Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

thiết kế các bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 152 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Nữ Quỳnh Trâm

THIẾT KẾ CÁC BÀI TẬP GIÁO DỤC
NHẬN THỨC VỀ BẢN THÂN
CHO TRẺ 5 -6 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Nữ Quỳnh Trâm

THIẾT KẾ CÁC BÀI TẬP GIÁO DỤC
NHẬN THỨC VỀ BẢN THÂN
CHO TRẺ 5 -6 TUỔI
Chuyên ngành: Giáo dục học (Giáo dục mầm non)
Mã số: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ NGỌC CHÚC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Thiết kế các bài tập giáo dục nhận thức về bản
thân cho trẻ 5- 6 tuổi” là công trình nghiên cứu của bản thân.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa nhận được
công bố trong các công trình khác, các trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2014
HỌC VIÊN CAO HỌC

Nguyễn Nữ Quỳnh Trâm


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình,
truyền đạt những kiến thức quý báu của quý Thầy Cô trong khóa học sau đại học
chuyên ngành giáo dục mầm non của Trường Đại Học Sư Phạm.
Tôi xin cảm ơn quý Thầy Cô phòng sau đại học trường Đại học Sư Phạm
Tp.HCM đã hỗ trợ cho tôi trong suốt khóa học.
Tôi xin cảm ơn đến Tiến sĩ Trần Thị Ngọc Chúc đã tận tâm hướng dẫn,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn sự hỗ trợ của BGH và các giáo viên trường mầm non.
Cảm ơn bạn bè đồng nghiệp, người thân đã giúp đỡ tôi trong học tập và
cũng như trong khi tôi hoàn thành luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 9 năm 2014
HỌC VIÊN CAO HỌC

Nguyễn Nữ Quỳnh Trâm


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng số liệu
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.............................................................................. 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 6
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài............................................... 6
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................... 10
1.2. Lý luận về ý thức, tự ý thức, nhận thức về bản thân.................................. 12
1.2.1. Khái niệm ý thức ................................................................................. 12
1.2.2. Khái niệm tự ý thức ............................................................................. 13
1.2.3. Khái niệm nhận thức về bản thân ........................................................ 15
1.2.4. Một số đặc điểm tâm lý liên quan đến nhận thức về bản thân của
trẻ 5 - 6 tuổi ......................................................................................... 18
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ
5 – 6 tuổi .............................................................................................. 21
1.2.6. Nội dung giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi trong
chương trình giáo dục mầm non và bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi
của Bộ giáo dục và đào tạo.................................................................. 24
1.3. Các cơ sở thiết kế bài tập ........................................................................... 28
1.3.1. Khái niệm thiết kế................................................................................ 28
1.3.2. Khái niệm về bài tập ............................................................................ 28
1.3.3. Các nguyên tắc thiết kế bài tập ............................................................ 30
1.3.4. Các yêu cầu khi áp dụng bài tập giáo dục trẻ nhận thức về bản thân....... 32
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 35
Chương 2. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG BÀI TẬP GIÁO DỤC NHẬN

THỨC VỀ BẢN THÂN CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI ........................... 36
2.1. Tổ chức nghiên cứu.................................................................................... 36


2.1.1. Đôi nét về địa bàn nghiên cứu ............................................................. 36
2.1.2. Khái quát về quá trình tổ chức nghiên cứu thực trạng ........................ 39
2.2. Kết quả khảo sát thực trạng bài tập giáo dục nhận thức về bản thân
cho trẻ 5 – 6 tuổi ở một số trường mầm non, Tp.HCM............................. 40
2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non và Ban giám hiệu
về giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi ở một số
trường MN Tp.HCM ........................................................................... 40
2.2.2. Thực trạng các bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 –
6 tuổi ở một số trường MN Tp. HCM ................................................. 45
2.2.3. Những khó khăn của giáo viên khi giáo dục nhận thức về bản
thân cho trẻ 5 – 6 tuổi .......................................................................... 54
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................... 58
Chương 3. THIẾT KẾ VÀ KHẢO SÁT TÍNH KHẢ THI MỘT SỐ
BÀI TẬP GIÁO DỤC NHẬN THỨC VỀ BẢN THÂN CHO
TRẺ 5 -6 TUỔI ................................................................................ 59
3.1. Thiết kế các bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi ..... 59
3.1.1. Các bài tập giúp trẻ phân biệt bản thân với người khác: hiểu vị
thế và các quan hệ xã hội, xúc cảm của bản thân. ............................... 59
3.1.2. Các bài tập giúp trẻ bộc lộ năng lực, phẩm chất, tính cách khí chất ....... 65
3.1.3. Các bài tập giúp trẻ nhận ra bản thân và người khác có xu hướng
khác nhau: thái độ tích cực trong quan hệ với bạn bè và người
lớn; hợp tác với bạn bè; hành vi thích hợp trong ứng xử xã hội;
tôn trọng người khác ........................................................................... 71
3.2. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi các bài tập giáo dục nhận thức
về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi..................................................................... 77
3.2.1. Khảo sát bằng phiếu hỏi ...................................................................... 77

3.2.2. Khảo sát bằng hình thức giáo viên tổ chức giờ học dựa trên các
bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi ................... 87
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................... 93
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 97
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1. Danh sách các trường mầm non khảo sát.......................................... 36
Bảng 2.2. Trình độ chuyên môn của BGH và GV các trường khảo sát. ........... 37
Bảng 2.3. Thâm niên công tác của BGH, GV các trường khảo sát. .................. 37
Bảng 2.4. Nhận thức của giáo viên mầm non về khái niệm giáo dục nhận
thức về bản thân cho trẻ (N = 79) câu 1 (xem phụ lục 4) ................. 40
Bảng 2.5. Sự cần thiết giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi. ....... 42
Bảng 2.6. Sự phân bố thời gian tổ chức giáo dục nhận thức về bản thân
cho trẻ 5- 6 tuổi ................................................................................. 43
Bảng 2.7. Thực trạng mức độ sử dụng biện pháp giáo dục nhận thức về
bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi. ................................................................ 45
Bảng 2.8. Thực trạng mức độ sử dụng biện pháp giáo dục nhận thức về
bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi của giáo viên. ......................................... 46
Bảng 2.9. Thực trạng mức độ sử dụng biện pháp giáo dục nhận thức về
bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi của BGH. ................................................ 46
Bảng 2.10. Những khó khăn trong quá trình giáo dục nhận thức về bản thân
cho trẻ 5 – 6 tuổi................................................................................ 54
Bảng 3.1. Quy ước tính cần thiết và khả thi của bài tập .................................... 78
Bảng 3.2. Điểm trung bình và mức độ cần thiết của các bài tập đề xuất. ......... 78
Bảng 3.3. Điểm trung bình mức độ khả thi của các bài tập đề xuất. ................. 81
Bảng 3.4. So sánh về tính cần thiết và tính khả thi của các bài tập đề xuất. ..... 84



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1.

Trình độ chuyên môn của BGH và GV ...................................... 38

Biều đồ 2.2.

Thâm niên công tác của BGH và GV ......................................... 38

Biểu đồ 2.3.

Nhận thức của BGH và GV về sự cần thiết giáo dục nhận
thức về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi. ............................................. 43

Biểu đồ 2.4.

Sự phân bố thời gian giáo dục nhận thức về bản thân cho
trẻ 5 – 6 tuổi ở các trường. .......................................................... 44

Biểu đồ 3.1.

Mức độ cần thiết của các bài tập giáo dục nhận thức về
bản thân cho trẻ 5- 6 tuổi. ........................................................... 81

Biểu đồ 3.2.

Mức độ khả thi của các bài tập giáo dục nhận thức về bản
thân cho trẻ 5- 6 tuổi. .................................................................. 84


Biểu đồ 3.3.

Trung bình cần thiết và trung bình khả thi của các bài tập
giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi. ..................... 86


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGH

: Ban giám hiệu

CT

: Cần thiết

GV

: Giáo viên

GVMN

: Giáo viên mầm non

TB

: Trung bình

KCT

: Không cần thiết


KKT

: Không khả thi

KT

: Khả thi

MN

: Mầm non

RCT

: Rất cần thiết

RKT

: Rất khả thi

TBCT

: Trung bình cần thiết

TBKT

: Trung bình khả thi

TP. HCM


: Thành phố Hồ Chí Minh

ĐHSP

: Đại học sư phạm

HN

: Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội hiện nay đã và đang làm biến đổi cuộc sống của con người, nhiều
vấn đề phức tạp liên tục nảy sinh. Con người luôn mong muốn vươn tới thành
công, trong guồng quay đó luôn có những câu hỏi: Tại sao có những người kém
thông minh nhưng lại thành công hơn những người thông minh? Do họ may
mắn, làm việc chăm chỉ, hay họ có những năng lực đặc biệt? Cuốn sách bán chạy
nhất thế giới của Daniel Goleman (Emotional intelligence) đã lập luận rằng tầm
nhìn của chúng ta về trí tuệ con người quá hạn hẹp. Với kết quả nghiên cứu về trí
não và khoa học hành vi, Goleman lý giải cho chúng ta những câu hỏi trên. “Hãy
hiểu chính mình”, nói lên nguyên tắc cơ bản của xúc cảm: phải có ý thức về
những tình cảm của mình ngay từ khi nó xuất hiện. Các nhà tâm lý học gọi ý
thức về tư duy của mình là siêu nhận thức và ý thức về những xúc cảm của mình
là siêu tâm trạng [15].
Ý thức của đứa trẻ được hình thành bởi chính đứa trẻ, bởi sự dạy dỗ của
người lớn trong quá trình dạy chữ và dạy người. Ý thức điều khiển và uốn nắn

hành động của trẻ, làm cho hành động đó từng bước mang tính sáng tạo và vượt
lên những sự kiện thông thường của đời sống hàng ngày. Hành động của trẻ tác
động vào chính đứa trẻ bằng hoạt động có ý thức, đứa trẻ thực hiện tái tạo bản
thân mình bởi chính mình [25, tr.80].
Việc lĩnh hội kiến thức của người đi học nói chung và trẻ em mầm non
nói riêng phần lớn là do tính chủ động trong học tập, tự tìm tòi và có nhu cầu học
tập. Mà sự phát triển của trẻ em là sự lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của
nhân loại bằng hoạt động của bản thân trẻ để phát triển. Qua hoạt động tích lũy
kiến thức, phát triển trí tuệ, nhận thức bản thân, trẻ biết về bản thân mình có
nghĩa là biết: Điều gì mình muốn, điểm mạnh, điểm yếu, những động cơ thúc
đẩy bản thân hành động và khiến bản thân vui vẻ, muốn thay đổi bản thân, tự
nhận thức về bản thân, tự đánh giá về bản thân, tự điều chỉnh – điều khiển bản


2

thân theo mục đích tự giác.
Nếu mỗi cá nhân càng hiểu về bản thân mình tốt, cá nhân đó có thể chấp
nhận hoặc thay đổi bản thân mình. Chỉ khi nhận thức rõ, hiểu rõ về mình, cá
nhân mới nhận ra được điều gì chưa phù hợp để hướng đến thay đổi, thích ứng.
Mình luôn trả lời cho các câu hỏi: Mình là ai? Mình đang ở đâu? Mình muốn
gì? Mình sẽ đi đến đâu?
Trong xu hướng chung đổi mới toàn diện giáo dục, phát huy tính chủ
động của trẻ mầm non để chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp một. Đó cũng là mục
tiêu trong chương trình giáo dục mầm non ban hành kèm theo thông tư số
17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và
Đào tạo: “Giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, nhận thức, thẫm mỹ, ngôn
ngữ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp
một”.
Đặc biệt trong chương trình Giáo dục mầm non 2010 Bộ Giáo dục và Đào

tạo Việt Nam đã ban hành Bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi. Trong đó, chuẩn
7, chuẩn 8, chuẩn 9, chuẩn 10, chuẩn 11, chuẩn 12, chuẩn 13 đưa ra các chỉ số
đánh giá: thể hiện sự nhận thức về bản thân, sự tin tưởng vào khả năng của bản
thân, trẻ biết thể hiện cảm xúc và một số quy tắc ứng xử của bản thân đối với các
mối quan hệ xung quanh trẻ.
Việc giáo dục nhận thức về bản thân là một quá trình rèn luyện và giáo
dục lâu dài. Đặc biệt, là trẻ 5 – 6 tuổi là lứa tuổi chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa
trường phổ thông. Do đó cần sớm giáo dục cho trẻ nhận thức về bản thân đó sẽ
làm hành trang cho trẻ thích nghi tốt với sự thay đổi môi trường và tăng tính tự
lập cho trẻ.
Trẻ 5 - 6 tuổi đã có khả năng nhận thức về bản thân nhưng thực tế vẫn
chưa được quan tâm, chưa tạo ra các bài tập riêng trong các hoạt động giáo dục
lẫn vui chơi. Từ tình hình trên đề tài “Thiết kế các bài tập giáo dục nhận thức về
bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi” được xác lập.


3

2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng các bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 6 tuổi, từ đó thiết kế các bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 - 6
tuổi.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế bài tập như là phương tiện giáo dục giúp trẻ: phân biệt bản
thân với người khác; bộc lộ năng lực, phẩm chất, tính cách khí chất; nhận ra bản
thân và người khác có xu hướng khác nhau thì trẻ sẽ nhận thức về bản thân tốt

hơn.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Đề tài thiết kế các bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi
tại huyện Nhà Bè, theo nội dung chương trình giáo dục mầm non và bộ chuẩn
phát triển trẻ 5 tuổi của Bộ giáo dục và đào tạo.
5.2. Giới hạn địa bàn nghiên cứu
Một số trường mầm non thuộc huyện Nhà Bè và trường mầm non thuộc
Quận 7 (8 trường).
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa một số lý luận nhận thức về bản thân nhằm tạo cơ sở cho
vấn đề nghiên cứu.
Khảo sát thực trạng các bài tập giáo dục của giáo viên nhằm phát triển khả
năng nhận thức về bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi tại một số trường mầm non thuộc
huyện Nhà Bè và Quận 7.


4

Thiết kế và thử nghiệm các bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ
5 – 6 tuổi.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Tìm kiếm một số vấn đề lý luận cơ bản và các công trình nghiên cứu từ
luận án, sách báo, tạp chí, trang web… có liên quan đến đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát và ghi chép lại biểu hiện nhận thức về bản thân của trẻ khi thực
hiện bài tập trong một số hoạt động của cô và trẻ ở trường mầm non: giờ học, vui
chơi trong lớp, nhằm tìm hiểu thực trạng nhận thức về bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi

và khảo sát tính cần thiết và khả thi của các bài tập giáo dục nhận thức về bản
thân.
Tìm hiểu các loại bài tập giáo dục nhận thức về bản thân (mặt tình cảm –
kỹ năng xã hội ) trong kế hoạch năm, tháng, tuần của giáo viên mầm non thuộc
địa bàn khảo sát.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
- Phỏng vấn phó hiệu trưởng chuyên môn, giáo viên để tìm hiểu về việc
sử dụng bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ.
- Những khó khăn của giáo viên khi giáo dục nhận thức về bản thân cho
trẻ 5 - 6 tuổi và các bài tập hỗ trơ.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Nhằm tìm hiểu ý kiến của giáo viên mầm non về:
- Nhận thức của giáo viên mầm non về giáo dục nhận thức về bản thân
cho trẻ 5 - 6 tuổi.
- Các bài tập giáo viên sử dụng nhằm giáo dục nhận thức về bản thân cho
trẻ 5 - 6 tuổi.
- Những nguyên nhân giáo viên chưa thực hiện tốt việc giáo dục nhận
thức về bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi.


5

- Điều tra tính cần thiết và khả thi của các bài tập giáo dục nhận thức về
bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi.
7.3. Phương pháp xử lý thông tin
Các tư liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê toán học.
8. Đóng góp của đề tài nghiên cứu
- Góp phần hệ thống hóa lý luận nhận thức về bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi.
- Tìm hiểu thực trạng về việc thực hiện các bài tập giáo dục nhận thức về
bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi và xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc giáo

dục nhận thức về bản thân tại một số trường mầm non thuộc thành phố Hồ Chí
Minh.
- Đề tài thiết kế một số bài tập giáo dục nhận thức về bản thân cho trẻ
mầm non 5 - 6 tuổi.


6

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Các nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới đã đề cập đến sự nhận thức về
bản thân (tự nhận thức) trong các công trình nghiên cứu về tự ý thức.
Phân tâm học do S.Freud sáng lập cho rằng, trong đời sống tâm lý, ý thức
chỉ là một phần rất nhỏ bé so với cái bản năng, cái vô thức (nguyên lý tảng băng
trôi). Phân tâm học đi đến khẳng định động lực của đời sống tâm lý và sự phát
triển nhân cách của con người nằm ở tầng sâu vô thức. Những nhà phân tâm học
tập trung, đề cao vô thức mà xem nhẹ các vấn đề về ý thức cũng như vai trò của
nó trong đời sống con người [31].
Đầu thế kỉ XX, trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử thì vấn đề ý thức, tự ý thức mới dần được làm sáng tỏ và nghiên
cứu sâu.
Nhà tâm lý học ngưởi Đức A.Pfender, đầu thế kỉ XX, đã xây dựng khái
niệm tự ý thức từ sự phân biệt “cái tôi” và tự ý thức. Theo ông, tất cả các hiện
tượng tâm lý là cảm xúc trực tiếp đồng nhất với ý thức, nhưng ý thức không
được hiểu là sự phản ánh mà như cái bên trong có sẵn. Chủ thể tâm lý hình thành
khả năng tự nhận thức về bản thân mình, hình ảnh của chính mình, hình ảnh này
có hạt nhân và ngoại biên. Ngoại biên là những gì nằm ngoài tâm lý như: quần
áo, thân thể, tài sản. Khi chính hình ảnh đó của chủ thể tâm lý trở thành đối
tượng, nội dung của ý thức cụ thể, xuất hiện ý thức tâm lý đặc biệt là tự ý thức

[21].
GS. Philippe Rochat, thuộc khoa tâm lý học, đại học Emory, Mỹ đã có
công trình nghiên cứu về “Năm mức độ tự ý thức mà trẻ bộc lộ ở những năm đầu
đời”. Trong đó ông đã phân tích năm mức độ tự ý thức của trẻ gồm có: Mức 0 sự hỗn loạn; Mức 1 - sự khác biệt; Mức 2 - sự định vị; Mức 3 - sự nhận ra; Mức


7

4 - sự bền vững; Mức 5 - sự tự ý thức. Thông qua các bài tập thí nghiệm, tác giả
đã khẳng định mức độ của tự ý thức xuất hiện theo thứ tự thời gian, tương ứng
với độ tuổi của trẻ. Tác giả đã rất xem trọng yếu tố trải nghiệm mà bỏ qua các
yếu tố cơ sở là đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ [60].
Nhà tâm lý học Pháp, P.Janet, đã có bước tiến đáng kể trong sự hiểu biết
bản chất của tự ý thức. Quan niệm của Janet thừa nhận tâm lý của con người bị
chế ước bởi quá trình tác động qua lại của xã hội. Trong hoạt động tập thể và
giao tiếp con người nhập tâm những phương thức hành vi, quan hệ, thái độ đối
với thế giới bên ngoài của người khác. Những phương thức hành vi được nhập
tâm đó sẽ thể hiện thành phương thức hành vi của con người đó. Quan điểm của
ông về tự ý thức, như thuộc tính cơ bản của nhân cách được hình thành trong hệ
thống các mối quan hệ xã hội phức tạp. Quan điểm này, đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển quan niệm duy vật về bản chất của tự ý thức [31, tr.424-425].
Trong công trình “Vấn đề tự ý thức trong tâm lý học” (1977),
I.I.Trexnocova đã đưa ra các nguyên tắc duy vật biện chứng của việc phân tích
tự ý thức nói chung và tự nhận thức nói riêng. I.I.Trexnocova cho rằng tự nhận
thức là một phần trong cấu trúc của tự ý thức, trong đó gồm 3 mặt thống nhất:
nhận thức (tự nhận thức), cảm xúc – giá trị (thái độ đối với bản thân) và hành
động – ý chí, điều khiển (tự điều chỉnh – điều khiển). Trong tác phẩm này,
I.I.Trexnocova đã phân tích quá trình phát triển tự ý thức trong sự phát triển cá
thể, phân tích bản chất ba mặt của ý thức [21].
Bên cạnh đó, còn có công trình nghiên cứu về sự tự nhận thức bản thân

trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách:
Trong tác phẩm “Hoạt động, ý thức, nhân cách” A.N.Leonchiep đã đề cập
đến vấn đề tự ý thức của con người. Ông nói: “Ý thức cá nhân không chỉ là kiến
thức, hệ thống ý nghĩa, hoặc các khái niệm thu nhận được mà còn là sự vận
động bên trong, phân biệt sự hiểu biết về bản thân và tự ý thức về mình”. Theo
ông cần phân biệt giữa hiểu biết về bản thân và tự ý thức về mình. “Ngay từ hồi
còn rất bé người ta cũng đã tích lũy được nhiều hiểu biết, những biểu tượng về


8

bản thân. Còn ý thức bản ngã, ý thức về cái tôi, của mình, là kết quả, là sản phẩm
sinh thành của một con người với tư cách là một nhân cách [4, tr.136 – 137].
Nửa cuối thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu, cũng bắt đầu quan tâm đến vấn
đề “năng lực hiểu xúc cảm của bản thân và năng lực kiểm soát các xúc cảm đó,
có ý thức về những tình cảm của mình ngay từ khi nó xuất hiện và hiểu hơn về
bản thân”. Đại biểu cho những nghiên cứu trên là các nhà khoa học:
E.I Thorndike (1970) – giáo sư tâm lý giáo dục ở trường Đại học tổng hợp
Columbia là một trong những người đầu tiên tìm ra cách nhận dạng trí tuệ cảm
xúc mà lúc đó ông gọi là trí tuệ xã hội. Theo ông trí tuệ xã hội là “năng lực hiểu
và kiểm soát của một người dùng để hành động một cách khôn ngoan trong các
mối quan hệ của con người” [68].
Nhà tâm lý học Isarel, Reuven Bar – On là người đầu tiên đưa ra thuật
ngữ EQ (Emotional Intelligence Quotient) trong luận án tiến sĩ của mình năm
1985. Ông đặt trí tuệ cảm xúc trong trong phạm vi lý thuyết nhân cách, đưa mô
hình Well – being (1997) với ý định trả lời câu hỏi “Tại sao một người nào đó lại
có khả năng thành công trong cuộc sống hơn người khác”. Ông đã nhận diện
được 5 khu vực bao quát về mặt chức năng phù hợp với thành công trong cuộc
sống: các kỹ năng làm chủ cảm xúc của mình; các kỹ năng làm chủ cảm xúc liên
cá nhân, tính thích ứng, kiểm soát stress, tâm trạng chung [69].

Năm 1997. John Mayer và Salovey chính thức định nghĩa: “ Trí tuệ cảm
xúc là năng lực nhận biết, bày tỏ cảm xúc, hòa cảm xúc vào suy nghĩ, hiểu, suy
luận, với xúc cảm, điều khiển, kiểm soát xúc cảm của mình và của người khác”
[57].
Daniel Goleman, tiến sỹ tâm lý học của Đại học Havard – người phụ trách
chuyên mục khoa học của tờ Times, tập hợp kết quả nghiên cứu về trí tuệ cảm
xúc và đã viết cuốn sách gây tiếng vang lớn ở Mỹ với nhan đề “Trí tuệ cảm xúc;
Tại sao nó lại có thể quan trọng hơn IQ đối với tính cách, sức khỏe và sự thành
công trong suốt cuộc đời?” Ông đưa ra chương trình học về nhận thức bản thân:
ý thức về bản thân, đưa ra các quyết định, chế ngự cảm xúc, làm dịu những căng


9

thẳng, đồng cảm với người khác, giao tiếp, cởi mở với người khác, sự sáng suốt:
Nhận ra ở bản thân và ở người khác những xu hướng sống và phản ứng tình cảm,
chấp nhận bản thân: Cảm thấy tự hào và tự nhìn nhận bản thân theo hướng tích
cực; nhận biết những chỗ mạnh và chỗ yếu; có khả năng tự “cười nhạo” bản
thân, trách nhiệm cá nhân, tự tin, hoạt động nhóm, giải quyết các xung đột [15].
Với tác giả Travis Bradberry và Jean Greaves trong tác phẩm “Thông
minh cảm xúc – nâng cao EQ để hạnh phúc và thành công”. Tác giả đã đề cập
đến biểu hiện của trí tuệ cảm xúc hiểu về bốn kĩ năng: năng lực cá nhân bao gồm
kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng làm chủ bản thân; năng lực xã hội bao gồm kĩ
năng nhận thức xã hội và kĩ năng làm chủ mối quan hệ. Bốn kĩ năng này kết hợp
với nhau tạo thành trí tuệ cảm xúc. Tự nhận thức (hay nhận thức về bản thân) là
khả năng bạn nhận biết một cách chính xác về cảm xúc của mình ngay khi nó
xảy ra và hiểu mình có khuynh hướng làm gì trong tình huống đó. Tự nhận thức
bao gồm việc kiểm soát được những phản ứng thông thường của bản thân đối
với những sự việc, thách thức và đối tượng cụ thể. Hiểu biết thấu đáo về các
khuynh hướng của bản thân đóng vai trò rất quan trọng; nó giúp bạn nhanh

chóng nắm bắt được cảm xúc của mình. Khả năng tự nhận thức tốt đòi hỏi bạn
sẵn sàng chịu đựng sự khó chịu khi phải chú ý đến những cảm xúc đôi khi tiêu
cực [3, tr.22 - 23].
Như vậy, các khái niệm về tự nhận thức được các nhà khoa học đề cập
trong các công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc mà trước đó được gọi là trí
tuệ xã hội. Các nghiên cứu trên đều đề cập đến việc hiểu về cảm xúc bản thân,
quản lý cảm xúc, hiểu thấu đáo về khuynh hướng của bản thân, xử lý các mối
quan hệ. Có thể nói, nếu mỗi cá nhân càng hiểu về bản thân mình tốt, cá nhân đó
có thể chấp nhận hoặc thay đổi bản thân mình. Chỉ khi nhận thức rõ, hiểu rõ về
mình, cá nhân mới nhận ra được điều gì chưa phù hợp để hướng đến thay đổi,
thích ứng. Càng hiểu rõ về mặt tốt đẹp và mặt hạn chế bao nhiêu thì chúng ta
càng phát huy toàn bộ tiềm năng của mình tốt bấy nhiêu.


10

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Bên cạnh các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế kể trên,
các nhà khoa học, nhà giáo dục Việt Nam có một số công trình như sau:
Công trình nghiên cứu lý luận của tác giả Lê Khanh (Bản chất của ý thức,
2003) [23], Đỗ Long (Vấn đề ý thức trong tâm lý học tộc người, 2005) [26],
Trần Ninh Giang (Vấn đề ý thức, tự ý thức trong tâm lý học 2005) [14]…Các
công trình này tập trung nghiên cứu về vấn đề về bản chất, cấu trúc của ý thức,
tự ý thức trong quá trình phát triển tâm lý người.
Các công trình nghiên cứu thực tiễn về sự ý thức và tự ý thức:
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thạc về tự ý thức của trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi được tiến hành trên 326 trẻ tại các trường mẫu giáo ở Hà Nội năm học 1998
– 2000. Kết quả nghiên cứu cho thấy tự ý thức của trẻ 5 - 6 tuổi thể hiện cao ở tất
cả các mặt; đa số trẻ có mức độ đánh giá phù hợp cao. Tự ý thức của trẻ phát
triển không đồng đều ở các mặt tự ý thức và ở từng cá nhân trẻ. Đồng thời, đề tài

cũng đi đến khẳng định tự ý thức của trẻ mẫu giáo mang tính trực quan [40].
Mặc khác, những vấn đề “cái tôi”, tự nhận thức, tự đánh giá… đã được
quan tâm nghiên cứu khá nhiều, có thể kể đến như:
- Đề tài “Kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên đang sống tại các trung tâm
bảo trợ xã hội trên đại bàn TP.HCM” của tác giả Bùi Hồng Quân, luận văn thạc
sĩ tâm lý học năm 2010. Trong đề tài này, tác giả chú ý phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến sự tự đánh giá của trẻ, đặt biệt là thầy cô và bạn bè ở trung tâm. Đề
tài nêu rõ tự đánh giá là mức độ cao của tự ý thức, để đánh giá trước tiên trẻ phải
tự nhận thức rõ các giá trị của bản thân [35].
- Đề tài “Nghiên cứu sự đánh giá bản thân của sinh viên trường Đại học
công nghiệp Quảng Ninh” của Cao Hải Anh năm, 2010. Tác giả tiến hành nghiên
cứu trên 200 sinh viên, 20 cán bộ Đoàn thanh niên và Hội sinh viên, 20 giáo viên
chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu luận văn cho thấy sinh viên trường Đại học công
nghiệp Quảng Ninh có mức độ đánh giá về bản thân ở mức trung bình. Sự đánh


11

giá về bản thân của sinh viên trường Đại học công nghiệp Quảng Ninh có mối
tương quan nhất định với kết quả học tập của sinh viên ở trường [2].
- Đề tài “Biểu hiện tự ý thức của học sinh một số trường THPT tại Thành
phố Hồ Chí Minh” của Kiều Thị Thanh Trà, năm 2010. Nghiên cứu được thực
hiện tại 4 trường: Trường trung học thực hành Đại học Sư phạm TP.HCM,
Trường THPT Hùng Vương, Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Trường
THPT Lê Thánh Tôn. Nghiên cứu được thực hiện trên 465 học sinh thuộc 4
trường trên. Kết quả nghiên cứu thu được đa số học sinh THPT ở TP.HCM hiện
nay có biểu hiện tự ý thức ở mức khá, có mối liên hệ ở mức trung bình giữa biểu
hiện tự ý thức biểu hiện trên ba mặt. Và yếu tố giáo dục gia đình và bản thân là
hai yếu tố ảnh hưởng lớn đến tự ý thức của học sinh [44].
- Đề tài nghiên cứu về “cái tôi” với tư cách là hạt nhân ý thức “Tính cộng

đồng – tính cá nhân và “ cái tôi” của con người Việt Nam hiện nay” do Đỗ Long
và Phan Thị Mai Hương làm chủ nhiệm. Đề tài bổ sung những quan điểm truyền
thống về tính cộng đồng – tính cá nhân cũng như khái niệm “cái tôi” của người
Việt Nam từ góc độ tâm lý học [26].
- Đề tài “Tìm hiểu sự đánh giá bản thân ở trẻ 10 – 15 tuổi” do Văn Thị
Kim Cúc thực hiện trên khách thể là 120 trẻ ( 60 nam – 60 nữ) ở một số trường
THCS tại Hà Nội. Kết quả nghiên cứu đề tài đã cho thấy ở thanh thiếu niên 10 15 tuổi, tự đánh giá bản thân bộc lộ tính tích cực ở lĩnh vực học đường thể hiện
rõ khả năng đáp ứng thích hợp của trẻ vào hoạt động chủ đạo, vào cuộc sống học
đường [8].
- Đề tài “Sự tự đánh giá của học sinh cuối cấp tiểu học” của Vũ Thị Nho.
Tác giả đề cập đến sự tự đánh giá của học sinh tiểu học. Tác giả nhấn mạnh sự tự
nhận thức bản thân của học sinh lứa tuổi này chưa ổn định và chịu ảnh hưởng từ
đánh giá của người khác, ở đây là thầy cô, bạn bè [32].
- Đề tài nghiên cứu “Tự nhận thức bản thân của học sinh lớp 4, 5 tại
trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê
Ngọc Bảo Trân, năm 2011. Kết quả nghiên cứu trên 100 học sinh cho thấy, học


12

sinh lớp 4, lớp 5 tự nhận thức về: các đặc điểm hình thức bên ngoài của mình,
tính cách và năng lực học tập ở mức độ trên trung bình. Kết quả nghiên cứu của
đề tài trên rất gần với đề tài nghiên cứu, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu nhận thức về bản thân cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi và các bài tập giáo
dục nhận thức về bản thân cho trẻ độ tuổi 5 – 6 tuổi [51].
1.2. Lý luận về ý thức, tự ý thức, nhận thức về bản thân
Các nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới đã đề cập đến sự nhận thức về
bản thân (tự nhận thức) trong các công trình nghiên cứu về tự ý thức. Vì vậy, để
tìm hiểu khái niệm nhận thức về bản thân, trước hết phải tìm hiểu khái niệm về ý
thức và tự ý thức.

1.2.1. Khái niệm ý thức
* Định nghĩa
Tâm lý học nghiên cứu quá trình nảy sinh, cấu trúc và chức năng của ý
thức cá nhân. Ý thức có tính tích cực, tính định hướng lên đối tượng, tính suy xét
những gì có trong ý thức, tính động cơ – giá trị. Có các mức độ ý thức khác
nhau. Ý thức bị quy định bởi những yếu tố bên ngoài và không phụ thuộc vào
bản thân nó. Tâm lý học Mác xít nghiên cứu quá trình hình thành ý thức trong
quá trình phát triển cá thể. Cấu trúc ý thức của cá nhân được hình thành từ thời
thơ ấu do đứa trẻ lĩnh hội cấu trúc giao tiếp với người lớn. Quá trình lĩnh hội này
dựa trên cơ sở phát triển loài.
Từ điển tâm lý học định nghĩa ý thức là: mức độ cao của sự phản ánh tâm
lý, của khả năng tự điều chỉnh và chỉ có ở người như một sinh vật xã hội – lịch
sử. Theo kinh nghiệm cá nhân thì ý thức xuất hiện như tổng hòa các hình ảnh
cảm tính và trí tuệ. Tổng hòa này biến đổi không ngừng và xuất hiện trước chủ
thể dưới các hình thức kinh nghiệm “bên trong” và các dự định hoạt động thực
tiễn của chủ thể đó [13, tr.1030 – 1031].
Trong tâm lý học, ý thức là một lĩnh vực nghiên cứu thu hút nhiều sự quan
tâm của các nhà tâm lý học, theo nhà tâm lý học L.X Vugotxki “ Bỏ qua vấn đề ý
thức, tâm lý học tự mình chặn đứng con đường đi đến nghiên cứu nhiều vấn đề


13

phức tạp của hành vi con người, Nó buộc hạn chế bằng việc giải thích các mối
liên hệ đơn giản nhất của cơ thể thống nhất với thế giới” [31, tr.500 - 502].
- Theo quan điểm tâm lý học hoạt động, A.N Leonchep cho rằng ý thức
trực tiếp là bức tranh về thế giới bày ra trước chủ thể, hành động và trạng thái
của chủ thể. Đối với người thông thạo thì sự tồn tại của bức tranh chủ quan ấy ở
chủ thể, dĩ nhiên, không đặt ra một vấn đề lý luận nào cả: trước mắt chủ thể là
thế giới, chứ không phải thế giới là bức tranh về thế giới [19, tr.201].

Qua việc phân tích khái niệm về ý thức dưới các quan điểm khác nhau,
chúng tôi đồng ý quan điểm của GS. TS Vũ Dũng được trình bày trong từ điền
tâm lý học. Ý thức là hình ảnh phản ánh hiện thực cao nhất của con người. Cũng
như tâm lý, ý thức là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao (bộ não) của con
người [12, tr. 1030 – 1032]. Ý thức là: năng lực hiểu cái tri thức về thế giới
khách quan và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân; là sự
thống nhất của tất cả các hình thức và trải nghiệm của con người cùng thái độ
của người đó đối với cái được phản ánh; là sự tích lũy và sử dụng thông tin về
xung quanh và về chính bản thân mình để giải quyết các vấn đề của cuộc sống
[14].
1.2.2. Khái niệm tự ý thức
* Định nghĩa tự ý thức
Theo triết học duy vật biện chứng, tự ý thức được xem xét ở việc con
người tự tách mình ra khỏi thế giới khách quan, ý thức về bản thân mình trong
mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài, tự nhận thức về bản thân mình như
một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí
trong xã hội, nhận thức các cử chỉ, hành động, tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng
lợi ích của mình. Với vai trò là một hiện tượng tâm lý cá nhân, tự ý thức xuất
hiện đồng thời với ý thức, là cái phát sinh của ý thức nhưng thễ hiện ở một giai
đoạn phát triển cao hơn, giúp con người nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh
bản thân theo quy tắc, các tiêu chuẩn xã hội đề ra.


14

* Cấu trúc tự ý thức
Cấu trúc của tự ý thức bao gồm: tự nhận thức về bản thân; tự đánh giá về
bản thân; tự điều chỉnh, tự điều khiển bản thân theo mục đích tự giác. Cấu trúc
của tự ý thức cụ thể như sau:
Tự nhận thức về bản thân

Tự nhận thức về bản thân là quá trình tâm lý phản ánh những đặc điểm,
phẩm chất,… của bản thân, làm cơ sở cho việc định hướng. Tóm lại, Tự nhận
thức về bản thân là quá trình tâm lý phản ánh những đặc điểm, phẩm chất… của
bản thân, làm cơ sở cho việc định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi của
mình.
Tự đánh giá về bản thân
Tự đánh giá là hệ thống thái độ đối với bản thân. Trên cơ sở nhận thức
được đặc điểm bản thân mình, nhận thức được đặc điểm của người khác, cá nhân
so sánh bản thân mình với người khác, tỏ thái độ hài lòng hoặc không hài lòng
đối với bản thân mình [51].
Bộ phận cấu thành trung tâm của tự ý thức là tự đánh giá của nhân cách –
sự suy xét của con người về mức độ của những phẩm chất, thuộc tính của bản
thân so với khuôn mẫu chuẩn – biểu hiện thái độ con người đánh giá bản thân
mình ( ở cấp độ có thể nó phần nào được đồng nhất với ý kiến của “cái tôi”)
Cũng như nhà tâm lý học V.P Levcôvich đã định nghĩa: “Tự đánh giá là
một giai đoạn cao của tự ý thức, nó bao gồm không những nhận thức bản thân
mà còn có sự đánh giá đúng sức lực và khả năng của mình, bao gồm cả thái độ
phê phán đối với bản thân [47].
Sự tự đánh giá chung của nhân cách có thể dựa trên cấu trúc các đánh giá
bộ phận: đánh giá trí tuệ, khả năng tiếp xúc và ảnh hưởng đến những người khác
trong giao tiếp, về ổn định cảm xúc và tốc độ phản ứng, sự tự tin, tự nhận thức.
Tự điều chỉnh điều khiển hành vi của bản thân theo mục đích tự giác
Cá nhân tự giác điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với mục đích của bản
thân. Qua việc tự nhận thức về bản thân, tự đánh giá những đặc điểm của bản


15

thân mình, cá nhân có thể tự điều chỉnh, điều khiển hành vi bản thân, từ đó có
khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình [52, tr.67] .

Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức, với cấu trúc gồm có: tự
nhận thức bản thân; tự đánh giá; tự điều chỉnh, điều khiển hành vi của bản thân
để từ đó cá nhân có thể tự giáo dục và tự hoàn thiện mình. Chính nhờ tự ý thức
về bản thân, con người tự tách mình khỏi thế giới xung quanh, xác định được vị
trí và vai trò của mình trong thế giới đó. Tự ý thức hình thành không những
trong từng cá nhân mà cả trong những cộng đồng, tập đoàn người lớn, nhỏ.
1.2.3. Khái niệm nhận thức về bản thân
Như đã phân tích ở phần tự ý thức, thì nhận thức là một trong 3 thành
phần của tự ý thức.
Nhân thức là một dạng hoạt động cơ bản của con người. Hoạt động nhận
thức là quá trình tâm lý phản ánh thế giới khách quan. Đặc trưng nổi bật nhất của
hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan (những đặc điểm, thuộc
tính, tính chất của sự vật, hiện tượng). Hay nói cách khác, nhận thức là quá trình
chủ thể tiếp nhận những thông tin thu được làm cơ sở cho việc định hướng, điều
khiển, điều chỉnh hành vi của mình nhằm đảm bảo sự thích ứng và phát triển của
cá nhân.
* Định nghĩa
Theo định nghĩa “tự nhận thức” từ điển tâm lý Vũ Dũng: nhận thức về bản
thân. Đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất và phức tạp nhất của chủ
thể sự phức tạp này do các nguyên nhân sau: Thứ nhất, con người cần phát triển
khả năng nhận thức của mình, tìm kiếm những phương thức, qua đó đi tới sự tự
nhận thức; Thứ hai, con người cần tích lũy những cơ sở cần thiết cho sự tự nhận
thức của bản thân, tức là sự tích lũy để mình trở thành ai. Trong quá trình đó cá
nhân không ngừng phát triển sự tự nhận thức; Thứ ba, bất kì những kiến thức
nào mà cá nhân nhận được cũng đều có thể là nhân tố để thay đổi bản thân, nhận
biết về bản thân mình và để trở thành một người khác. Do vậy, nhiệm vụ của tự


16


nhận thức luôn mang tính chủ quan. Đó là con đường dẫn tới sự hoàn thiện, tự
phát triển cá nhân.
Tự nhận thức bắt đầu từ rất sớm của tuổi thơ và khi đó nó đã có những
hình thức và nội dung đặc trưng. Đầu tiên đứa trẻ học cách phân biệt bản thân nó
với thế giới vật chất – hiện tại của đứa trẻ chưa biết cái gì liên quan tới cơ thể
của nó. Sau đó, nó nhận thức bản thân với một tư duy khác – nó là thành viên
của môi trường xã hội vi mô. Trong giai đoạn này, đứa trẻ đã bắt đầu quan sát
các hiện tượng giống nhau. Mặc dù vậy, đứa trẻ vẫn còn khó khăn trong việc
phân biệt nó với những người khác. Đến tuổi vị thành niên, cá nhân bắt đầu nhận
thức về “cái tôi lý tưởng” của mình qua hiểu biết về các đặc điểm tâm lý, tính
cách và các phẩm chất đạo đức cùa bản thân.
Quá trình tự nhận thức là quá trình kích thích mạnh mẽ sự lĩnh hội một
cách tích cực các kinh nghiệm văn hóa của cá nhân. Đối với lứa tuổi vị thành
niên, quá trình này bắt đầu với câu hỏi : “ tôi là ai?”, “ tại sao mình lại không
như vậy?”, “ tôi sẽ cần trở thành người như thế nào?”. Đó là sự nhận thức về cái
tôi lý tưởng và đây chính là bắt đầu của sự hoàn thiện cá nhân [12, tr.968 – 969].
Qua nghiên cứu các tài liệu chúng tôi nhận thấy Nhận thức về bản thân
(hay còn gọi là tự nhận thức) là khả năng bạn nhận biết một cách chính xác về
cảm xúc của mình ngay khi nó xảy ra và hiểu mình có khuynh hướng làm gì
trong tình huống đó. Tự nhận thức bao gồm việc kiểm soát được những phản
ứng thông thường của bản thân đối với những sự việc, thách thức và đối tượng
cụ thể. Hiểu biết thấu đáo về khuynh hướng của bản thân đóng vai trò rất quan
trọng; nó giúp bạn nhanh chóng nắm bắt được cảm xúc của mình. Khả năng tự
nhận thức tốt đòi hỏi bạn sẵn sàng chịu đựng sự khó chịu khi phải chú ý đến
những cảm xúc đôi khi tiêu cực.
Cách duy nhất để thấu hiểu cảm xúc của mình là dành một khoảng thời
gian cần thiết để suy nghĩ về chúng, nhằm tìm ra nguồn cơn và tại sao chúng lại
xuất hiện. Cảm xúc bao giờ cũng có lý do của nó. Bởi cảm xúc phản ánh những
trải nghiệm trong cuộc sống của bạn, và chúng luôn bắt nguồn từ một nguyên do



×