Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền kinh tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.02 KB, 26 trang )

A.LỜI NÓI ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về
phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của
tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai
đoạn của mỗi quốc gia.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn
2006-2010 của Việt Nam là “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được
bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự
phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt
đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010. Giữ
vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt
Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.”
Muốn Việt Nam đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải
hiểu đúng nghĩa về tăng trưởng, phát triển kinh tế và phát triển bền vững. Vì
vậy em xin trình bày về vấn đề: “ Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững
nền kinh tế của Việt Nam”.
1
B.NỘI DUNG
Chương I: Những lý luận về phát triển kinh tế và sự phát triển
bền vững
1. Cơ sở lý luận.
a. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định( thường là một năm).
+)Sự gia tăng được thể hiện ở qui mô và tốc độ. Qui mô tăng trưởng
phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý
nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các
thời kì.


+) Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá
trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GNP, GNI và được tính
cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng đối
với nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính
bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía
cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả
của chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế
nữa, qúa trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là
khoa học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp
lí.
Để đạt được sự tăng trưởng kinh tế tốt nhất là đề đạt được sự tăng trưởng
ở mức cao thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành vĩ mô và điều khiển
2
vi mô, kết hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng các quy
luật kinh tế và sử dụng các công cụ đòn bẩy như thuế, tiền tệ, lãi suất, việc
làm...
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh
suy của một quốc gia. Bởi thế, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn
lực của mình cho sự tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải
quyết mọi vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết vấn đề tảng trưởng kinh tế tạo
ra nhiều của cải mới, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác
như cân bằng ngân sách, đầu tư chiều sâu, phúc lợi xã hội, giải quyết việc
làm, chống lại các loại tội phạm, đảm bảo ngân sách cho quốc phòng an
ninh... Ngược lại nếu không đạt được sự tăng trưởng kinh tế ở mức độ cần
thiết thì trong xã hội sẽ có khả năng nảy sinh hàng loạt vấn đề rất nan giải.
Bài học của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế trầm trọng (khoảng
những năm 1976 - 1986) đã cho ta thấy rõ vai trò của sự tăng trưởng kinh tế
quan trọng như thế nào.
b.Phát triển bền vững:

Khái niệm: Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các
nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu
cầu của thế hệ tương lai.
Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường
Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc:
+) Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
+) Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
+) Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
+) Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
3
+) Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
+) Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
+) Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
+) Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát
triển và bảo vệ.
+) Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.
Phát triển bền vững đang là thách thức cho mọi quốc gia, nhất là trong
điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế.việc ựa chọn con đường, biện
pháp và thể chế, chính sách đảm bảo phát triển bền vững luôn là mối quan
tâm hàng đầu của mọi người trong bước đường phát triển.
2. Tiêu chí đánh giá
Tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới góc độ chất lượng. Chất lượng
tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững
của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong 1 thời gian dài;
- Phát triển có hiệu quả, thể hiện qua năng suất lao động, năng suất
tài sản cao và ổn định, hệ số, hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng
góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TPF) cao;
- Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao;
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo hài hòa đời sống xã hội;

- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;
4
Chương II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững nền kinh tế ở Việt Nam
I.Tình hình cụ thể
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã
đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường
xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều
lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh
xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất
và đời sống dân cư.
Trong bối cảnh không thuận lợi đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị
quyết 01/NQ-CP ngày 09/01/2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều
hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà
nước năm 2009. Ngày 6/4/2009, Bộ Chính trị đã ra Kết luận về tình hình kinh
tế-xã hội quý I/2009 và các giải pháp chủ yếu đến cuối năm 2009. Ngày
19/6/2009, kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khoá XII đã ra Nghị quyết số
32/2009/QH12 điều chỉnh mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội năm 2009 là “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế,
phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn định kinh
tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã hội,
quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong
đó, mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.
5
Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết
liệt của Đảng, Chính phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn, sự
sáng tạo của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên nước ta đã ngăn chặn được suy
giảm kinh tế, càng về cuối năm càng nâng cao được tốc độ tăng trưởng.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản
phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất
trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc
độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04%
và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%,
bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa
ra một số nhận xét, đánh giá như sau:
- Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng
6,18% của năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong
bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế
nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành
công lớn.
- Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009
thấp hơn tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng
6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV/2009 tăng
6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế
nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính
6
sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển
khai trong năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy
hiệu quả.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2009
theo giá so sánh 1994 đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,76% so với cùng kỳ năm
trước; đến 6 tháng cuối năm đã đạt 122,8 nghìn tỷ đồng, tăng 3,16% so với 6

tháng cuối năm 2008. Do vậy, tính chung cả năm 2009 đạt 219,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 3% so với năm 2008, bao gồm nông nghiệp đạt 160,1 nghìn tỷ
đồng, tăng 2,2%; lâm nghiệp đạt 7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8%; thuỷ sản đạt
52,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%.
Sản xuất công nghiệp
Công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng mạnh do thị trường xuất khẩu hàng
hoá thu hẹp; nhưng các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế có
nhiều cố gắng; Chính phủ và các cấp, các ngành đã đề ra nhiều giải pháp kịp
thời, có hiệu quả như hỗ trợ lãi suất vay vốn; mở rộng thị trường tiêu thụ trong
nước thông qua các gói kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng; vận động nhân
dân hưởng ứng chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
nên kết quả sản xuất, kinh doanh từng bước được khôi phục và tiếp tục tăng
trưởng.
Đầu tư phát triển
Với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh
xã hội, trong năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu
tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án,
công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng
7
trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá
thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và
bằng 42,8% GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng,
chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ
đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009

Nghìn tỷ
đồng
Cơ cấu

(%)
So với cùng
kỳ năm trước
(%)
TỔNG SỐ 704,2 100,0 115,3
Khu vực Nhà nước 245,0 34,8 140,5
Khu vực ngoài Nhà nước 278,0 39,5 113,9
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài 181,2 25,7 94,2
II.Thành tựu và hạn chế tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu phát triển
bền vững ở Việt Nam
1.Kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới phát triển bền
vững:
1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương
đối ổn định
8
Cần khẳng định rằng dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, quá trình suy giảm kinh tế của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục
hồi tốc độ tăng trưởng đến nhanh. Hình 1 cho thấy nền kinh tế chạm đáy suy
giảm tăng trưởng trong quý I/2009 sau đó liên tục cải thiên tốc độ ở các quý
sau. Tốc độ tăng GDP quý II đạt 4,5%, quý III đạt 5,8% và dự đoán quý IV sẽ
đạt 6,8%.
Hình 1: Tăng trưởng GDP theo quý
Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng
phục hồi rõ rệt. Giá trị sản xuất công nghiệp quý I đạt 3,2%, quý II tăng lên
7,6% và quý III là 8,5%. So với khu vực công nghiệp, thì khu vực dịch vụ
chịu tác động ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới ở mức độ thấp hơn.
Nhìn chung, khu vực dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng
trưởng trong quý I là 5,1%, trong quý II, 5,7% và 6,8% trong quý III. Căn cứ
kết quả thực hiện 9 tháng đầu năm và triển vọng các tháng tiếp theo, tốc độ

9
tăng trưởng giá trị khu vực dịch vụ ước thực hiện cả năm 2009 có thể đạt
6,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, do sản lượng lương thực năm 2008 đã
đạt mức kỷ lục so với trước, nên ngành nông nghiệp tăng không nhiều trong
năm 2009. Uớc thực hiện giá trị tăng thêm ngành nông, lâm, thủy sản tăng
khoảng1,9%
Tổng sản phẩm trong nước năm 2009
theo giá so sánh 1994
%
2008 2009
Tổng số 6,18 5,32
A. Phân theo khu vực kinh tế
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 4,07 1,83
Công nghiệp và xây dựng 6,11 5,52
Dịch vụ 7,18 6,63
B. Phân theo quý trong năm
Qúy I 7,49 3,14
Qúy II 5,72 4,46
Qúy III 5,98 6,04
Qúy IV 5,89 6,90
Nguồn:Tổng cục thống kê
Như vậy xu hướng phục hồi tăng trưởng là khá vững chắc và đạt được
ngay từ trước khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế. Với mức tăng
trưởng như vậy dự báo GDP cả năm 2009 sẽ đạt 5,2%, cao hơn so với mức
tăng trưởng đáy trong 20 năm qua ở mức 4,77% của năm 1999. Đây là một
10

×