12

3.

Các tiêu chí để lựa chọn hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền

thuyết và cổ tích
CHƯƠNG 2: CÁC DẠNG THỨC CỦA MOTIF HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI
VÀ THẦN LINH TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH (31 trang)
Chương 2 làm rõ các biểu hiện của motif hôn nhân giữa người và thần linh
trong truyền thuyết và cổ tích theo bố cục và sự phân loại trong từng loại như sau:
1.

Các dạng thức của motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền

thuyết
1.1.

Hôn nhân giữa người và thần linh hóa thân trong kiếp người

1.2.

Hôn nhân giữa người và thần linh không hóa thân trong kiếp

người
2.


Các dạng thức của motif hôn nhân giữa người và thần linh trong cổ tích
2.1. Hôn nhân giữa người và thần linh có lốt vật
2.2. Hôn nhân giữa người và thần linh không có lốt vật

CHƯƠNG 3: SO SÁNH MOTIF HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI VÀ THẦN
LINH TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ CỐ TÍCH (28 trang)
Ở chương này, chúng tôi tiến hành so sánh trên hai phương diện sau:
1. Motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chi tiết
1.1. Dạng thức của motif
1.2. Vai trò của motif đối với cốt truyện
2. Motif hôn nhân giữa người và thần linh với vai trò là motif chủ đề
2.1. Cốt truyện
2.2. Hệ thống motif
2.3. Kiểu nhân vật
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng dành một Phụ lục với hai phần để trình bày danh
mục các truyện, các kết quả thống kê, tóm tắt truyện được sử dụng trong chính
văn:
PHỤ LỤC 1A: DANH MỤC CÁC TRUYỆN KHẢO SÁT CHỨA MOTIF
HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI VÀ THẦN LINH TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ
CỔ TÍCH VIỆT NAM


13

PHỤ LỤC 1B: BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ XUẤT HIỆN CỦA CÁC DẠNG
THỨC THUỘC MOTIF HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI VÀ THẦN LINH TRONG
TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH VIỆT NAM
PHỤ LỤC 1C: BẢNG THỐNG KÊ TẦN SỐ XUẤT HIỆN CỦA MOTIF
HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI VÀ THẦN LINH VỚI VAI TRÒ LÀ MOTIF CHỦ

ĐỀ HOẶC MOTIF CHI TIẾT TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH VIỆT
NAM
PHỤ LỤC 2: CÁC TRUYỆN CHỨA MOTIF HÔN NHÂN GIỮA NGƯỜI
VÀ THẦN LINH TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH VIỆT NAM


14

PHẦN HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÝ THUYẾT
1.1.

Những cơ sở lịch sử - xã hội liên quan đến motif hôn nhân giữa người
và thần linh

Trong mục này, chúng tôi tập trung mô tả, phân tích những cơ sở về lịch sử, xã
hội, tư duy có liên quan đến motif hôn nhân giữa người và thần linh để tạo tiền đề
cho việc triển khai hai chương sau. Chúng tôi đi sâu, làm rõ ba vấn đề sau:
Một là, các hình thái hôn nhân – gia đình con người đã trải qua trong lịch sử
nhân loại từ thời nguyên thủy cho đến nay.
Hai là, những tiền đề về văn hóa chi phối đến hôn nhân bao gồm tôn giáo và
tâm thức gia đình của người Việt Nam.
Ba là, thế giới quan của người nguyên thủy chi phối sự hình thành mối quan hệ
hôn nhân giữa người và thần linh.
1.1.1. Các hình thái hôn nhân – gia đình con người đã trải qua trong lịch sử
nhân loại
Trong lịch sử nhân loại có nhiều hình thái hôn nhân khác nhau gắn với từng
giai đoạn phát triển của xã hội. Chế độ quần hôn là hình thái hôn nhân tồn tại dưới
chế độ thị tộc. Từ đó cho đến nay, dưới các chế độ xã hội: chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa,... hôn nhân một vợ một chồng là hình thái hôn nhân được

định hình ở trình độ văn minh nhân loại cao nhất. Nó trải qua một quá trình sàng
lọc, trải nghiệm và để lại nhiều khát vọng cũng như bi kịch mà đến tận bây giờ vẫn
còn những bài học đầy ý nghĩa đối với sự phát triển và tiến bộ của loài người.
Cũng cần thấy rằng các hình thái hôn nhân trong xã hội chịu sự chi phối mạnh mẽ
của điều kiện kinh tế xã hội.
Công trình Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước của
F. Engels là một tác phẩm cơ bản của chủ nghĩa Marx. Nó hình thành dựa trên
những nghiên cứu của Lewis H. Morgan. Tác giả công trình này đã giải thích sự
phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau


15

trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Từ trạng thái quan hệ tính giao tự do, loài
người đã trải qua bốn hình thức gia đình. Đó là gia đình huyết tộc, gia đình
punalua, gia đình đối ngẫu và gia đình cá thể. Theo chúng tôi, khái niệm huyết tộc
được các dịch giả sử dụng khi mô tả hình thái hôn nhân – gia đình dựa trên sự hôn
phối giữa những người có cùng dòng máu hoặc quan hệ họ hàng với nhau dùng để
chỉ tổ chức xã hội. Khái niệm đồng huyết và cận huyết là khái niệm sinh hóa, phù
hợp để diễn tả mối quan hệ hôn nhân giữa những người cùng dòng máu hoặc có họ
hàng với nhau hơn nên trong công trình này, chúng tôi dùng khái niệm gia đình
đồng huyết và cận huyết để chỉ hình thái hôn nhân – gia đình đầu tiên trong xã hội
loài người.
Trong thời kỳ công xã nguyên thủy, khi loài người sống theo bầy đàn, chưa có
phân công lao động, quan hệ tính giao còn tự do, những người có quan hệ họ hàng
vẫn có thể trở thành vợ hoặc chồng của nhau. Kiểu hôn nhân này được gọi là quần
hôn (hôn nhân giữa những người cùng họ hàng với nhau) và nó thể hiện rõ nét ở
hai hình thái gia đình: gia đình đồng huyết và cận huyết; gia đình punalua.
Kiểu gia đình đồng huyết và cận huyết thuộc giai đoạn đầu của chế độ quần
hôn. Nó thuộc giai đoạn đầu tiên trong lịch sử phát triển của gia đình. Ở đây, quan

hệ hôn nhân được xây dựng theo các thế hệ và mỗi thế hệ tập trung thành những
nhóm hôn nhân nhất định. Tất cả ông bà trong phạm vi gia đình đều là vợ chồng
của nhau và lập thành một nhóm; con của họ (tất cả bố mẹ) cũng thế và lập thành
nhóm thứ hai; con của đời thứ hai (các cháu) lập thành nhóm vợ chồng chung thứ
ba;… Kiểu hôn nhân theo trực hệ (giữa cha mẹ và con cái bị loại trừ). Quan hệ họ
hàng của anh chị em cũng bao hàm cả việc quan hệ tính giao với nhau.
Gia đình đồng huyết và cận huyết đã tiêu tan nhưng theo Engels, chúng ta buộc
phải công nhận nó từng tồn tại. Hệ thống thân tộc Hawaii thịnh hành khắp quần
đảo Polynesia đang biểu hiện những mức độ thân tộc mà chỉ có hình thức gia đình
này mới tạo ra được. Toàn bộ sự phát triển sau này của gia đình cũng giả định gia
đình đồng huyết và cận huyết như là giai đoạn tất yếu đầu tiên.
Gia đình punalua là giai đoạn phát triển cao nhất của chế độ quần hôn. Quan hệ
tính giao giữa anh chị em với nhau đã bị hủy bỏ. Con người có thể có chung vợ,


16

chung chồng với nhau trong phạm vi một gia đình nhất định nhưng phải loại ra
anh em trai của vợ và chị em gái của chồng (bao gồm anh chị em cùng mẹ hoặc có
họ hàng).
Ở mọi hình thức gia đình trong chế độ quần hôn, người ta chỉ biết chắc chắn
mẹ của một đứa trẻ mà không biết cha của nó. Huyết tộc chỉ tính được về bên mẹ
nên nữ hệ được thừa nhận.
Trong hình thức gia đình này, một nhóm chị em gái (hoặc một nhóm anh em
trai cùng mẹ hay cùng họ của những chị em gái đó) sẽ trở thành thành viên của thị
tộc. Họ có một bà mẹ tổ chung nhưng chồng của họ không phải là con của bà mẹ
này nên không thuộc thị tộc. Song con cái của họ thuộc về tập đoàn này vì huyết
tộc nữ hệ được thừa nhận.
Việc kết hôn với những người không có họ hàng với nhau tạo nên một giống
nòi mạnh mẽ hơn về thể chất và trí tuệ.

Gia đình đối ngẫu (theo cặp) hình thành khi hôn nhân theo những người có
quan hệ họ hàng với nhau bị cấm, ý thức xã hội của con người về hôn nhân phát
triển cao hơn, các cặp vợ chồng tách ra thành từng đôi riêng lẻ. Một người đàn ông
sống với một người đàn bà nhưng việc có nhiều vợ hay ngoại tình là quyền của họ.
Người đàn bà lại phải tuyệt đối chung thủy nếu không sẽ bị trừng phạt nặng. Tuy
nhiên, mối quan hệ hôn nhân có thể bị cắt đứt khi một trong hai bên quyết định và
con cái thuộc về mẹ như xưa kia. Con cái được sinh ra vẫn thuộc về thị tộc mẹ như
trước nên chúng kế thừa tài sản của mẹ. Hình thái này vẫn còn tàn dư trong cơ chế
hôn nhân gia đình ở một số tộc người trên đất nước ta. Gia đình đối ngẫu chỉ là
một đơn vị hôn phối chứ chưa là phải là một đơn vị kinh tế. Thị tộc vẫn là một đơn
vị kinh tế cơ bản trong xã hội lúc bấy giờ.
Dưới những hình thức gia đình trước, đàn ông không bao giờ thiếu đàn bà
nhưng giờ đây người đàn bà trở nên ít ỏi vì vậy việc cướp và mua bán họ trở thành
hiện tượng phổ biến.
Khi xã hội phát triển hơn, sự phân công lao động được chuyên môn hóa cao,
năng suất lao động phát triển và đem lại của cải dư thừa, kinh tế gia đình xuất hiện
khi gia đình đối ngẫu chiếm lấy những của cải dư thừa đó. Đây là điều kiện dẫn


17

đến sự hình thành kiểu hôn nhân một vợ một chồng – hình thức hôn nhân cao hơn,
mới hơn và bền vững hơn hôn nhân đối ngẫu. Kiểu hôn nhân này cũng là kiểu hôn
nhân phổ biến cho các chế độ xã hội về sau.
Trong gia đình một vợ một chồng, người chồng bắt đầu nắm vị trí thống trị đối
với người vợ và con cái. Nguyên nhân xuất phát từ việc người chồng làm những
nghề nghiệp mang lại năng suất và thu nhập cao hơn như: chăn nuôi, trồng trọt,
tiểu thủ công,… Còn người vợ chỉ làm công việc nội trợ, không làm ra của cải vật
chất nên bị phụ thuộc vào chồng.
Gia đình cá thể (một vợ một chồng) nảy sinh từ gia đình đối ngẫu và là dấu

hiệu cho biết thời văn minh đã bắt đầu. Kiểu gia đình này dựa trên sự thống trị của
đàn ông và con cái đã xác định được cha đẻ của mình. Sau này, chúng sẽ là người
nhận được tài sản thừa kế từ cha. Kiểu gia đình này khác gia đình đối ngẫu ở mối
quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn nhiều, hai bên không thể tùy ý bỏ nhau. Người
chồng có quyền ngoại tình trong khi người vợ vi phạm sẽ bị trừng phạt rất tàn
khốc.
Hôn nhân không phải là kết quả của tình yêu nam nữ mà mang tính vụ lợi. Gia
đình cá thể cũng là hình thức gia đình đầu tiên dựa trên cơ sở các điều kiện kinh
tế, dựa trên sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu tự nhiên
nguyên thủy. Nó xuất hiện như sự nô dịch của giới này đối với giới kia, tuyên bố
sự đấu tranh giữa hai giới. Vì người đàn ông không có tài sản nên không thể lập ra
sự thống trị. Đặc biệt, khi người phụ nữ trở thành người thường xuyên nuôi sống
gia đình thì không có cơ sở nào cho quyền thống trị của người đàn ông trong gia
đình.
Như vậy, chế độ thị tộc tan rã trước sự phát triển của tư tưởng tư hữu và sự
hình thành của gia đình một vợ một chồng. Cuộc cách mạng này đã xảy ra từ trong
gia đình. Dưới mỗi chế độ khác nhau, kiểu hôn nhân có những đặc điểm riêng biệt.
Gia đình có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Nhấn mạnh tầm quan trọng này, Marx và Engels đã cho rằng
gia đình là quan hệ xã hội duy nhất trong buổi đầu của lịch sử xã hội. Với chức
năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì những quan hệ xã


18

hội khác. Gia đình là một xã hội thu nhỏ và khi xã hội loài người được hình thành,
phát triển thì những hoạt động của nó thường xuyên tác động đến gia đình làm cho
gia đình biến đổi về hình thức, cấu trúc cũng như vai trò đối với xã hội. Những
hình thái khác nhau của hôn nhân trong lịch sử loài người cho thấy điều đó.
Một vài nét phác thảo về những hình thái hôn nhân và gia đình trong lịch sử

nhân loại đã cho thấy mỗi chặng đường đã để lại dấu ấn đậm nét nếu không nói là
cơ sở nền tảng cho cảm hứng về chủ đề hôn nhân trong các thể loại văn học dân
gian mà trước hết là truyền thuyết và cổ tích.
1.1.2. Những tiền đề về văn hóa chi phối đến mối quan hệ hôn nhân giữa người
và thần linh
Tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong sự ảnh hưởng đối với hôn nhân. Nho
giáo và Phật giáo được xem là hai trong những tôn giáo có sự chi phối mạnh mẽ
đối với đời sống tâm linh của người Việt. Hôn nhân là điều rất quan trọng trong
truyền thống của Nho giáo vì nó liên quan đến đạo làm người. Ba khía cạnh quan
trọng của hôn nhân đó là sự chung thủy, li dị là điều tối kỵ; quyết định hôn nhân
thuộc về cha mẹ hai bên, sự tìm hiểu trước hôn nhân không phải là điều quan
trọng; trách nhiệm và cũng là nghĩa vụ của đôi vợ chồng là sinh con trai để nối
tiếp tổ tiên. Nếu người vợ không sinh được con trai thì người chồng có thể li dị và
cưới thêm tì thiếp khác. Đây là nguyên nhân làm phát sinh tục đa thê và ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình. Phật giáo chủ trương sinh là khổ nhưng không hề
cấm đoán việc hôn nhân. Hôn nhân được xem như là vấn đề mang tính cá nhân.
Đạo phật cho phép mỗi người hoàn toàn có quyền tự do quyết định chính cho bản
thân mình về tất cả vấn đề hôn nhân. Những vị xuất gia tu tập đã từ bỏ đời sống
hôn nhân gia đình là sự cam kết tình nguyện để duy trì sự an lạc nội tâm và dành
cả cuộc đời để phục vụ cho nhu cầu tâm linh. Bên cạnh Nho giáo và Phật giáo,
Thiên Chúa giáo cũng có những đặc điểm riêng trong quan niệm hôn nhân. Thiên
Chúa giáo đã lấy hôn nhân đồng nhất với tình yêu của thiên chúa làm nền tảng cho
giáo lý. Hôn nhân giữa hai người là do Chúa quyết định và nó là sự biểu hiện tình
yêu của Chúa dành cho nhân loại. Như vậy, tôn giáo này đã cổ xúy cho một tình


19

trạng hôn nhân xuất phát từ tình yêu mà ở đó cả hai được nhất thể hóa thành một
biểu tượng, một giá trị vĩnh hằng.

Một trong những vấn đề chi phối mạnh đến đời sống hôn nhân của người Việt
trong xã hội và thế giới hình tượng họ gửi gắm trong truyện kể dân gian chính là
tâm thức gia đình. Tâm thức gia đình của người Việt hình thành rất sớm ngay từ
thời cổ. Gia đình chính là tế bào của xã hội, điều kiện để hình thành xã hội. Vì dân
tộc Việt Nam vốn thể trạng yếu cần nhiều sức mạnh, xã hội nông nghiệp cần nhiều
nhân lực nên gia đình có tầm quan trọng rất lớn. Những truyện kể dân gian ở buổi
đầu của sự hình thành xã hội đều đề cập đến mối quan hệ gia đình. Truyện về Lạc
Long Quân, Sơn Tinh và Thủy Tinh, Chử Đồng Tử và Tiên Dung,… đều xoay
quanh vấn đề hôn nhân. Người Việt Nam quan niệm anh em bốn cõi một nhà.
Trong cách xưng hô, dùng những đại từ chỉ những người trong gia đình để giao
tiếp với những người không có mối quan hệ huyết tộc. Ngay cả khái niệm Nhà
nước cũng là sự hòa trộn hai thực thể gia đình và xã hội.
Có thể thấy rằng những cơ sở về văn hóa đã tác động đến chủ đề hôn nhân từ
trong sâu xa.
1.1.3. Thế giới quan của người nguyên thủy chi phối mối quan hệ hôn nhân
giữa người và thần linh
Vì là một bộ phận của thế giới nên con người có nhu cầu nhận thức về thế giới
cũng như bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới để điều chỉnh hoạt động
sống. Những quan điểm, quan niệm về thế giới, bản thân con người và cuộc sống
là thế giới quan. Những nhận thức của con người về thế giới trong xã hội nguyên
thủy được thể hiện rõ nét qua thần thoại. Đây là thời đại mà tính mông muội còn
mang nặng trong đời sống vật chất lẫn tinh thần, trong hoạt động nhận thức lẫn
hoạt động thực tiễn.
Thế giới quan của người nguyên thủy thể hiện đậm nét trí tưởng tượng của lối
tư duy không tự giác giữa thực và ảo, giữa người và thần. Trong những sự vật cụ
thể như núi, sông,... người ta có thể tưởng tượng đến những đối tượng tồn tại trong
đó chứ không xem chúng là hoàn toàn là sự vật vô tri vô giác. Đây là sản phẩm
của nhận thức cảm tính nên những gì trừu tượng thường được hình dung dưới



20

những sự vật cụ thể. Chẳng hạn: “Thiện” và “Ác” là khái niệm chỉ sự đánh giá về
mặt xã hội của con người nhưng trong thần thoại là những vị thần được mô tả đầy
đủ với hình dáng, nơi sinh sống,… Người nguyên thủy có một quan điểm hỗn hợp
về thế giới. Họ đem bản thân mình với các sự vật, lực lượng trong tự nhiên hợp
thành một, đem sức sống, ý nghĩ, cảm xúc của mình gán cho tự nhiên, từ các loài
hữu giác đến các vật vô tri vô giác. Khi yếu tố dân chủ nguyên thủy còn chiếm địa
vị thống trị trong xã hội thì các vị thần bình đẳng với nhau. Khi xã hội có giai cấp
xuất hiện thì có sự phân biệt đẳng cấp trong thế giới của thần. Có thần cấp trên,
thần cấp dưới và một vị thần tối cao làm chúa tể. Để phân biệt được mình với tự
nhiên, người nguyên thủy phải trải qua những chặng đường dài đấu tranh gian
khổ. Những điều trên cũng là biểu hiện của quan niệm vạn vật hữu linh. Người
nguyên thủy cho rằng vạn vật đều có hồn. Người Việt cũng như người Thái Lan
quan niệm mọi cây to trong rừng đều là nơi trú ngụ của một vị thần.
Theo Engels nhận định, nguồn gốc của thế giới quan này là kết quả tất yếu của
trình độ nhận thức thấp khi con người chưa hiểu về nguồn gốc, nguyên nhân và
bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Họ đã nhân cách hóa, nhân hình
hóa chúng thành các vị thần hoặc bán thần, lấy cuộc sống con người để giải thích
cuộc sống của thần linh là biểu hiện của quan niệm hỗn hợp về thế giới. Thần đất
Gaia trong thần thoại Hy Lạp, thần mặt trời Viêm Đế trong thần thoại Trung
Quốc, thần lửa Agni trong thần thoại Ấn Độ,… là kết quả của sự nhân cách hóa,
nhân hình hóa ấy. Sự bất lực, sợ hãi của con người trước những lực lượng tự nhiên
cũng như những lực lượng xã hội đã dẫn đến việc con người thần thánh hóa
chúng, quy chúng về những sức mạnh tự nhiên và tôn thờ chúng. Lenin cũng đã
từng nhận định: “[…] Sự bất lực của con người dã man trong cuộc đấu tranh
chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỉ, vào những phép màu,…”
[5, 278]. Còn Engels đã giải thích như sau: “Cơ sở của mọi sự nhận định sai lầm
ấy về giới tự nhiên, về sự cấu tạo ra bản thân con người, về quỷ thần, về những thế
lực mầu nhiệm,… thường thường chỉ là một yếu tố tiêu cực mà thôi: tức là trình

độ kinh tế thấp kém của thời kỳ tiền sử thì đẻ ra những nhận định sai lầm về thiên
nhiên” [43, 278].


21

Sự hiểu biết của con người là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ và gian khổ
để tiến dần từ tình trạng dã man đến trình độ văn minh. Sự hiểu biết đó được nâng
cao do những thắng lợi trong việc khắc phục và cải tạo thiên nhiên. Cách nhìn,
cách nghĩ của người nguyên thủy có phần khác với chúng ta. Tuy nhiên, tư duy
của họ mặc dầu ấu trĩ nhưng sản sinh trên cơ sở phản ánh những mối liên hệ giữa
các hiện tượng của thế giới khách quan và những mối liên hệ của các hiện tượng
ấy với loài người thông qua lao động sản xuất. Trong cuộc đấu tranh sản xuất,
người ta quan sát các hiện tượng, sự vật trong thiên nhiên. Sự quan sát càng tinh
tường, hiểu biết càng phong phú thì kết quả lao động càng tăng lên. Yêu cầu giải
thích thiên nhiên nảy sinh từ đó. Người ta quan sát và suy nghĩ các sự vật như: núi,
rừng, mặt trời, mặt trăng,…; các hiện tượng như: mưa, gió, lũ lụt,… Nhận thức
của người nguyên thủy có phần chính xác vì nó vẫn phản ánh hiện thực, do thực
tiễn mà có.
Gorki nhận định: “Trong trí tưởng tượng của người nguyên thủy, một vị thần
không phải là một cái gì trừu tượng mà là một nhân vật có thực, được trang bị
bằng một công cụ nào đó. Thần là bậc thầy của nghề này hay nghề khác. Thần là
sự khái quát nghệ thuật của sự tiến bộ lao động” [43, 276].
Một nguyên nhân khác nữa dẫn đến sự nhận thức mông muội về thế giới đó
chính là sự tôn sùng thế hệ trước. Cuộc sống cộng đồng với tất cả các nhu cầu của
nó đã nảy sinh ý thức tìm về nguyên thủy của người nguyên thủy. Họ biết ơn
những gì tổ tiên đã tạo ra và mong mỏi sẽ được tiếp thêm sức mạnh để chiến thắng
trong cuộc chiến chống thiên tai, thú dữ và những cộng đồng người khác. Chân
dung của các thế hệ trước được truyền miệng từ người này qua người khác, qua trí
tưởng tượng của người kể tạo ra những biến đổi và làm cho những con người của

thị tộc ngày càng anh hùng, kỳ vĩ và cũng thần thánh hơn. Heraclitus, Hector,… là
những con người như thế. Như vậy, thế giới quan của người nguyên thủy là kết
quả của sự giải thích các lực lượng của tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí
tưởng tượng.
Từ đấy có thể nói mọi quan niệm về hôn nhân và gia đình cổ xưa đều thoát
thai từ triết lý sống tự nhiên của con người trong thời kỳ thị tộc, bộ lạc. Do đó, nó


22

gợi lên cho chúng ta sự cảm thông với dân tộc ở buổi ban đầu. E.M. Meletinski chỉ
ra rằng người nguyên thủy chưa tách mình ra khỏi môi trường tự nhiên và xã hội
bao quanh. Tư duy nguyên thủy còn giữ những đặc điểm của sự chưa phân tách,
chưa tách khỏi môi trường ấn tượng, tự phát. Điều này dẫn đến sự nhân hóa hồn
nhiên toàn bộ thiên nhiên, sự đối chiếu “ẩn dụ” các đối tượng thiên nhiên của xã
hội, văn hóa. Người nguyên thủy hình dung các hiện tượng tự nhiên như với con
người, gán cho chúng tâm hồn, lý trí, tình cảm con người. Và đến lượt mình, con
người lại tự đồng nhất với thế giới ấy. Đó là cơ sở giao tiếp hay tương tác giữa
con người với thế giới thần linh, là nền tảng cho những ý tưởng phóng túng bay
bổng trong các cuộc hôn nhân của thần thoại, truyền thuyết và cổ tích.
Một trong những biểu hiện đầu tiên của sự nhất thể hóa giữa con người với tự
nhiên làm tiền đề cho các ý thức về hôn nhân và gia đình giữa con người và thần
linh chính là Tôtem. Tôtem giáo là một trong những hình thức tôn giáo sớm nhất
đã sản sinh trên cơ sở của quan niệm hỗn hợp về thế giới. Người nguyên thủy cho
rằng tất cả mọi thành viên của thị tộc, bộ lạc đều do một giống động vật, thực vật
hoặc một vật thể nào đó sinh ra. Tôtem (vật tổ) của dân tộc Kinh là con rồng, của
dân tộc Dao là con chó thần Bàn Hồ,… Vật tổ vừa là vật, vừa là người và là tổ tiên
của người. Vật tổ có sự nghiệp khai sáng kỳ vĩ và toàn uy, toàn năng đối với con
cháu. Đây là một trong những vị thần xuất hiện sớm nhất của thời nguyên thủy.
Như đã nói ở trên, các hình thái hôn nhân trong lịch sử xã hội loài người đã

trải qua nhiều hình thái khác nhau dưới sự ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã
hội và văn hóa. Hôn nhân là một trong những nghi lễ của đời người đã phản ánh
bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc trong đó có Việt Nam. Sự hình thành quan niệm
về mối hôn nhân giữa con người và thần linh xuất phát từ thế giới quan, vũ trụ
quan của người nguyên thủy. Trải qua các thời đại, vai trò của hôn nhân vẫn luôn
chi phối mọi hoạt động của xã hội và hòa lẫn vào trong nhiều ý niệm về thế giới,
xã hội. Cho nên nó vẫn luôn là một mối quan tâm được biểu hiện dưới nhiều góc
độ, trình độ nhận thức khác nhau của nhân loại. Đó là lý do để đề tài này thâm
nhập vào nhiều thể loại văn học dân gian. Việc tìm hiểu những vấn đề trên là cơ
sở, nền tảng để chúng tôi triển khai các chương sau, có điều kiện tìm hiểu các


23

dạng thức của motif hôn nhân giữa người và thần linh. Có một điều rất rõ là trải
qua một quá trình dài lâu về nhận thức và phát triển, vấn đề hôn nhân như đã nói,
luôn luôn được đề cập đến trong các loại hình văn học dân gian. Đối với truyền
thuyết và cổ tích, sự lặp lại các ý tưởng này tạo thành những công thức trong biểu
đạt. Đó chính là dạng thức của motif.
1.2.

Một số vấn đề về lý thuyết motif

Motif không phải là một vấn đề mới mẻ đối với ngành nghiên cứu văn học dân
gian. Ở đây, chúng tôi sẽ làm rõ lý thuyết về motif và lý thuyết về những vấn đề
có liên quan đến motif như type, mối quan hệ giữa motif và type để có cái nhìn
thấu đáo về motif.
1.2.1.

Lý thuyết về motif


Người đầu tiên đưa ra khái niệm type và motif là nhà Folklore người Nga ở thế
kỷ thứ XIX: A.N.Vexelopxki. Lý thuyết của ông đã trở thành phổ biến ở châu Âu
vào cuối thế kỷ thứ XIX. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tên tuổi nổi tiếng khác khi
nghiên cứu về type và motif như A.Aarne, C.Thompson … Ở Việt Nam, có thể kể
ra một số công trình đã áp dụng lý thuyết về type và motif để nghiên cứu như
Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif (Nguyễn Tấn Đắc ), Thạch Sanh
và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á (Nguyễn
Bích Hà ), Cổ tích thần kỳ người Việt – đặc điểm cấu tạo cốt truyện (Tăng Kim
Ngân ), Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bảng mục lục tra cứu
típ và mô típ truyện cổ dân gian của Antti và Stith Thompson (Nguyễn Thị
Hiền ),…
Motif không phải là thuật ngữ của riêng ngành văn học dân gian song lĩnh vực
mà motif được nghiên cứu nhiều nhất và phân tích cẩn thận nhất là truyện kể dân
gian như: cổ tích, huyền thoại, ballad.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Xô Viết (dẫn theo [80, 57]), thuật ngữ
motif bắt nguồn từ gốc La – tinh Môreo – chỉ một yếu tố của cấu trúc âm nhạc.
Ngày nay, trong ngôn ngữ âm nhạc thì motif được hiểu như điệp khúc. Đó là
những khuôn nhạc giống nhau thường trở lại luôn.


24

Trong nghệ thuật dân gian, có motif của hình phác họa là những hình mẫu
thường lặp lại hoặc kết hợp với những hình mẫu khác theo một cách riêng biệt nào
đó.
Trong văn học dân gian, motif được hiểu như là một đơn vị nhỏ nhất, là những
đơn vị tế bào hạt nhân để xây dựng nên cốt truyện, là một thành tố tạo nên truyện.
Nó rất linh động, bởi trong truyện kể nó có thể tách rời ra hoặc lắp ghép lại được.
Motif truyện kể có thể là những khái niệm đơn giản thường gặp trong kho tàng

văn học dân gian như: những tạo vật khác thường bao gồm thần tiên, phù thủy,
yêu tinh, con vật biết nói,...; những thế giới kì diệu mà ở đó có những hiện tượng
tự nhiên khác thường, ma thuật luôn có hiệu lực,... Motif cũng có thể là một mẩu
kể ngắn, đơn giản, một sự việc đủ gây ấn tượng và thích thú đối với người nghe.
Theo Nguyễn Tấn Đắc trong Đề cương bài giảng sau đại học tại Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998 [57, tr.50-51], motif có thể là sản phẩm
của trí tưởng tượng non trẻ, thơ ngây của loài người ở trước thời kỳ của tư duy
khoa học. Chẳng hạn con vật biết nói, người chết biết thành cây, cái thảm biết bay,
hạt gạo to như cái đầu và khi chín thì tự đi về nhà, nồi cơm ăn không bao giờ
hết,… motif cũng có thể là sản phẩm của sự quan sát cuộc sống xã hội có thực
nhưng nó phải bất thường, quá đáng. Ví dụ mẹ đẻ giết con chồng, anh em ruột hại
nhau, cha mẹ đẻ mang con bỏ vào rừng,… Motif cũng có thể là sản phẩm của sự
mơ ước dân gian như: chàng trai nghèo được lấy vợ tiên, công chúa; cô gái nghèo
được lấy hoàng tử,… Motif cũng có thể là sản phẩm của trí thông minh, sự khôn
ngoan bất ngờ, thú vị của trí tuệ dân gian như trong các truyện ngụ ngôn, truyện
cười,…
Có thể thấy rằng thuật ngữ motif được dùng một cách rất lỏng lẻo, bao gồm bất
kì yếu tố nào tham gia vào truyện truyền miệng. Song cần lưu ý rằng để trở thành
một phần thật sự của truyện kể, nó phải có cái gì đó khác lạ, đặc biệt, làm cho
người ta nhớ và lặp đi lặp lại. Chẳng hạn, một bà mẹ thông thường không phải là
một motif còn một bà mẹ hung ác trở thành một motif vì nó khiến người ta nghĩ
rằng đây không phải là điều bình thường. Điều này cũng lí giải vì sao các motif


25

trong truyện kể dân gian vẫn tiếp tục sống, được các thế hệ người kể chuyện sử
dụng trong nhiều câu chuyện.
Việc nghiên cứu motif còn có ý nghĩa quan trọng đối với những người muốn
tìm hiểu về văn hóa. Phân tích motif, người nghiên cứu có cơ hội khám phá những

tầng văn hóa ẩn sau motif đó. Đồng thời, có thể chỉ ra mối quan hệ quốc tế. Đôi
khi sự sử dụng cùng một motif chỉ có tính logic, do quá trình tư duy giống nhau
giữa các nơi trên thế giới.
1.2.2. Lý thuyết về type
Theo định nghĩa của Từ điển Văn học (dẫn theo [57, 206]), “Tập hợp những
truyện có cùng chủ đề và cốt truyện tương tự như nhau, được gọi là kiểu truyện”.
GS. Nguyễn Tấn Đắc cũng có ý kiến tương tự, type được hiểu như là kiểu loại,
kiểu mẫu của truyện kể dân gian. Chỉ những tác phẩm dân gian nào có chung một
điểm nào đó về chủ đề, cốt truyện, nhân vật mới có thể được nghiên cứu chung.
Liên quan đến thuật ngữ type còn có thuật ngữ motif. Motif là những đơn vị tế bào
hạt nhân để xây dựng nên cốt truyện, là một thành tố tạo nên truyện. Nó rất linh
động, bởi trong truyện kể nó có thể tách rời ra hoặc lắp ghép lại được. Tính chất
của nó là hay lặp đi lặp lại và mang nét khác lạ hay đặc biệt nào đó. Vì vậy, tìm
hiểu motif cũng là khám phá những tầng lớp văn hóa. Type là đơn vị lớn hơn
motif, một type có thể chứa nhiều motif. Trường hợp câu chuyện quá ngắn, chỉ có
một motif thì motif ấy được xem như type.
Ở Việt Nam, năm 1978, ông Phan Kế Hoành trong bài Góp phần tìm hiểu
nguồn gốc truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân (Tạp chí Văn học số 4,
1978) đã dùng thuật ngữ “dạng thức” để nói về những truyện có các yếu tố lặp lại
nhau. Vũ Anh Tuấn trong luận án phó tiến sĩ với đề tài Khảo sát cấu trúc và ý
nghĩa một số típ truyện kể dân gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam đã dùng
thuật ngữ “típ truyện”. Lê Trung Vũ thì dùng khái niệm “dạng truyện” khi thực
hiện đề tài: Khảo sát về dạng truyện người mồ côi trong truyện cổ tích
H’mông. Theo khảo sát của Nguyễn Bích Hà thì khái niệm kiểu truyện, típ truyện
hay dạng truyện mà các tác giả dùng đều chỉ những truyện có các yếu tố tương tự


×