Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

thiết kế trò chơi kể chuyện theo tranh nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.58 MB, 151 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thanh Trúc

THIẾT KẾ TRÒ CHƠI
KỂ CHUYỆN THEO TRANH NHẰM PHÁT TRIỂN
LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thanh Trúc

THIẾT KẾ TRÒ CHƠI
KỂ CHUYỆN THEO TRANH NHẰM PHÁT TRIỂN
LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

Chuyên ngành
Mã số

: Giáo dục học (Mầm non)
: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Thị Ly Kha
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, phòng Đào tạo, Khoa
Giáo dục Mầm non, Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Quý
thầy cô, đặc biệt là PGS.TS. Nguyễn Thị Ly Kha đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và tập thể giáo viên trường Mầm
non TH – Quận 10 và MN RĐ 10 – Quận 6 đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực
nghiệm tại trường.
Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã động viên,
giúp đỡ cho tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu đề tài này.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2013

HVCH

Nguyễn Thị Thanh Trúc

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5

PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................. 6
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 7
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 8
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8
6. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 8
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8
8. Đóng góp của đề tài ........................................................................................................ 9
9. Bố cục của luận văn ...................................................................................................... 10

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH
LẠC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON ........................................ 11
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 11
1.2. Các khái niệm cơ bản ................................................................................................ 14
1.2.1. Trò chơi ................................................................................................................. 14
1.2.2. Trò chơi kể chuyện theo tranh .............................................................................. 15
1.2.3. Lời nói mạch lạc ................................................................................................... 16
1.3. Kể chuyện theo tranh cho trẻ 5 – 6 tuổi................................................................... 17
1.3.1. Hoạt động kể chuyện cho trẻ mẫu giáo ................................................................ 17
1.3.2. Các hình thức kể chuyện nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ ...................... 18
1.3.3. Kể chuyện theo tranh cho trẻ mẫu giáo ................................................................ 19
1.3.4. Vai trò của trò chơi kể chuyện theo tranh đối với việc phát triển lời nói mạch lạc
cho trẻ 5 - 6 tuổi .............................................................................................................. 20
1.4. Đặc điểm ngôn ngữ nói của trẻ 5 – 6 tuổi ................................................................ 21
1.4.1. Đặc điểm phát triển lời nói mạch lạc của trẻ 5 – 6 tuổi ........................................ 22
1.4.2. Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 trong chương trình GDMN ................... 25
1.5. Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................... 30

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠC

CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON .................................................. 32
2.1. Khái quát về việc điều tra ......................................................................................... 32
2.1.1. Địa bàn điều tra ..................................................................................................... 32
2.1.2. Thời gian điều tra .................................................................................................. 32
2.1.3. Đối tượng và phương pháp điều tra ...................................................................... 32
2.1.4. Nội dung điều tra .................................................................................................. 33
2.1.5. Phương tiện điều tra .............................................................................................. 33
2


2.2. Kết quả điều tra ......................................................................................................... 34
2.2.1. Trình độ chuyên môn và thâm niên công tác của GVMN tham gia trả lời phiếu
trưng cầu ý kiến .............................................................................................................. 34
2.2.2. Thực trạng nhận thức của GVMN về việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6
tuổi .................................................................................................................................. 35
2.2.3. Thực trạng giáo án hướng dẫn trẻ 5 – 6 tuổi phát triển lời nói mạch lạc ............. 40
2.2.4. Thực trạng mức độ sử dụng lời nói mạch lạc của trẻ 5 – 6 tuổi ........................... 41
2.2.5. Thực trạng việc sử dụng trò chơi kể chuyện theo tranh nhằm phát triển lời nói
mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi. ............................................................................................. 44
2.3. Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 49

CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ MỘT SỐ TRÒ CHƠI KỂ CHUYỆN THEO TRANH
NHẰM PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI............... 51
3.1. Căn cứ, nguyên tắc, phương pháp, chất liệu và qui trình thiết kế hệ thống trò
chơi ..................................................................................................................................... 51
3.1.1. Căn cứ ................................................................................................................... 51
3.1.2. Nguyên tắc ............................................................................................................ 52
3.1.3. Phương pháp ......................................................................................................... 54
3.1.4. Chất liệu ................................................................................................................ 54
3.1.5. Quy trình thiết kế trò chơi ..................................................................................... 56

3.2. Các trò chơi được xây dựng...................................................................................... 56
3.2.1. Trò chơi Kể tiếp chuyện ........................................................................................ 56
3.2.2. Trò chơi Thắt nút .................................................................................................. 57
3.2.3. Trò chơi Vòng tròn................................................................................................ 57
3.2.4. Trò chơi Bé thi tài ................................................................................................. 58
3.2.5. Trò chơi Bé làm nghệ sỹ ....................................................................................... 58
3.2.6. Trò chơi Nhanh tay – lẹ mắt – kể hay................................................................... 59
3.2.7. Trò chơi Thử tài của bé ........................................................................................ 59
3.2.8. Trò chơi Những hình ảnh thần kỳ ......................................................................... 60
3.2.9. Trò chơi Cây lớn lên như thế nào? ....................................................................... 60
3.2.10. Trò chơi Câu chuyện “Lô tô”.............................................................................. 61
3.2.11. Trò chơi Đầu tiên – Tiếp theo – Cuối cùng ........................................................ 62
3.2.12. Trò chơi Bé vẽ gì? (Kể chuyện với tranh trẻ vẽ) ................................................ 63
3.2.13. Trò chơi Bé với tranh cát .................................................................................... 64
3.2.14. Trò chơi Đoán xem bạn làm gì? ......................................................................... 64
3.2.15. Trò chơi Xếp tranh minh họa theo thứ tự tác phẩm văn học .............................. 65
3.2.16. Trò chơi Ai giỏi nhất ........................................................................................... 66
3.2.17. Trò chơi Khắc nhập – khắc xuất ......................................................................... 66
3.2.18. Trò chơi Thi xem ai chọn nhanh ......................................................................... 67
3.2.19. Trò chơi 19: Bé lớn lên như thế nào? ................................................................. 68
3.2.20. Trò chơi Sự biến đổi kỳ diệu .............................................................................. 68
3


3.2.21. Trò chơi Tráo đổi ................................................................................................ 69
3.2.22. Trò chơi Bức tranh bí mật ................................................................................... 69
3.3. Độ khó và độ tin cậy của trò chơi ............................................................................. 70
3.3.1. Độ khó ................................................................................................................... 70
3.3.2. Độ tin cậy .............................................................................................................. 71
3.4. Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................... 72


CHƯƠNG 4: THỰC NGHIỆM MỘT SỐ TRÒ CHƠI KỂ CHUYỆN THEO
TRANH NHẰM PHÁT TRIỂN LỜI NÓI MẠCH LẠCCHO TRẺ 5 – 6 TUỔI 73
4.1. Chọn mẫu thực nghiệm ............................................................................................. 73
4.1.1. Phương pháp chọn mẫu ........................................................................................ 73
4.1.2. Mô tả mẫu ............................................................................................................. 79
4.2. Tổ chức thực nghiệm ................................................................................................. 80
4.2.1. Nguyên tắc thực nghiệm ....................................................................................... 80
4.2.2. Quy trình thực nghiệm .......................................................................................... 80
4.2.3. Phương pháp thực nghiệm .................................................................................... 80
4.3. Kết quả thực nghiệm và bàn luận về kết quả ......................................................... 80
4.3.1. Về thái độ .............................................................................................................. 81
4.3.2. Về sự phát triển lời nói mạch lạc .......................................................................... 81
4.4. Tiểu kết chương 4 ...................................................................................................... 88

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 90
KIẾN NGHỊ ............................................................................................................... 92
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .............................................................................................................. 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 95
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 99

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LNML

Lời nói mạch lạc


GDMN

Giáo dục Mầm non

GD

Giáo dục

GVMN

Giáo viên Mầm non

MN

Mầm non

BGH

Ban giám hiệu

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

ĐHSPMN

Đại học sư phạm mầm non

CĐSPMN


Cao đẳng sư phạm mầm non

TCSPMN

Trung cấp sư phạm mầm non

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của xã hội loài
người. Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh
kho tàng kiến thức của nhân loại. Ngôn ngữ có nhiệm vụ đặc biệt trong việc tiếp thu kiến
thức nói riêng và giáo dục (GD) trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện nói
chung. Vì vậy, việc rèn luyện, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là hết sức quan trọng và phải bắt
đầu từ rất sớm, ngay từ lứa tuổi mầm non (MN).
Do trẻ MN chưa biết đọc, biết viết, nên nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ bao gồm:
phát triển ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; phát triển lời nói mạch lạc (LNML); chuẩn bị cho trẻ
học đọc, học viết; cảm nhận ngôn ngữ nghệ thuật, GD văn hóa giao tiếp. Trong đó, việc
phát triển LNML có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Phát triển LNML là sự thực hiện tổng hợp
toàn bộ nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường MN, làm phong phú đời sống tinh
thần của trẻ, đáp ứng nhu cầu giao tiếp của trẻ với mọi người xung quanh. Việc phát triển
LNML tạo điều kiện để phát triển tư duy cho trẻ; giúp trẻ tự tin, thoải mái tham gia vào các
hoạt động và chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông.
Chuẩn bị vào trường phổ thông là một giai đoạn quan trọng với trẻ MN, đặc biệt là trẻ
5 – 6 tuổi. Ở độ tuổi này, yêu cầu đối với trẻ không chỉ dừng lại ở việc phát triển vốn từ, câu
mà bắt buộc trẻ phải nói mạch lạc. Do đó, trẻ phải hiểu và biết sử dụng từ để thể hiện suy
nghĩ, tiếp nhận thông tin từ người khác một cách rõ ràng, chính xác. Trẻ phải có kỹ năng
trình bày đúng, có logic, có trình tự, có hình ảnh một nội dung nhất định. Đồng thời, để trẻ

có thể học tốt ở phổ thông thì yêu cầu trẻ phải có khả năng sử dụng ngôn ngữ vào các mục
đích khác nhau như: nhận thức, giao tiếp, điều khiển, điểu chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp với chuẩn mực của tập thể, giao lưu tình cảm với bạn bè, tổ chức các hoạt động. Vì vậy,
phát triển LNML là mục đích cuối cùng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, là sự tổng hợp
toàn bộ nội dung phát triển cho trẻ trước tuổi học. Phát triển LNML tạo cơ sở cho trẻ học
tập ở trường phổ thông, đặc biệt là môn tiếng Việt.
Trong các hoạt động ở trường MN, có nhiều hình thức để phát triển LNML cho trẻ
như: kể chuyện theo tranh, kể chuyện với đồ chơi, kể lại chuyện văn học, kể chuyện theo
kinh nghiệm, kể chuyện sáng tạo. Trong đó, kể chuyện theo tranh là dạng hoạt động phù
hợp với trẻ vì trẻ rất thích xem tranh, nhất là những bức tranh có nội dung gần gũi với cuộc
sống; những ký hiệu màu sắc, hình ảnh sinh động phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ.
Thêm vào đó, vui chơi lại là hoạt động chủ đạo và là phương tiện GD toàn diện cho trẻ. Do
đó, trò chơi kể chuyện theo tranh là dạng hoạt động phù hợp để phát triển LNML cho trẻ 5 6 tuổi. Thực tế cho thấy trò chơi kể chuyện theo tranh không chỉ dừng lại ở 5 - 6 tuổi mà
6


còn tiếp tục ở các bậc học tiếp theo, đặc biệt là tiểu học. Bởi vì trò chơi kể chuyện theo
tranh tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngôn ngữ nói chung và LNML nói riêng.
Khi tham gia chơi trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm, kiến thức một cách tự nguyện, tự nhiên,
nhẹ nhàng và vô cùng hứng thú. Trên hết, trẻ còn được quan sát, nhận xét các hình ảnh
trong tranh, mối quan hệ giữa những hình ảnh, giao tiếp với mọi người xung quanh, nói lên
suy nghĩ của mình, diễn đạt cho người khác hiểu nội dung câu chuyện theo tranh có logic,
trình tự.
Thấy được ý nghĩa chủ đạo của trò chơi trong quá trình dạy học lứa tuổi MN nên các
nhà GD ngày càng sử dụng rộng rãi trò chơi như là một phương tiện tác động toàn diện đến
trẻ. Tuy nhiên, đa số các công trình nghiên cứu tại Việt Nam lại ứng dụng trò chơi vào mục
đích phát triển trí tuệ của trẻ. Chúng ta vẫn còn rất ít sử dụng những trò chơi ngôn ngữ nói
chung và trò chơi kể chuyện theo tranh nói riêng để phát triển LNML cho trẻ.
Thực tiễn cho thấy, trẻ MN đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi, hiện tượng trẻ nói “câu què, câu
cụt” khá phổ biến. Cùng với việc du nhập và phát triển của xã hội, các chương trình giải trí,

phim ảnh, âm nhạc, sách truyện hoặc từ chính cha mẹ, việc trẻ “nói bậy, nói tục” cũng là
vấn đế rất đáng lo ngại. Bên cạnh đó còn là hàng loạt những lỗi sai như: dùng từ trùng lặp,
dài dòng; sắp xếp từ không chính xác; dùng từ không hợp với nghĩa, kết hợp từ sai… dẫn
đến hệ quả là gây hiểu sai, hiểu nhầm, khó hiểu. Thế nên, việc phát triển LNML cho trẻ là
rất cần thiết.
Tại các trường MN hiện nay, giáo viên mầm non (GVMN) cũng đã chú ý đến việc
phát triển LNML cho trẻ. Tuy nhiên, do nhiều lí do khách quan và chủ quan, vấn đề này vẫn
chưa được quan tâm đúng mức.
Chính vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng GDMN nói chung và hiệu quả của việc
phát triển LNML nói riêng, chúng tôi chọn đề tài: Thiết kế trò chơi kể chuyện theo tranh
nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thiết kế trò chơi kể chuyện theo tranh để phát triển LNML cho trẻ 5 – 6
tuổi.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã đặt ra, người nghiên cứu tiến hành thực hiện các nhiệm vụ
sau:
− Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi.
− Tìm hiểu thực trạng của việc phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi ở một số trường
MN tại TP.HCM.
− Thiết kế trò chơi kể chuyện theo tranh nhằm phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi.
7


− Thực nghiệm một số trò chơi tiêu biểu từ hệ thống đã xây dựng.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi ở trường

MN.
Đối tượng nghiên cứu: trò chơi kể chuyện theo tranh nhằm phát triển LNML cho trẻ 5
– 6 tuổi trường MN.

5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Giới hạn nghiên cứu: vì điều kiện nghiên cứu hạn chế, đề tài chỉ nghiên cứu việc thiết kế
22 trò chơi kể chuyện nhằm phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi.
Phạm vi nghiên cứu: vì điều kiện nghiên cứu hạn chế nên chúng tôi chỉ tập trung:
khảo sát thực trạng trên 104 GVMN trên địa bàn TP. HCM, thực nghiệm trên 94 trẻ của
hai trường là MN RĐ 10 – Quận 6 và MN TH – Quận 10.

6. Giả thuyết nghiên cứu
Chúng tôi giả định rằng nếu GVMN biết sử dụng các trò chơi kể chuyện theo tranh
nhằm phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi thì hiệu quả của việc phát triển LNML cho trẻ 5 –
6 tuổi sẽ cao hơn.

7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, và đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng
các phương pháp chủ yếu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Chúng tôi thu thập, đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu nhằm tìm hiểu
cơ sở lý luận của việc phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường MN. Các tài liệu bao
gồm: các tài liệu có liên quan đến LNML của trẻ, các tài liệu có liên quan đến trò chơi
ngôn ngữ, hoạt động kể chuyện theo tranh, chương trình GDMN mới, kế hoạch GD của
GVMN, các giáo án phát triển LNML cho trẻ v.v..
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra
Điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn, quan sát để đưa ra những giả thuyết đúng đắn cho
đề tài.


− Phương pháp sử dụng bảng hỏi: Phương pháp này được sử dụng để có hướng nhìn
tổng quan về việc sử dụng các trò chơi kể chuyện theo tranh phát triển LNML cho trẻ ở
trường MN hiện nay; để có những cứ liệu và đưa ra nhận định về hiểu biết của GVMN về
việc phát triển LNML cũng như những biện pháp, phương pháp mà GV thường sử dụng,
những điều cần lưu ý và một số khó khăn của GV về vấn đề này. Để điều tra ý kiến của GV
8


người nghiên cứu sử dụng bảng hỏi gồm 15 câu dành cho các GVMN đang dạy lớp Lá ở
một số trường MN cả nội thành và ngoại thành trên địa bàn TP.HCM (Phụ lục 1 – trang
116).

− Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Phỏng vấn GVMN nhằm tìm hiểu những khó
khăn của GVMN khi phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi, lắng nghe những đề xuất của họ để
khắc phục những khó khăn này. Phỏng vấn Ban Giám Hiệu (BGH) các trường MN nhằm
tìm hiểu thực trạng của việc phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi và một số đề xuất của BGH
ở vai trò người quản lý, tạo điều kiện cho GVMN có thể phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi
một cách tốt nhất (Phụ lục 2 – trang 121).

− Phương pháp quan sát: Dự giờ 5 giờ học kể chuyện cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường MN
nhằm tìm hiểu xem GVMN phát triển LNML cho trẻ như thế nào, qua đó học tập kinh
nghiệm, đồng thời phát hiện những khó khăn và thuận lợi trong việc phát triển LNML cho
trẻ 5 – 6 tuổi (Phụ lục 6 – trang 151).
7.2.2. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là một phương pháp quan trọng trong đề tài nhằm đánh giá hiệu quả của
việc vận dụng một số trò chơi tiêu biểu từ hệ thống trò chơi kể chuyện theo tranh đã xây
dựng. Thông qua quá trình thực nghiệm có thể thấy được những ưu khuyết điểm của các trò
chơi để từ đó phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế giúp cho hệ thống trò chơi
ngày càng được hoàn thiện hơn.
7 trò chơi tiêu biểu được thiết kế với các chất liệu khác nhau từ hệ thống sẽ được thực

nghiệm trên 94 trẻ tại trường MN RĐ 10 – Quận 6 và trường MN TH – Quận 10, TP HCM.
Đều đặn sau 5 – 6 tuần thực nghiệm, chúng tôi sẽ tiến hành đánh giá mức độ LNML của trẻ
nhằm có những dữ liệu để so sánh, đối chứng; đánh giá hiệu quả và điều chỉnh kịp thời
những thiếu sót của hệ thống trò chơi. Đồng thời, trước khi sử dụng các trò chơi, chúng tôi
có tiến hành xem xét về độ khó, độ tin cậy của các trò chơi trên trẻ để bảo đảm các bài tập
này nằm trong giới hạn cho phép.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Các dữ liệu thu thập được sẽ là một trong những căn cứ để đánh giá mức độ thành
công của hệ thống trò chơi. Sau khi thu thập tất cả dữ liệu, chúng tôi tiến hành xử lí số liệu
trung bình, tính tỉ lệ %, độ lệch chuẩn, và tiến hành kiểm nghiệm giả thiết trên phần mềm
SPSS. Để tính độ tin cậy, độ khó của các trò chơi, người nghiên cứu sử dụng phần mềm
Excel để nhập liệu, sau đó sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu thu được.

8. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã xác định và hệ thống hoá cơ sở lý luận của việc phát triển LNML cho trẻ 5 6 tuổi, đồng thời làm rõ thực trạng phát triển LNML cho trẻ thông qua kể chuyện theo tranh.

9


Qua đó, thiết kế 22 trò chơi kể chuyện theo tranh với các vật liệu đa dạng, hấp dẫn và thực
nghiệm 7 trò chơi tiêu biểu từ hệ thống đã xây dựng.

9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có bốn chương: chương 1. Cơ sở lí
luận của việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non; chương 2.
Thực trạng của việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non;
chương 3. Thiết kế trò chơi kể chuyện theo tranh; chương 4. Thực nghiệm một số trò
chơi.
Bên cạnh các trang chính, luận văn còn có các trang phụ lục gồm các nhóm khác nhau
như: phiếu thăm dò ý kiến, câu hỏi phỏng vấn, giáo án thực nghiệm, 6 câu chuyện, 6 bộ

tranh, một số hình ảnh thực nghiệm, nhật ký thực nghiệm, bảng kết quả nhóm đối chứng nhóm thực nghiệm trước và sau thực nghiệm, CD trò chơi và hình ảnh toàn bộ quá trình
thực nghiệm v.v..

10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN LỜI NÓI
MẠCH LẠC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, vấn đề phát triển ngôn ngữ đã được các nhà sư phạm trên thế giới và trong
nước đặc biệt quan tâm. Song mỗi tác giả nghiên cứu ở các lứa tuổi và dưới góc độ khác
nhau.
Trên thế giới, các nhà GD đã bắt đầu quan tâm, nghiên cứu về việc phát triển ngôn ngữ
từ rất sớm. Nghiên cứu của các nhà tâm lý học về chức năng, vai trò của ngôn ngữ trong
phát triển và GD do các tác giả như: L.X. Vưgôtxki, E.I Tikheeva, Piaget, K.D. Usinxki,
Ph.A. Sôkhin, V.V. Mukhina… đều nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tư
duy của trẻ. Theo Vưgốtxki: Ngôn ngữ là vô cùng quan trọng trong sự phát triển tư duy.
Nhờ có ngôn ngữ con người mới tư duy bậc cao, làm quen với ngôn ngữ là thành tựu lớn
nhất trong sự phát triển của trẻ em [14, tr.1]. Khác với những tư tưởng đó, các tác giả như
như: A.M Leusina, E.I. Tikhêeva, Ph.A. Xôkhina, L.P. Phêdôencô, Kak – Hainơdich… lại
quan tâm đến đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ trước tuổi học. Các đặc điểm về vốn từ,
ngữ âm, ngữ pháp, LNML theo từng lứa tuổi đã được các tác giả quan tâm ngiên cứu. A.M.
Leusina khi nghiên cứu về sự phát triển LNML cho trẻ mẫu giáo đã kết luận: Không phải từ
mà là câu, và ngôn ngữ mạch lạc là đơn vị của ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Bà
chỉ ra rằng, việc phát triển LNML đóng vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển ngôn ngữ
cho trẻ suốt thời kỳ mẫu giáo. Mặt khác, tính hoàn cảnh trong truyện kể thể hiện rõ nét nhất
khi trẻ kể về những trải nghiệm của mình. Trẻ càng lớn, tính hoàn cảnh của ngôn ngữ giảm
dần đi. Sự chuyển sang hình thức nói mạch lạc gắn chặt với sự lĩnh hội vốn từ, lĩnh hội hệ
thống ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ [50, tr.7]. Đồng quan điểm với A.M. Leusina, tác giả Ph.A.
Xôkhina cho rằng các biện pháp dạy trẻ kể chuyện, kể lại tác phẩm văn học, kể chuyện theo

tranh, theo đồ chơi, theo kinh nghiệm, kể chuyện sáng tạo có tác dụng phát triển LNML ở
trẻ [49, tr.7]. Thời hiện đại, vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ tiếp tục được đề cập trong
nhiều công trình nghiên cứu của một số nhà khoa học như Ch.M. Akxarina, V.V. Sepirencô,
M.M. Kônxôva, M.N. Popova, V.I. Iadenco v.v.. Tất cả những công trình trên đã giúp người
nghiên cứu và những người quan tâm hiểu thêm về chức năng của ngôn ngữ và các đặc
điểm phát triển về vốn từ, ngữ âm, ngữ pháp, LNML của trẻ.
Trong nước, các nhà sư phạm như: Nguyễn Xuân Khoa, Nguyễn Thị Oanh, Hoàng Thị
Oanh, Hồ Lam Hồng, Lê Thị Ánh Tuyết, Cao Đức Tiến, Đinh Hồng Thái, Nguyễn Thị
Phương Nga, Hà Nguyễn Kim Giang, Phan Thiều, Nguyễn Huy Cẩn, Trần Thị Mai, Lưu
Thị Lan… với những bài nghiên cứu, bài viết cũng rất chú trọng đến việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Đó chính là những tài liệu hữu ích, gần gũi, dễ hiểu tạo cơ sở cho người nghiên
11


cứu thiết kế hệ thống trò chơi phù hợp cho trẻ.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa với tác phẩm Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo xuất bản năm 1997 đã đề cập một cách toàn diện, các vấn đề khoa học và thực tiễn
của tiếng Việt đang thực hiện ở các lớp nhà trẻ, mẫu giáo lúc bấy giờ. Tác giả đã nêu bật
những nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ như: dạy trẻ nghe và phát âm đúng, phương
pháp phát triển từ ngữ, phương pháp dạy trẻ đặt câu, phương pháp phát triển LNML, cho trẻ
làm quen với văn chương, chuẩn bị cho trẻ học đọc viết. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra các
giáo án về phương pháp phát triển tiếng, cách dạy tiếng nước ngoài cho trẻ, các hướng
nghiên cứu khoa học dành cho GV. Trong khi đó, một số tác phẩm như: Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi của nhóm tác giả Hoàng Thị Oanh, Phạm Thị Việt,
Nguyễn Kim Đức; Lý luận và phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non của tác
giả Nguyễn Thị Phương Nga, Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non của tác
giả Đinh Hồng Thái đã tập hợp những tài liệu mới và xác định những nhiệm vụ cơ bản như:
luyện phát âm, phát triển vốn từ, nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, chuẩn bị
cho trẻ vào trường phổ thông, kèm theo đó là các phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức
một cách cụ thể, rõ ràng. Chính vì vậy, những tài liệu trên đối với người nghiên cứu là

những chỉ dẫn quý báu về lý thuyết và thực hành giúp chúng tôi xác định nguyên tắc, lựa
chọn nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp phù hợp để phát triển LNML cho trẻ.
Một vài công trình nghiên cứu đã đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng bài tập, trò chơi
như một hình thức dạy học, nhằm phát triển ngôn ngữ ở trẻ. Trong số đó phải kể đến Tuyển
tập bài tập trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo của tác giả Nguyễn Thị Phương
Nga đã cung cấp cho GV một số lượng không nhỏ các trò chơi. Tuy nhiên, do trải đều tất cả
các nội dung phát triển ngôn ngữ như: phát triển chú ý thính giác, phát triển thính giác ngôn
ngữ, phát triển thính giác âm vị, luyện cơ quan phát âm, luyện thở, luyện phát âm, phát triển
vốn từ, làm quen với chữ cái v.v.. nên phần trò chơi phục vụ cho việc phát triển LNML còn
hạn chế. Bên cạnh đó, tác phẩm Bài tập phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi của tác
giả Nguyễn Thị Oanh cũng đã thiết kế các bài tập phát triển LNML rõ ràng, dễ hiểu. Mặc dù
vậy, các bài tập lại chi tiết qua hai phần là phát triển LNML trong câu và trong đoạn nên
những bài tập phát triển LNML cho trẻ trong đoạn nói chung và bài tập kể chuyện theo
tranh nói riêng còn rất hạn chế. Tác giả lại chú trọng luyện tập kỹ năng trong các bài tập cụ
thể nên việc thực hiện có phần nặng nề, trẻ không được vừa chơi vừa tập tự do, tự nguyện
nên hạn chế sự tự nhiên và hứng thú. Tuy cả hai công trình đều chú trọng xây dựng bài tập trò chơi nhưng việc cung cấp phương tiện để GV thực hiện, cũng như áp dụng các phương
tiện dạy học hiện đại để tăng hứng thú cho trẻ còn rất hạn chế.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, liên quan trực đến vấn đề đang được bàn tới, ở Việt Nam
cho tới nay, mới chỉ có một số luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục (giáo dục mầm non).
12


Chẳng hạn, luận văn Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi kể chuyện với đồ chơi
nhằm phát triển lời nói mạch lạc của Vũ Thị Hương Giang 1; Một số biện pháp hướng dẫn
F
0

trò chơi đóng kịch nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi của Hoàng
Thị Phương 2; Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi hiểu từ của Đỗ Thị Xuyến 3;
F

1

F
2

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua kể chuyện sáng
tạo của Hoàng Thị Hồng Mát 4; Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi kể chuyện
3F

theo tranh của Phạm Thị Hồng Yến 5; Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
4F

trẻ 5 – 6 tuổi thông qua kể chuyện theo tranh của Nguyễn Thị Xuân 6 v.v.. Có thể nói các
5F

công trình đã trình bày khá đầy đủ, sáng rõ các khái niệm có liên quan đến đề tài nghiên
cứu; đồng thời cụ thể hóa các cơ sở lý luận có liên quan như: đặc điểm phát triển ngôn ngữ
của MN, đặc điểm LNML của trẻ, biểu hiện LNML của trẻ 5 – 6 tuổi, các yếu tố ảnh hưởng
đến việc phát triển LNML cho trẻ. Đây chính là những tài liệu bổ ích, làm cơ sở giúp chúng
tôi tìm hiểu cơ sở lý luận cho đề tài. Tuy nhiên, đa số các công trình đều đưa ra các biện
pháp khá chung chung, chưa có những diễn giải, những chỉ dẫn cần yếu để giúp người quan
tâm có thể vận dụng một cách hữu hiệu. Chẳng hạn, công trình Một số biện pháp dạy trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi kể chuyện với đồ chơi nhằm phát triển lời nói mạch lạc, tác giả đưa ra
các biện pháp như: sử dụng lời kể mẫu, tạo ra các tình huống có vấn đề, trẻ kể chuyện theo
dàn ý của cô, xây dựng môi trường đồ chơi theo chủ điểm, trẻ lựa chọn đồ chơi và kể
chuyện theo ý mình nhưng chưa xây dựng đa dạng phương tiện (cụ thể là các loại đồ chơi),
chưa có những chỉ dẫn chi tiết và cũng chưa chỉ ra những điều cần lưu ý để GVMN vận
dụng một cách tốt nhất. Hay công trình Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ 5 – 6 tuổi thông qua kể chuyện sáng tạo cũng đưa ra một số biện pháp như: kể kết thúc
đoạn, kể chuyện theo dàn ý, cô và trẻ cùng sáng tác chuyện, sáng tác chuyện tập thể, sáng

tác một câu chuyện theo đề tài cô đưa ra (không có dàn ý). Nếu vậy sẽ khó khăn không ít
cho GVMN – những người trực tiếp dạy trẻ thực hiện. Bởi vì các biện pháp đưa ra đều
chung chung, chưa đưa vào từng chủ đề cụ thể ở trường MN, chưa có phương tiện, phương
pháp tiến hành để GVMN có thể
sử dụng.
Trong số đó thì công trình Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5 –
6 tuổi thông qua kể chuyện theo tranh (Nguyễn Thị Xuân) được xem như chỉ dẫn quý báu
về mặt lý thuyết để người nghiên cứu xác định nguyên tắc, lựa chọn biện pháp phối hợp để
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại ở việc đưa ra
ba biện pháp kể chuyện theo tranh nhằm phát triển LNML cho trẻ đó là: cô và trẻ cùng kể
PGS.TS Đinh Hồng Thái hướng dẫn.
PGS.TS Đinh Hồng Thái hướng dẫn.
3
PGS.TS Đinh Hồng Thái hướng dẫn.
4
PGS.TS Đinh Hồng Thái hướng dẫn.
5
PGS.TS Hà Nguyễn Kim Giang hướng dẫn.
6
PGS.TS Lê Thị Ánh Tuyết hướng dẫn.
1
2

13


chuyện theo tranh, sáng tác chuyện theo tranh dựa trên kể mẫu của cô, trẻ kể một câu
chuyện theo nội dung bức tranh mà trẻ vẽ. Như vậy, theo người nghiên cứu là quá ít và tác
giả cũng chưa đi sâu làm rõ cách thức, phương tiện thực hiện cụ thể để GVMN có thể tiến
hành một cách dễ dàng, hiệu quả nhằm phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi. Hơn nữa, do

mục đích của đề tài là biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua kể chuyện theo
tranh, nên việc thiết kế trò chơi, tác giả Nguyễn Thị Xuân chưa có dịp đề cập đến.
Thành thử, có thể nói rằng cho đến nay, chưa có công trình nào bàn đến việc thiết kế
các trò chơi kể chuyện theo tranh cụ thể, chi tiết và kèm theo các phương tiện đặc sắc, hiện
đại để GVMN dễ dàng thực hiện, phát huy tính tích cực ở trẻ góp phần nâng cao hiệu quả
của việc phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi. Mặc dù, hiện nay, với những ứng dụng to lớn
mà công nghệ thông tin mang lại, GVMN hoàn toàn có thể thực hiện được những việc này.
Đấy cũng chính là lí do khiến chúng tôi chọn đề tài Thiết kế trò chơi kể chuyện theo tranh
nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi làm luận văn nghiên cứu.

1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Trò chơi
Chơi là một hoạt động độc đáo của con người. Chơi vừa là phương tiện phát triển toàn
diện nhân cách trẻ. Chơi là hoạt động yêu thích, không thể thiếu của trẻ MN có hình thức cụ
thể là trò chơi. Trò chơi của trẻ rất đa dạng về nội dung và
hình thức.
“Chơi”, “Trò chơi” là một từ đa nghĩa trong tiếng Việt cũng như trong nhiều thứ tiếng
khác trên thế giới. Có rất nhiều định nghĩa về trò chơi và mỗi tác giả lại đề cập trên những
khía cạnh khác nhau.
Trong cuốn sách kinh điển “Tâm lý học trò chơi”, tác giả - tiến sỹ tâm lý học lỗi lạc
người Nga Đ.B. Elcônhin (1904 – 1984) đã dành những trang đầu tiên để giới thiệu sự
phong phú về nghĩa của từ “chơi”. Chơi có nghĩa là giải trí – vui chơi, cũng có nghĩa là sử
dụng nhạc cụ - chơi đàn. Từ “chơi” còn được dùng với nghĩa bóng là “trò đùa của số phận”,
“trò đùa của thiên nhiên”. Tương tự như tác giả Đ.B. Elcônhin, trong từ điển “Webster’s
New World Dictionary” (1972) đã đưa tra 59 định nghĩa cho từ “Play”, trong đó có chơi
đóng kịch, chơi đàn, chơi chữ, chạy chơi lòng vòng v.v..
Tại Việt Nam, trong từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê, từ “chơi” được xác định
với sáu nghĩa cơ bản là: hoạt động giải trí (dạo chơi); dùng làm thú vui, tiêu khiển (chơi
tem); có quan hệ thân thiết cùng chung thú vui (chơi với nhau); hoạt động chỉ nhằm vui
không nhằm mục đích gì khác (trẻ con chơi đùa); chỉ trẻ em khỏe không ốm (trẻ chịu chơi,

không quấy); hành động gây hại cho người khác xem như trò vui (chơi khăm) [14, tr.7].
Như vậy, không thể làm việc với trẻ mà không hiểu “việc chơi” của trẻ với hình thức
cụ thể là trò chơi. Cũng như “chơi”, “trò chơi” được nghiên cứu theo các góc độ chuyên
14


môn khác nhau.
Dưới góc độ sinh lý học, các tác giả khẳng định, cơ sở trò chơi xuất phát từ nhu cầu
sinh vật thuộc về bản năng, ý hướng và nguyện vọng của trẻ. Nghĩa là đứa trẻ nào sinh ra
cũng có nhu cầu chơi để thỏa mãn các nhu cầu sinh lý, nhu cầu tinh thần và nhu cầu sáng
tạo của chúng. Các tác giả như K.Grooss, CKôll cho rằng chơi là một bản năng, chơi là sự
giải tỏa năng lượng dư thừa và trò chơi của trẻ em giống như trò chơi của động vật, trò chơi
là sự chuẩn bị vô thức giúp đứa trẻ thích nghi dần với cuộc sống. Vì vậy, các nhà tâm lý –
giáo dục học theo trường phái này phủ nhận ảnh hưởng của môi trường đến nội dung trò
chơi của trẻ. Hay S. Freud – một đại biểu xuất sắc của trường phái phân tâm học lại khẳng
định trẻ em không có khả năng lao động trong thực tế thì thay thế vai trò thực tế này bằng
trò chơi. Trò chơi là những giấc mơ, mộng ảo, chơi mang tính vô thức và chơi chính là
phương tiện, con đường duy nhất giúp trẻ bù đắp các thiếu hụt của mình và để trả thù những
người xung quanh luôn cấm đoán trẻ [32, tr.29].
Không đồng tình với quan điểm trên, các nhà tâm lý học, giáo dục học Macxít lại cho
rằng trò chơi là một dạng hoạt động mang tính chất xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý bên
trong của trẻ. Trong các công trình nghiên cứu của L.V. Vưgôtxki, A.N. Lêonchev, A.P.
Uxôva… các tác giả khẳng định chơi không phải là ngẫu nhiên mà chơi là sản phẩm sáng tạo
của trẻ dưới ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xung quanh. Thông qua chơi trẻ lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử xã hội và trò chơi trở thành phương tiện GD khi có sự hướng dẫn sư phạm
đúng đắn [32, tr.30]. Rosemary P. – nhà tâm lý học người Úc cũng khẳng định: Trò chơi là
phương tiện mà nhờ đó trẻ có thể tùy ý lựa chọn, đưa ra các câu hỏi, chia sẻ suy nghĩ với
người khác, tự giải quyết và đưa ra những ý tưởng dựa trên những hiểu biết của bản thân.
Cũng như Rosemary P., M.C. Pugmire – Stoy cho rằng: “Chơi là công việc đầy háo hức theo
sự nỗ lực cả về thể chất và tinh thần để có được cảm giác thỏa mãn. Người chơi kiểm soát

được hành động của mình”.
Đồng quan điểm với nhà tâm lý học người Úc Rosemary P. , chúng tôi cho rằng: Trò
chơi là phương tiện mà nhờ đó trẻ có thể tùy ý lựa chọn, đưa ra các câu hỏi, chia sẻ suy
nghĩ với người khác, tự giải quyết và đưa ra những ý tưởng dựa trên những hiểu biết của
bản thân.
1.2.2. Trò chơi kể chuyện theo tranh
Phát triển LNML là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các nhiệm vụ phát triển lời nói
trẻ em. Để phát triển LNML cho trẻ có thể thông qua các hình thức khác nhau, trong đó
dạy trẻ kể chuyện theo tranh là một trong những hình thức mà trẻ đặc biệt yêu thích.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Khoa thì kể chuyện là thuật về một sự kiện miêu tả một đối
tượng hoặc sáng tạo ra một câu chuyện nào đó. Để kể chuyện, trẻ phải tự chọn nội dung và
hình thức ngôn ngữ. Trong kể chuyện thể hiện chủ yếu là kinh nghiệm, tình cảm của trẻ.
15


Có rất nhiều hình thức để dạy trẻ kể chuyện như: kể chuyện theo tranh, kể chuyện theo
đồ chơi, kể lại truyện văn học, kể chuyện theo kinh nghiệm, kể chuyện sáng tạo. Trong đó,
kể chuyện theo tranh là dạng hoạt động phù hợp với trẻ 5 – 6 tuổi vì trẻ rất thích xem tranh.
Tranh được sử dụng rộng rãi, phổ biến đặc biệt là những bộ tranh có chủ đề. Kể chuyện theo
tranh có chủ đề được các nhà GD xem như con đường phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Cơ sở để trẻ dựa vào để kể chuyện đó là một bức tranh hay một số bức tranh liên hoàn theo
một chủ đề nào đó, chẳng hạn ngày chủ nhật ở nhà, người thân yêu nhất trong gia đình, mùa
xuân v.v. [36, tr. 94].
Khi kể chuyện theo tranh trẻ phải quan sát, nhận xét các hình ảnh, các mối quan hệ
giữa các hình ảnh để hiểu nội dung bức tranh. Sau đó, trẻ sẽ xây dựng câu chuyện logic,
trình tự theo tranh. Vì vậy, kể chuyện theo tranh là dạy trẻ kể một câu chuyện có nội dung
theo tranh dưới hình thức một ngôn bản hoàn chỉnh [48, tr. 38].
Từ khái niệm “trò chơi” và “kể chuyện theo tranh” ở trên, chúng tôi hiểu khái niệm trò
chơi kể chuyện theo tranh như sau: Trò chơi kể chuyện theo tranh là hình thức mà nhờ đó
giáo viên có thể dạy trẻ kể một câu chuyện có nội dung theo tranh một cách tự do, tự

nguyện, hứng thú dựa trên những hiểu biết của trẻ.
1.2.3. Lời nói mạch lạc
Các nhà sư phạm nêu ra các định nghĩa về LNML của trẻ em có những điểm giống và
khác nhau. Xô-khin – nhà sư phạm Nga định nghĩa: “LNML được hiểu là sự diễn đạt mở
rộng một nội dung xác định, được thực hiện một cách logic, tuần tự, chính xác, đúng ngữ
pháp và có tính biểu cảm [36, tr. 86].
Theo Nguyễn Xuân Khoa thì tính mạch lạc trong lời nói của trẻ thể hiện ở mối quan hệ
chặt chẽ của sự liên kết nội dung và liên kết hình thức. Ông cho rằng: “Nắm vững LNML,
không có được, nếu không phát triển khả năng tách biệt các thành tố của nó như câu, từ…”.
Theo ông, tồn tại hai kiểu LNML là đối thoại và độc thoại. Đối thoại là nói chuyện giữa một
số người, không ít hơn hai. Mục đích của đối thoại là hỏi về cái gì đó và đòi hỏi trả lời. Còn
độc thoại là LNML của một người. Mục đích của độc thoại là thông báo về những sự kiện
nào đó [20, tr.53].
Theo nhóm tác giả Hoàng Thị Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức thì ngôn ngữ
mạch lạc là ngôn ngữ được trình bày có logic, có trình tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có
hình ảnh [30, tr.89].
Phê phán một số quan điểm sai về bản chất của LNML, tác giả Đinh Hồng Thái nhấn
mạnh, LNML đúng về mặt lý thuyết ngôn ngữ là vấn đề của ngữ pháp văn bản. Nó không
thuộc về ngữ âm, từ vựng hay cú pháp. Rèn luyện khả năng nói mạch lạc cho trẻ tức là giúp
trẻ sử dụng đơn vị giao tiếp ngôn ngữ ở cấp độ hoàn chỉnh nhất. Ông cho rằng LNML
không tách rời thế giới tư duy. Sự mạch lạc của lời nói chính là sự mạch lạc của tư duy.
16


LNML phản ánh logic tư duy của trẻ, kỹ năng suy nghĩ về cái tiếp nhận được và phản ánh
nó một cách đúng đắn [36, tr. 86 – 87].
Theo tác giả Nguyễn Thị Phương Nga thì phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát
triển ở trẻ khả năng nghe hiểu ngôn ngữ của người khác, khả năng biết trình bày, thể hiện sự
hiểu biết, suy nghĩ, ý muốn, nguyện vọng… của mình cho người khác biết một cách có trình
tự, có logic, có nội dung, đúng và biểu cảm [26, tr. 100].

Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện một trình độ phát triển tương đối cao không những về
phương diện ngôn ngữ mà cả về phương diện tư duy của trẻ. Do cuộc sống đòi hỏi trẻ phải
xây dựng cho mình một kiểu ngôn ngữ mang tính rõ ràng, khúc chiết, chặt chẽ theo một
trình tự nhất định (có mở đầu, nội dung và kết thúc) để người khác có thể hiểu. LNML của
trẻ mẫu giáo xuất hiện do nhu cầu trẻ muốn mô tả lại cho người khác nghe những gì trẻ thấy
mà không thể dựa vào những tình huống cụ thể trước mắt. Vì vậy, trẻ phải cố gắng diễn đạt
suy nghĩ của mình một cách rõ ràng theo đúng trình tự, thể hiện được ý cơ bản và mối liên
hệ giữa các sự vật hiện tượng, nghĩa là trẻ phải nắm được kỹ năng diễn đạt mạch lạc ý nghĩ
của mình (Nguyễn Ánh Tuyết 1994).
Đồng quan điểm với các tác giả trên, theo người nghiên cứu phát triển lời nói mạch
lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ; khả năng trình bày có logic, trình
tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có hình ảnh một nội dung nhất định.

1.3. Kể chuyện theo tranh cho trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.1. Hoạt động kể chuyện cho trẻ mẫu giáo
Kể chuyện là một hình thức hoạt động ngôn ngữ độc thoại của trẻ. Trong hoạt động
này, trẻ phải lựa chọn ý tưởng, nội dung, hình thức ngôn ngữ để thể hiện. Trẻ sử dụng tất cả
khả năng của mình (vốn từ, cách sử dụng câu, ngữ điệu…) để diễn tả lại sự việc bằng ngôn
ngữ một cách mạch lạc và dễ hiểu.
Đối với trẻ mẫu giáo, dạy trẻ kể chuyện là một hoạt động trong chuyên đề “phương
pháp hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học”. Hoạt động kể chuyện được xem là
phương pháp hiệu quả để phát triển LNML của trẻ. Nhu cầu muốn được kể, được chia sẻ
những câu chuyện, những cảm xúc, tâm tư, tình cảm với mọi người đặc biệt là bạn đồng
trang lứa chính là động lực thúc đẩy trẻ hoạt động một cách tự nguyện và hứng thú.
Để hoạt động kể chuyện diễn ra hiệu quả GV cần cung cấp cho trẻ các “nguyên liệu”
cần thiết đó chính là hệ thống ngôn ngữ và hệ thống kinh nghiệm cuộc sống. Bởi vì trẻ chỉ
kể được truyện khi có ý tưởng. Ý tưởng có thể xuất phát từ nội dung bức tranh, từ một vật
trẻ quan sát, một sự việc trẻ đã trải nghiệm, từ một câu chuyện trẻ đã nghe,… Từ ý tưởng,
trẻ sẽ tự xây dựng nội dung truyện theo trình tự mà người nghe có thể hiểu được. Khả năng
này đã bắt đầu hình thành và phát triển ở trẻ 5 – 6 tuổi.

Đối với trẻ 5 – 6 tuổi, trí nhớ của trẻ phát triển tốt. Trẻ biết gợi nhớ lại những biểu
17


tượng quen thuộc có liên quan đến câu chuyện. Đồng thời trẻ biết liên kết các sự kiện theo
trình tự, chọn lọc từ ngữ thích hợp và sắp xếp chúng một cách liền mạch, ý nghĩa. Các hoạt
động kể chuyện ở trường MN, trẻ không chỉ là nghe kể chuyện mà còn giúp trẻ sử dụng
phương tiện ngôn ngữ, thực hiện các thao tác ngôn ngữ để bộc lộ nội tâm bên trong.
Vì vậy, kể chuyện là hoạt động không thể thiếu đối với trẻ MN. Kể chuyện được xem
như là một hoạt động phát triển toàn diện cho trẻ đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Tuy nhiên,
nếu không được đầu tư và tổ chức nghiêm túc, GV có thể làm mất cơ hội phát triển LNML
cho trẻ. Chính vì thế, tiếp tục nghiên cứu và vận dụng các trò chơi kể chuyện để phát triển
LNML cho trẻ là rất cần thiết.
1.3.2. Các hình thức kể chuyện nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ
Có rất nhiều cách phân chia hình thức kể chuyện, mỗi tác giả đứng trên các góc độ
khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất ở mục tiêu là phát triển ngôn ngữ độc thoại nói
riêng và lời nói mạch lạc nói chung.

 Phân loại theo từng sự việc
Các tác giả như Nguyễn Xuân Khoa (1997), Hà Nguyễn Kim Giang (2008), Huỳnh
Văn Sơn (2012) có các hình thức kể chuyện như: kể chuyện theo đồ chơi, kể chuyện theo
tưởng tượng sáng tạo (kể chuyện theo đối tượng sáng tạo) và kể chuyện theo tranh.
Tác giả A.M. Bôrôđich lại có các cách phân loại hoạt động kể chuyện trên những khía
cạnh hoàn toàn khác.

 Phân loại theo hình thức của lời nói độc thoại
− Kể lại truyện: là trình bày liền mạch một truyện văn học hay thuật lại một câu
truyện đã được nghe.
− Kể chuyện: là sự trình bày bằng miệng các câu liền mạch, cặn kẽ, tỉ mỉ một sự kiện
nào đó.


 Phân loại theo hình thức của truyện
− Kể chuyện miêu tả: là sự trình bày những đặc điểm, đặc trưng của một đồ vật hay
một sự kiện nào đó.
− Kể chuyện theo chủ đề: là sự truyền đạt sự kiện nào đó diễn ra theo trình tự không
gian hay thời gian. Trong truyện chủ đề cần phải có nhân vật và hành động, hoạt động của
nhân vật đó.

 Phân loại theo nội dung truyện
− Kể chuyện thực tế: trẻ kể những điều mắt thấy tai nghe dựa trên tri giác và
− trí nhớ.
− Kể chuyện sáng tạo: trẻ chủ yếu sử dụng tư duy và sự tưởng tượng sáng tạo để tạo
nên một nội dung sự kiện nào đó hay một tình huống diễn tiến mới. Tuy là tưởng tượng,
nhưng những ý tưởng đó vẫn dựa trên vốn kinh nghiệm sẵn có nhờ ghi nhớ và hồi tưởng.
18


 Phân loại theo yếu tố của hoạt động tâm lý tham gia vào quá trình kể chuyện
− Kể chuyện theo tri giác: trẻ miêu tả vật, tranh, sự việc đang quan sát. Trẻ miêu tả
những gì đang quan sát trong thời điểm kể chuyện.
− Kể chuyện theo trí nhớ: bằng ngôn ngữ trẻ diễn tả lại những gì đã quan sát, đã làm (đã
trải nghiệm). Kể về một sự việc đã xảy ra trong cuộc sống, ở trường hay ở gia đình.
− Kể lại truyện (là một dạng của kể chuyện theo trí nhớ): trẻ trình bày lại những câu
chuyện, những truyện văn học đã được nghe cô giáo kể hoặc đọc bằng ngôn ngữ và sự thấu
hiểu của cá nhân.
− Kể chuyện sáng tạo (truyện tự nghĩ ra): trẻ kể lại câu chuyện do trẻ tự nghĩ ra, tự
tưởng tượng thành ý tưởng ở mức độ đơn giản. Có các loại kể chuyện sáng tạo: kể tiếp và
kết thúc câu chuyện của cô giáo, kể chuyện theo tranh (có sự trợ giúp của yếu tố trực quan),
kể chuyện tự do theo chủ đề hay tình huống, kể chuyện theo một số nhân vật cô giáo nêu ra
[34, tr.48-49].

Tuy nhiên, theo người nghiên cứu có 5 hình thức phát triển LNML cho trẻ MN hiện
nay đó là: dạy trẻ kể chuyện theo tranh, dạy trẻ kể chuyện theo đồ chơi, dạy trẻ kể lại
chuyện văn học, dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm và dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. Đây
cũng là các hình thức mà GVMN thường áp dụng để phát triển LNML cho trẻ. Trong đó, kể
chuyện theo tranh được các nhà nghiên cứu xem như con đường phát triển LNML phù hợp
với trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi. Bởi vì trẻ 5 – 6 tuổi đã có một vốn từ phong phú,
trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo đã phát triển nên trẻ có thể kể lại câu chuyện trên cơ sở
những gì nhìn thấy một cách trực quan qua bức tranh hay bộ tranh.
Chính vì vậy, kể chuyện theo tranh là một hình thức đặc biệt quan trọng không chỉ
phát triển nhận thức, tư duy, tưởng tượng, sáng tạo mà quan trọng hơn còn hoàn thiện
LNML cho trẻ, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
1.3.3. Kể chuyện theo tranh cho trẻ mẫu giáo
Tranh là tài liệu quý giá, là phương tiện để trẻ phát triển LNML. Những hình ảnh trong
tranh được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Vì vậy, tranh sẽ giúp trẻ xây dựng nội dung
câu chuyện dễ dàng hơn.
Kể chuyện theo tranh là dạng hoạt động phù hợp với trẻ mẫu giáo vì trẻ rất thích xem
tranh, nhất là những tranh có nội dung gần gũi với cuộc sống của trẻ. Những ký hiệu màu
sắc, hình ảnh phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ. Ở trường MN, tranh được sử dụng
rộng rãi phổ biến vì nó phù hợp với đặc điểm nhận thức (chủ yếu là nhận thức cảm tính) và
đặc điểm tư duy (tư duy trực quan) của trẻ. Dùng tranh để dạy trẻ kể chuyện theo tranh có ý
nghĩa quan trọng đối với trẻ mẫu giáo. Tranh là phương tiện rèn luyện năng lực quan sát,
phát triển tư duy, tưởng tượng, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho trẻ. Để hoạt động kể chuyện
theo tranh đạt hiệu quả, GV cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
19


 Dạy trẻ biết quan sát và nhận xét các hình ảnh, các mối liên hệ giữa các hình ảnh để
hiểu nội dung bức tranh.
 Phát triển vốn từ tương ứng để thể hiện nội dung bức tranh, phát triển vốn từ miêu
tả các sự vật, hiện tượng, tích cực hóa vốn từ miêu tả (mở rộng và làm chính xác hóa vốn

từ).
 GD trẻ thái độ đúng đắn với nội dung bức tranh, phong cách thể hiện phù hợp với
nội dung tranh (màu sắc, bố cục, ngữ điệu, phong cách thể hiện).
 GD thẩm mỹ, hình thành năng lực cảm thụ cái đẹp.
 Phát triển kỹ năng diễn đạt nội dung bức tranh mạch lạc bằng ngôn ngữ độc thoại
của trẻ.
Khi dạy trẻ kể chuyện theo tranh phải giúp trẻ hoàn chỉnh câu chuyện để người nghe
có thể hiểu được. Trẻ phải xây dựng bố cục một cách chặt chẽ, logic, đúng trình tự sự kiện.
Dạy trẻ tìm kiếm từ, tổ hợp từ để thể hiện tính cụ thể của hình ảnh. Kể chuyện theo tranh
góp phần phát triển trí nhớ, tư duy, rèn luyện tính độc lập, mạnh dạn tự tin. Đó chính là
những yếu tố cơ bản để phát triển LNML cho trẻ 5 – 6 tuổi.
Hiện nay, khi dạy trẻ kể chuyện theo tranh, GVMN thường trò chuyện để hiểu nội
dung các bức tranh, nắm được sự liên quan giữa các nhân vật, tình huống trong tranh. Sau
đó, hướng dẫn trẻ kể chuyện theo tranh. Hầu hết GV đều sử dụng những câu chuyện mẫu.
Việc này dễ dẫn đến hệ quả, trẻ ỷ lại, tư duy chậm chạp hay chờ đợi và rập khuôn, gây ảnh
hưởng không tốt đến việc phát triển LNML cho từng cá nhân trẻ. Thêm vào đó, GVMN
thường tận dụng những bộ tranh từ những năm học trước với chất liệu giấy là phổ biến
khiến trẻ nhàm chán. Hiệu quả của các hoạt động kể chuyện không cao. Trẻ không thích và
không muốn chơi ở các góc kể chuyện vì các bộ tranh quá cũ kỹ, không có gì đặc sắc. Thậm
chí có những tranh đã phai màu, chất liệu giấy không giữ được lâu nên nhàu nát và xấu xí,
không còn sức hấp dẫn đối với trẻ. Chính vì thế, để giúp GV giảm bớt áp lực (vì trẻ ở các
trường MN hiện nay đều quá tải), trong đề tài này chúng tôi đã kết hợp đưa yếu tố chơi vào
các hoạt động kể chuyện theo tranh để tạo ra động cơ và hứng thú học tập tích cực ở trẻ,
đồng thời tăng cường đầu tư sáng tạo các bộ tranh đặc sắc, hấp dẫn với nhiều chất liệu
phong phú như: giấy, phần mềm Powerpoint… để thu hút trẻ.
1.3.4. Vai trò của trò chơi kể chuyện theo tranh đối với việc phát triển lời nói mạch
lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi
Vui chơi không chỉ là phương tiện, hình thức học tập mà còn là hoạt động giúp hình
thành và phát triển các năng lực nhận thức, tình cảm và xúc cảm thẩm mỹ cho trẻ. Giờ học –
trò chơi là hình thức dạy học bằng các trò chơi. GV sử dụng trò chơi làm phương tiện để

dạy học, giúp trẻ lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới. Việc dạy học cho trẻ 5 – 6
tuổi bằng trò chơi đã tạo cho trẻ khả năng giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới hình thức nhẹ
20


nhàng, không bị áp đặt. Chính điều này tạo điều kiện cho trẻ lĩnh hội những tri thức, kỹ
năng và đặc biệt là phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên.
Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi kể chuyện theo tranh là tổ chức cho trẻ “học mà chơi,
chơi mà học”. Nhiệm vụ học được đưa vào trò chơi ở đây hết sức sinh động. Từ đó, GV tạo
ra hứng thú, động cơ học tập, củng cố, khắc sâu những biểu tượng đã được hình thành, tạo
cho trẻ một ấn tượng mạnh mẽ về câu chuyện, khắc sâu những hình ảnh đẹp, những chi tiết
hay.
Trò chơi kể chuyện theo tranh có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ mẫu giáo, đặc biệt là
trẻ 5 – 6 tuổi. Trong trò chơi này, trẻ phải nắm được nội dung cốt truyện của bộ tranh, nắm
được tính logic và liên tục của các hình ảnh, chi tiết, sự kiện trong tranh. Vì vậy, các trò
chơi kể chuyện theo tranh không chỉ phát triển tư duy, sáng tạo mà còn phát triển LNML
của trẻ.
Trò chơi kể chuyện theo tranh với các phương tiện là những bộ tranh hấp dẫn, sinh
động từ các nguyên liệu vật liệu phong phú như giấy, trên phần mềm Powerpoint… sẽ giúp
việc trẻ ghi nhớ truyện tốt hơn, làm sâu sắc ấn tượng về những hình ảnh trong tranh một
cách nhẹ nhàng bởi vì chơi chính là cách học của trẻ. Yếu tố chơi sẽ được giới hạn trong nội
dung tri thức dạy. Nội dung chơi từ chính trong những câu chuyện gắn với những bức tranh
sinh động, hấp dẫn. Chủ thể của trò chơi là trẻ bước vào trò chơi với tư thế trải nghiệm
mình, để thể hiện khả năng trước bạn bè, với mong muốn đươc như nhân vật mình yêu
thích. Điều này làm xuất hiện hứng thú bền vững với các trò chơi kể chuyện theo tranh.
Chính sự hứng thú mang lại cho trẻ sự thỏa mãn, niềm vui sướng và giúp trẻ khám phá ra
những tiềm năng của bản thân.
Trong trò chơi, trẻ 5 – 6 tuổi luôn là một chủ thể tích cực, cố gắng tìm kiếm phương
thức phù hợp để giải quyết nhiệm vụ mà trò chơi đặt ra. Trò chơi kể chuyện theo tranh đã
dạy cho trẻ tư duy, dạy cho trẻ nhận thức cuộc sống thông qua các bức tranh và cố gắng tìm

ra cách thể hiện câu chuyện từ các bức tranh ấy để người khác hiểu. Từ đó, các trò chơi kể
chuyện theo tranh mang lại niềm vui lớn cho trẻ một cách nhẹ nhàng, ý nghĩa – niềm vui
của sự khám phá và chiến thắng.
Những yêu cầu của trò chơi đòi hỏi trẻ phải phát huy cao độ sự hoạt động của các chức
năng tâm lý như: trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, sáng tạo, ngôn ngữ. Khi chơi, trẻ nói bằng
ngôn ngữ của mình, giàu xúc cảm, tình cảm. Từ đó, giúp trẻ cảm nhận được sự giàu có của
ngôn ngữ, nắm được phương tiện thể hiện ngôn ngữ, lĩnh hội và yêu quý giữ gìn tiếng mẹ
đẻ. Tất cả những điều này ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, nhất là
LNML.

1.4. Đặc điểm ngôn ngữ nói của trẻ 5 – 6 tuổi

21


1.4.1. Đặc điểm phát triển lời nói mạch lạc của trẻ 5 – 6 tuổi
1.4.1.1. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 – 6 tuổi
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình GD trẻ trở thành con người phát
triển toàn diện. Sự phát triển chậm trễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của trẻ, đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi. Cho nên cần phải xác định rõ các đặc điểm phát triển ngôn
ngữ của trẻ như: phát âm, vốn từ, ngữ pháp… để đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp,
hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng lúc và phù hợp.
Về phát âm: trẻ 5 – 6 tuổi đã hoàn thiện dần về mặt ngữ âm. Các phụ âm đầu, âm cuối,
âm đệm, thanh điệu dần dần được định vị. Trẻ phát âm đúng hết các âm vị của tiếng mẹ đẻ,
kể cả các âm, các vần khó. Trẻ đã biết điều chỉnh nhịp điệu, cường độ của giọng khi giao
tiếp để phù hợp với từng hoàn cảnh, lời nói của trẻ đã rõ ràng, dứt khoát hơn. Do phạm vi
tiếp xúc được mở rộng, vốn từ và sự hiểu biết của trẻ phong phú nên trẻ phát âm được cả
những âm khó (loanh quanh, nghênh ngang). Đến cuối 6 tuổi, về cơ bản trẻ đã phát âm
đúng, ổn định các âm vị; khả năng sử dụng giọng nói biểu cảm hơn [30, tr. 33].
Về vốn từ: vốn từ của trẻ tăng nhanh theo lứa tuổi. Trẻ 4 tuổi có thể sử dụng 1200 từ, 5

tuổi là 2000 từ và trẻ 6 tuổi có thể sử dụng tới 3000 từ. Nếu như ở trẻ 4 tuổi hay sử dụng các
danh từ chỉ đồ vật, đồ dùng, thức ăn, các hiện tượng thiên nhiên… thì ở trẻ 5 tuổi xuất hiện
thêm các nhóm danh từ mới như: danh từ chỉ giới tính (bạn gái, bạn trai, phụ nữ), chỉ
khoảng không gian rộng lớn (mênh mông, bao la, bát ngát), các từ mang tính văn học (cô
nắng, thần mưa, châu báu). Đến 6 tuổi, trong vốn từ của trẻ xuất hiện thêm các từ thuộc lĩnh
vực khác đa dạng hơn. Ngoài ra, trẻ đã biết dùng các từ manh tính biểu cảm có hình ảnh,
màu sắc, âm thanh (mong manh, chói chang, rì rào). Để chỉ một tính chất trẻ có thể dùng
nhiều từ khác nhau (beo béo, béo mầm, béo cực). Trẻ còn có khả năng hiểu và sử dụng một
số từ đồng nghĩa [26, tr. 33].
Như vậy, trẻ 5 – 6 tuổi đã tăng dần vốn từ, từ loại, khả năng hiểu và sử dụng từ nên
khả năng diễn đạt của trẻ rõ ràng hơn. Trẻ không bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ hoàn cảnh.
Điều này phù hợp với sự phát triển chung của trẻ. Trẻ càng lớn nhu cầu giao tiếp càng rộng,
không hạn chế bởi môi trường gia đình, vốn ngôn ngữ xã hội tăng nhanh nhờ vậy sự hiểu
biết, nhận thức và tư duy phát triển rõ rệt.
Về ngữ pháp: so với trẻ 3 – 4 tuổi thì trẻ 5 – 6 tuổi rất ít khi sử dụng câu 1 từ mà sử
dụng các loại câu khác nhau như: câu đơn đầy đủ thành phần, câu đơn mở rộng thành phần,
câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ. Các loại câu ghép của trẻ cũng được mở rộng. Trẻ
biết cấu tạo các câu hoàn chỉnh để kể lại nội dung câu chuyện hoặc diễn tả sự hiểu biết, diễn
tả điều mong muốn của cá nhân. Các câu chính phụ của trẻ đã có đủ các từ chỉ quan hệ, ý
của câu cũng được diễn đạt rõ ràng, mạch lạc hơn [30, tr. 82]. Ví dụ: Mẹ thưởng cháu vì
cháu biết giúp đỡ mẹ.
22


Câu nói của trẻ 5 – 6 tuổi tương đối rõ ràng, đầy đủ và thể hiện nội dung khá phong
phú. Trẻ còn biết sử dụng liên từ nhờ vậy câu nói của trẻ trở nên mạch lạc. Tuy đã có bước
tiến khá xa trong việc sử dụng các loại câu so với trẻ nhà trẻ nhưng trẻ 5 – 6 tuổi vẫn còn
các hạn chế như: câu thiếu thành phần; từ dùng trong câu chưa chính xác, khi thừa khi thiếu;
vị trí sắp xếp các từ trong câu chưa chính xác, dài dòng không mạch lạc, không rõ ý v.v..
Nguyên nhân chủ yếu là do vốn từ của trẻ còn nghèo, chưa biết cách sử dụng các từ liên kết,

chưa phát triển đúng trình tự logic của sự việc. Vì vậy, tiếp tục phát triển LNML cho trẻ là
rất cần thiết.
Về sự phát triển lời nói mạch lạc: LNML của trẻ 5 – 6 tuổi đã đạt trình độ khá cao. Để
trả lời câu hỏi, trẻ đã sử dụng các câu tương đối chính xác ngắn gọn và khi cần thì mở rộng.
Lúc này, trẻ đã phát triển kỹ năng nhận xét lời nói và câu trả lời của bạn, bổ sung hoặc sửa
chữa các câu trả lời đó. Sang tuổi thứ 6, trẻ có thể đặt tên cho câu chuyện miêu tả hay theo
một chủ đề nào đó cho trước một cách tuần tự và rõ ràng nhưng vẫn cần đến lời nói mẫu của
cô giáo. Kỹ năng truyền đạt trong lời kể, thái độ xúc cảm của mình đối với các sự vật, hiện
tượng trong câu chuyện của trẻ vẫn còn chưa phát triển đầy đủ [36, tr. 89].
Trẻ tích cực tham gia trò chuyện với người lớn, bạn bè. Trẻ có thể tranh luận, đưa ra ý
kiến của mình. Tư duy của trẻ phát triển hơn, trẻ có thể nhận biết được những dấu hiệu, đặc
điểm đặc trưng; có thể đưa ra những phân tích đầy đủ về sự vật, hiện tượng. Bằng ngôn ngữ,
trẻ có thể diễn đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩ, sự hiểu biết của mình. Trẻ biết xây dựng câu
chuyện tương đối liên tục, rõ ràng, phong phú theo đề tài cho sẵn hoặc kể chuyện theo tranh,
đồ chơi, đồ vật [30, tr. 91].
Như vậy, nhìn chung trước khi bước vào tiểu học, trẻ đã có khả năng nắm được ý
nghĩa của từ thông dụng, phát âm đúng, biết dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp,
nói đúng cấu trúc ngữ pháp và đặc biệt là nói năng mạch lạc, thoải mái, biểu cảm. Đo đó,
cần tăng cường sử dụng các trò chơi để phát triển đúng đắn, kịp thời LNML cho trẻ. Đây
chính là phương pháp hiệu quả góp phần mở rộng phạm vi giao tiếp, phát triển xúc cảm tình
cảm chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 một cách mạnh dạn tự tin.
1.4.1.2. Phát triển lời nói mạch lạc của trẻ 5 – 6 tuổi
 Biểu hiện lời nói mạch lạc của trẻ 5 – 6 tuổi
LNML phải được thực hiện đồng thời cả hai kỹ năng nghe và nói. Phát triển ở trẻ kỹ
năng nghe, hiểu ngôn ngữ của người khác đồng thời phát triển kỹ năng nói có trình tự, có
nội dung rõ ràng, logic; biết sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ phù hợp với
nội dung nói. Phát triển LNML cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ; khả năng
trình bày có logic, có trình tự, chính xác; đúng ngữ pháp và có hình ảnh một nội dung nhất
định.
Đối với trẻ 5 – 6 tuổi, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn, lời nói cũng được mở rộng,

23


×