Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án với trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi tại thành phố cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.91 MB, 193 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lý Tuyết Ly

THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH DẠY HỌC
THEO DỰ ÁN VỚI TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
TẠI THÀNH PHỐ CÀ MAU

Chuyên ngành: Giáo dục học (Giáo dục Mầm non)
Mã số: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THU HIỀN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các
thông tin, số liệu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng, cụ thể. Kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả

Lý Tuyết Ly


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được sự động
viên, giúp đỡ và hỗ trợ nhiệt tình từ gia đình, thầy cô, nhà trường và bạn bè. Thông


qua luận văn, tác giả muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến:
- TS. Phan Thị Thu Hiền đã tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn và định hướng cho tác giả
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn chỉnh luận văn.
- Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh cùng toàn thể cán bộ, giáo
viên Khoa Giáo dục Mầm non đã trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ dẫn tác giả trong quá
trình học tập và nghiên cứu tại trường.
- Ban giám hiệu và giáo viên trường Mầm non Ánh Dương Tp. Cà Mau đã tạo
điều kiện cho tác giả trong suốt quá trình thử nghiệm.
- Phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
- Gia đình và bạn bè luôn động viên tinh thần cho tác giả trong quá trình nghiên
cứu và hoàn chỉnh luận văn.
Cuối cùng, xin kính gửi lời chúc sức khỏe và hạnh phúc đến tất cả mọi người
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2014
Tác giả
Lý Tuyết Ly


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................. 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 3
4. Giả thuyết khoa học ............................................................................................... 3

5. Nhiệm vụ của đề tài ............................................................................................... 3
6. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................ 4
7. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 4
8. Kế hoạch nghiên cứu.............................................................................................. 5
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA MÔ HÌNH DẠY HỌC THEO DỰ ÁN ............. 6
1.1. Bối cảnh nghiên cứu đề tài ....................................................................................... 7
1.1.1. Làn sóng cải cách giáo dục của thế giới .......................................................... 7
1.1.2. Giáo dục mầm non Việt Nam trước làn sóng cải cách giáo dục của thế giới 10
1.2. Cơ sở lí luận về việc thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án với trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi ............................................................................................................ 14
1.2.1. Một số khái niệm công cụ .............................................................................. 14
1.2.2. Cấu trúc của mô hình dạy học theo dự án ...................................................... 22
1.2.3. Ưu điểm của dạy học theo dự án và những khó khăn khi dạy học theo cách
tiếp cận dự án ................................................................................................. 31
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................... 37
Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TÍCH CỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC MẦM NONTẠI
MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ CÀ MAU .............................. 38


2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ tìm hiểu thực trạng áp dụng các phương pháp dạy
học tích cực đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục mầm non tại một số trường
mầm non thành phố Cà Mau ................................................................................... 38
2.2. Phương pháp tìm hiểu thực trạng áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục mầm non tại một số trường
mầm non thành phố Cà Mau ................................................................................... 39
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 39
2.2.2. Các phương pháp thu thập số liệu .................................................................. 39
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................................. 41
2.3. Phân tích kết quả điều tra thực trạng áp dụng các phương pháp dạy học

tích cực cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại một số trường mầm non thành phố
Cà Mau .................................................................................................................... 41
2.3.1. Đôi nét về địa bàn nghiên cứu ....................................................................... 41
2.3.2. Phân tích kết quả điều tra ............................................................................... 43
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................... 68
Chương 3. THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH DẠY HỌC THEO DỰ ÁNVỚI TRẺ
MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ CÀ MAU .................................... 70
3.1. Bối cảnh thử nghiệm............................................................................................... 70
3.2. Các bước tiến hành thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án với trẻ 5 – 6
tuổi tại trường mầm non Ánh Dương ..................................................................... 71
3.2.1. Xây dựng các phương án thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án với trẻ
5 – 6 tuổi tại trường mầm non Ánh Dương .................................................... 71
3.2.2. Tổ chức thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án với trẻ 5 – 6 tuổi tại trường
mầm non Ánh Dương ..................................................................................... 83
3.2.3. Kết quả thử nghiệm ........................................................................................ 97
3.3. Kết luận................................................................................................................. 107
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 108
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 109
ĐỀ XUẤT .................................................................................................................... 111
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ........................................ 113


PHỤ LỤC 1 ..................................................................................................................... 1
PHỤ LỤC 2 ..................................................................................................................... 6
PHỤ LỤC 3 ..................................................................................................................... 9
PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................... 11
PHỤ LỤC 5 ................................................................................................................... 12
PHỤ LỤC 6 ................................................................................................................... 22
PHỤ LỤC 7 ................................................................................................................... 49
PHỤ LỤC 8 ................................................................................................................... 50

PHỤ LỤC 9 ................................................................................................................... 54
PHỤ LỤC 10 ................................................................................................................. 62
PHỤ LỤC 11 ................................................................................................................. 65


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Nhận thức của giáo viên về dạy học theo yêu cầu chương trình giáo dục
mầm non 2009…………………………………………………………

44

Bảng 2.2. Nhận thức của cán bộ quản lí về dạy học theo yêu cầu chương trình
giáo dục mầm non 2009………………………………………………... 46
Bảng 2.3. Nhận thức của giáo viên về sự khác nhau giữa cách dạy học trong
chương trình 2009 và cách dạy học trước đây…………………………

47

Bảng 2.4. Nhận thức của cán bộ quản lí về sự khác nhau giữa cách dạy học trong
chương trình mới 2009 và cách dạy học trước đây…………………….

50

Bảng 2.5. Cách hiểu của giáo viên về giáo dục tích hợp ở bậc học mầm non…….

52

Bảng 2.6. Cách hiểu của cán bộ quản lí về giáo dục tích hợp ở bậc học mầm non.


53

Bảng 2.7. Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học trong tổ chức các hoạt động
tại trường mầm non…………………………………………………….. 57
Bảng 2.8. Mức độ sử dụng hình thức tổ chức các hoạt động học………………….

58

Bảng 2.9. Nhận thức của giáo viên về phương pháp dạy học tích cực…………….

61

Bảng 2.10. Mức độ hiểu biết của giáo viên và ban giám hiệu trường mầm non về
mô hình dạy học theo dự án của Lilian G. Katz (Mỹ)…………………. 64
Bảng 2.11. Hình thức giáo viên mầm non và ban giám hiệu trường mầm non tiếp
cận mô hình dạy học theo dự án của Lilian Katz (Mỹ)………………...

65


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Trang
Hình 3.1. Cấu tạo ngoài của Ốc ...................................................................................90
Hình 3.2. Cấu tạo lưỡi và răng Ốc .................................................................... ........ 92


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong thời đại ngày nay, thế giới đang bước vào kỉ nguyên mới với sự phát triển
nhanh chóng của khoa học kỹ thuật hiện đại, những thành tựu của nó có tác động
mạnh mẽ về mọi mặt của đời sống xã hội. Khoa học tiên tiến đòi hỏi con người không
ngừng học hỏi, nâng cao tri thức và kỹ năng của mình. Sứ mệnh đó đặt lên vai ngành
giáo dục, một trọng trách lớn lao: đào tạo con người đáp ứng yêu cầu xã hội ngày càng
phát triển. Trong những năm gần đây, giáo dục Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều
thay đổi trong toàn bộ quá trình dạy học, việc đổi mới phương pháp dạy học rất được
quan tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khoá VIII đã chỉ rõ một nhiệm vụ quan trọng của ngành Giáo dục và Đào
tạo là: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện thói quen, nề nếp tư duy sáng tạo của người học” [18]. Và điều
này tiếp tục được khẳng định tại khoản 2 điều 5 Luật giáo dục: “Phát huy tính tự giác,
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học,
khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [3].
Nói đến đổi mới giáo dục nghĩa là phải đổi mới toàn diện ngay từ bậc học mầm
non, đặt nó là trọng tâm và ưu tiên hàng đầu trong công cuộc đổi mới. Giáo dục mầm
non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân và được xác định là bậc học
giữ vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng nhân cách cho trẻ. L. N. Tônxtôi từng
nhận định: “Tất cả những gì mà đứa trẻ sẽ có sau này khi trở thành người lớn đều thu
nhận được từ thời thơ ấu. Trong quãng đời còn lại những cái mà nó thu nhận được chỉ
đáng một phần trăm những cái đó mà thôi”, đồng thời ông còn đưa ra một phép so
sánh “Nếu từ đứa trẻ năm tuổi đến người lớn, khoảng cách chỉ là một bước thì từ đứa
trẻ sơ sinh đến đứa trẻ năm tuổi là một khoảng dài kinh khủng” [30, tr. 337]. Điều này
cho thấy lứa tuổi mầm non là giai đoạn vàng của sự phát triển và không thể tìm thấy ở
bất kì giai đoạn nào. Nhận thức được vai trò của giáo dục mầm non cùng với nhu cầu
đổi mới giáo dục, chương trình giáo dục mầm non 2009 ra đời với triết lý “dạy học lấy
trẻ làm trung tâm” và “dạy học theo hướng tích hợp”, nhằm mục đích phát huy tích
cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tư duy, giải quyết vấn đề, khả năng học suốt đời của



2

trẻ. Nhưng quan điểm “dạy học lấy trẻ làm trung tâm” và “dạy học tích hợp” đã khiến
giáo viên không khỏi lúng túng khi lựa chọn và áp dụng các phương pháp dạy học tích
cực. Việc cố gắng thực hiện vô tình làm cho tiết học trở nên khô khan, gượng gạo, trẻ
học một cách nhồi nhét mọi thứ khi giáo viên cho rằng “Tích hợp” là tích hợp tất cả
những gì có thể vào một hoạt động và lớp học trở nên khó quản lí khi cho rằng “Lấy
trẻ làm trung tâm” là cho trẻ tự do vui chơi hay được vận động thể chất nhiều trong
mọi hoạt động [43]. Trước thực tế đó, việc lựa chọn một mô hình hay phương pháp
dạy học phù hợp được đặt ra. Đứng ở góc độ một giáo viên mầm non, chúng tôi luôn
mong muốn tìm thấy những mô hình hay phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp
giáo viên khắc phục khó khăn của mình và hướng đến mục tiêu đổi mới. Ngoài những
phương pháp dạy học tích cực hiện nay, chúng tôi cũng rất quan tâm đến các mô hình
dạy học hiện đại trên thế giới, đầu tiên cần nhắc đến đó là “Mô hình dạy học theo dự
án của Lilian G. Katz (Mỹ)”, đây là một trong những mô hình dạy học tiến tiến và
đang được thế giới quan tâm.Với mô hình dạy học theo dự án trẻ sẽ học được nhiều
hơn những gì giáo viên cung cấp và chuẩn kiến thức sẽ không còn là điểm cuối cùng
mà điểm cuối cùng là khi nào trẻ tự giải quyết được những thắc mắc của mình đối với
môi trường xung quanh. Đặc trưng của dạy học theo dự án là tất cả các hoạt động
khám phá đều do trẻ khởi xướng, trẻ tự đưa ra vấn đề và cũng chính trẻ là người giải
quyết vấn đề đó, điều này sẽ khắc phục được hạn chế của dạy học truyền thống và giúp
giáo viên thực hiện tinh thần “Dạy học lấy trẻ làm trung tâm” và “Dạy học tích hợp”
của chương trình mới, lúc này dạy học không còn là truyền thụ một chiều mà dạy học
giống như châm một ngọn lửa nhằm tạo ra sự tương tác hiệu quả giữa mỗi đứa trẻ với
môi trường xung quanh. Để minh họa cho dạy học theo dự án, chúng tôi tạm dẫn lời
một nhà sư phạm dân chủ người Nga K.Đ.Usinxki: “Khi cần dạy trẻ điều gì, chỉ cần
trẻ tự quan sát, tự phát biểu ý kiến của mình, tưởng tượng, nhớ lại những gì quan sát
được và rút ra kết luận là có hiệu quả nhất” [22]; và một nhà triết học người Pháp J. J.
Rutxô: “Trẻ tích cực dành lấy kiến thức bằng con đường tự tìm hiểu, tự khám phá,
không nên học thuộc lòng mà phải sáng tạo. Giáo dục không được áp đặt, người thầy

phải đáp ứng mọi yêu cầu, mong muốn của trẻ” [2].


3

Mô hình dạy học theo dự án của Lilian G. Katz là cách tiếp cận hiện đại rất được
thế giới quan tâm nhưng lại khá mới mẻ đối với giáo dục mầm non Việt Nam, cho nên
cần thiết phải cập nhật đặc biệt là chúng ta đang trong giai đoạn đổi mới giáo dục
hướng đến “Dạy học lấy trẻ làm trung tâm” và “Dạy học tích hợp”. Đồng thời, đến
thời điểm này vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về dạy học theo dự án của
Lilian G. Katz tại Việt Nam, nhất là các thành phố trẻ như Cà Mau. Xuất phát từ
những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thử nghiệm mô
hình dạy học theo dự án với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tại thành phố Cà Mau”. Điều
chúng tôi mong muốn là giúp trẻ chủ động hơn trong quá trình học và biết nghĩ về
những gì các em được học.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu cốt lõi của luận văn là thử nghiệm mô hình dạy học theo dự
án với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nhằm đánh giá tính khả thi và hiệu quả của mô hình với
mục tiêu chương trình giáo dục mầm non trong điều kiện giáo dục mầm non tại thành
phố Cà Mau.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Mô hình dạy học theo dự án với trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi trong điều kiện Cà Mau.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Quá trình hoạt động của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
Mô hình dạy học theo dự án có thể phù hợp với mục tiêu đổi mới giáo dục mầm
non, phù hợp với tinh thần dạy học hướng vào người học và phù hợp với điều kiện
giáo dục mầm non tại thành phố Cà Mau.
5. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về mô hình dạy học theo dự án.

- Khảo sát thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non về đổi mới giáo dục mầm
non; việc sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học tích cực để đáp ứng yêu cầu đổi
mới và hiểu biết của giáo viên mầm non về mô hình dạy học theo dự án.
- Đề xuất phương án thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án với trẻ mẫu giáo 5
– 6 tuổi tại trường mầm non Ánh Dương thành phố Cà Mau.


4

6. Phạm vi nghiên cứu
Thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có
nhiều thời gian và thử nghiệm trên diện rộng. Từ đó mới có thể đánh giá một cách sâu
sắc hơn về tính khả thi của mô hình dạy học này. Tuy nhiên, với quy mô của một luận
văn thạc sĩ và sự hạn chế về thời gian nên chúng tôi chỉ thử nghiệm một dự án với trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại trường mầm non Ánh Dương thành phố Cà Mau. Ngoài ra, nói
đến dạy học theo dự án thì có rất nhiều mô hình khác nhau cho nên chúng tôi lựa chọn
chỉ nghiên cứu và thử nghiệm mô hình dạy học dự án của Lilian Katz (Mỹ).
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi đã sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: phương pháp quan sát, phương pháp điều
tra bằng phiếu anket, phương pháp phỏng vấn và đặc biệt là phương pháp thử nghiệm.
- Phương pháp quan sát: Chúng tôi tiến hành quan sát các tất cả các hoạt động
hàng ngày của cô và trẻ (từ thứ 2 đến thứ 6) để khảo sát thực trạng áp dụngcác phương
pháp, hình thức dạy học tích cực của giáo viên mầm non. Ngoài ra, phương pháp quan
sát còn dùng để quan sát đánh giá quá trình và kết quả thử nghiệm mô hình dạy học
theo dự án tại trường mầm non.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu anket: Nhằm thu thập thông tin về các phương
pháp dạy học tích cực và hình thức tổ chức mà giáo viên thường áp dụng trong dạy
học, chúng tôi đã xây dựng phiếu điều tra dành cho giáo viên và cán bộ quản lí tại các
trường mầm non khác nhau thuộc thành phố Cà Mau, chúng tôi có các nhóm câu hỏi

sau:
+ Nhận thức của giáo viên về đổi mới giáo dục mầm non hiện nay.
+ Thực trạng sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tại các
trường mầm non.
+ Hiểu biết của giáo viên về mô hình dạy học theo dự án.
- Phương pháp phỏng vấn: Bên cạnh quan sát và sử dụng phiếu anket, chúng tôi
còn sử dụng phương pháp phỏng vấn giáo viên nhằm tìm hiểu sâu hơn về thực trạng áp
dụng các phương pháp dạy học tích cực với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, đồng thời phỏng


5

vấn cán bộ Sở Giáo dục và Đào tạo về hình thức giáo viên tiếp cận mô hình dạy học
theo dự án của Lilian Katz.
- Phương pháp thử nghiệm: Phương pháp thử nghiệm được chúng tôi sử dụng để
giải quyết nhiệm vụ thứ ba của đề tài. Sau khi đã đi sâu nghiên cứu cơ sở lí luận và tìm
hiểu thực trạng của việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực đáp ứng mục tiêu
đổi mới chương trình tại trường mầm non, chúng tôi tiến hành thử nghiệm khoa học
mô hình dạy học theo dự án với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại trường mầm non để đánh
giá tính khả thi và hiệu quả mô hình này.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi còn kết hợp sử dụng phương
pháp thống kê toán học để xử lý số liệu thu được qua phần mềm Excel trong quá trình
nghiên cứu.
8. Kế hoạch nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: Từ 1/9/2013 đến 30/12/2013
- Khảo sát thực trạng: Từ 1/1/3014 đến 30/2/2014
- Thử nghiệm khoa học: Từ 1/3/2014 đến 30/5/2014
- Hoàn thành đề tài: 1/6/2014 đến 30/9/2014



6

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA MÔ HÌNH DẠY HỌC THEO DỰ ÁN
“Dạy học giống như châm một ngọn lửa: Ta đưa mồi lửa tới gần
tờ giấy và giúp nó bốc cháy, kết hợp với oxygen có sẵn trong
không khí. Ở trong lớp học chức năng của người thầy giáo cũng
giống như vậy: chúng ta sử dụng nhiều phương pháp dạy học
khác nhau để tạo ra những tia sáng giữa mỗi đứa trẻ với một
phần của môi trường xung quanh chúng”.
(Hughes)
Dạy học và đổi mới hình thức, cách thức dạy học là một vấn đề luôn được đặt ra,
không chỉ ở một đất nước đang phát triển như Việt Nam mà cả những quốc gia phát
triển như Anh, Úc, Mỹ,… Dạy học giống như vẽ một bức tranh, điều quan trọng là
chúng ta vẽ cho trẻ hay để trẻ tự vẽ và chúng ta chỉ là người hướng dẫn. Ngày nay,
kiến thức trong xã hội thay đổi hằng ngày hằng giờ, cho nên không ai biết rằng năm
hay mười năm nữa xã hội cần gì ở đứa trẻ và lúc đó chúng ta có bên cạnh để dạy
những đứa trẻ của năm hay mười năm trước không. Trẻ sẽ ngơ ngác với thế giới hay
thích nghi với chúng và điều này được ảnh hưởng từ cách dạy của chúng ta ngay khi
trẻ còn ở tuổi mầm non. Như vậy, để sau này trẻ không ngơ ngác hay lung túng với
những thay đổi của xã hội, ngay từ bậc mầm non hãy dạy trẻ biết tự học, tự nghiên
cứu, tự tìm cách giải quyết vấn đề liên quan đến trẻ. Khi trẻ được học qua tự giải quyết
vấn đề thì một số kỹ năng khác cũng được phát triển kèm theo như: kỹ năng hợp tác
nhóm, biết chia sẻ, trao đổi, sự mạnh dạn, tự tin, sáng tạo,… tất cả đều rất cần cho một
đứa trẻ ở tương lai nhất là trong một xã hội mà lượng thông tin thay đổi chỉ còn tính
bằng giây. Ngay chương đầu tiên của đề tài chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn một mô
hình dạy học mới“Dạy học theo dự án”, với cách tiếp cận dự án trẻ có nhiều cơ hội để
rèn năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề cho trẻ. Dạy học theo dự án là mô
hình dạy học hiện đại với quan điểm “dạy học hướng vào người học”, “dạy học tích
hợp” mà chúng tôi lựa chọn sẽ thử nghiệm về tính khả thi và sự phù hợp với mục tiêu
đổi mới giáo dục mầm non tại Việt Nam. Nội dung chính của chương mộtlà phần cơ

sở lí luận về dạy học theo dự án và đây cũng là cơ sở lí luận cho cả quá trình nghiên


7

cứu của chúng tôi. Trong chương một chúng tôi nghiên cứu về làn sóng cải cách giáo
dục trên thế giới kéo theo sự đổi mới giáo dục mầm non tại Việt Nam, sau đó là những
vấn đề liên quan trực tiếp đến mô hình dạy học theo dự án như: khái niệm, mục đích,
đặc trưng, môi trường giáo dục, ưu điểm - hạn chế và cấu trúc của dạy học theo dự án.
Những vấn đề trên sẽ được phân tích rất chi tiết nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu
của chúng tôi, đồng thời đây cũng sẽ là nguồn tài liệu để các bạn tham khảo về một mô
hình dạy học mới nếu các bạn mong muốn “Dạy học giống như châm một ngọn
lửa…”.
1.1. Bối cảnh nghiên cứu đề tài
1.1.1. Làn sóng cải cách giáo dục của thế giới
Làn sóng cải cách giáo dục trên thế giới diễn ra từ những năm 80 - 90 của thế kỉ
XX với công cuộc “Cải cách bên trong” đến “Cải cách toàn diện”[25] đã ảnh hưởng
không nhỏ đến giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục mầm non nói riêng. Đặc biệt
là phong trào “Cải cách hướng tới tương lai - Future Improvement” [25], nội dung
của làn sóng cải cách giáo dụclà tập trung tạo ra những “kết quả” có thể chưa phát huy
tác dụng tức thì nhưng nhất thiết giúp trẻ sống tự tin, mạnh mẽ hơn trong môi trường
đầy xung đột ở tương lai. Mục đích giáo dục và chức năng giáo dục cũng đổi mới, đó
là người học tự trang bị những hiểu biết đa dạng về xã hội, những kỹ năng cần thiết
theo chuẩn mực văn hóa của địa phương, nơi người học sống và học tập, để có thể ứng
phó và giải quyết vấn đề trong mọi tình huống [25]. Tinh thần của cuộc cải cách này
tiến bộ hơn các cuộc cải cách trước đó, học không còn là quá trình gói gọn trong
khuôn khổ nhà trường, mà là quá trình cá nhân tự tạo ra những cơ hội không có giới
hạn nhằm đạt đến khả năng ứng biến linh hoạt, ổn định trong môi trường luôn biến đổi
không ngừng. Dạy học phải hướng vào người học, quá trình học của trẻ không bị giới
hạn cả không gian và thời gian, việc học có thể diễn ra bất cứ ở đâu, bất cứ thời điểm

nào [25, tr. 62].
Môi trường giáo dục từ hai thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX cho đến thập kỉ đầu
tiên của thế kỉ XXI cũng đã thay đổi một cách nhanh chóng bởi các tác động của làn
sóng cải cách giáo dục và xu hướng tái cấu trúc nhà trường không chỉ ở các nước
phương Tây như Canada, Mỹ, Anh, Đức, Pháp,… mà cả các quốc gia và vùng lãnh thổ


8

trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương như: Australia, New Zealand, Singapore,
Malaysia, Hồng Kông [25, tr. 62 – 64]. Điển hình cho công cuộc cải cách giáo dục
theo xu hướng chung của thế giới, một số nền giáo dục tiên tiến đóng vai trò là người
đi đầu cho công cuộc đổi mới này trước tiên phải kể đến là nền giáo dục Hoa Kì [1].
Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phong trào cải cách giáo dục của nước Mỹ diễn ra
mạnh mẽ, trong đó tư tưởng giáo dục căn bản của cuộc cải cách này là dạy học lấy
người học làm trung tâm, ngày nay còn gọi là dạy học định hướng vào người học [1,
tr. 64; 27, tr. 22]. Cũng trong giai đoạn này, nền giáo dục mầm non của CHLB Nga đã
tiến hành đổi mới giáo dục mầm non, với quan điểm nâng cao chất lượng phát triển
của trẻ, nâng cao khả năng độc lập sáng tạo của trẻ, đặt đứa trẻ vào vị trí trung tâm của
quá trình giáo dục và năm 1999 trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo TW3 tại CHLB
Nga đã tiến hành một hội thảo khoa học với chủ đề “Đổi mới chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ và đào tạo giáo viên mầm non” [5, tr. 29]. Riêng Australia đã thực hiện cả
một cuộc cách mạng về giáo dục mầm non. Tháng 7 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ
liên bang phê duyệt chiến lược quốc gia về phát triển trẻ thơ (National Early
Childhood Development Stralegy – NECDS) [24, tr. 58]. Những năm trước đây
Australia chưa thực sự quan tâm đúng mức đến giáo dục mầm non, ngày nay khi các
nhà giáo dục xác định rằng những gì xảy ra ở tuổi thơ đều sẽ có ảnh hưởng đến sự phát
triển sau này của trẻ, cho nên Giáo dục Australia đã đẩy mạnh triển khai “Chiến lược
quốc gia, tầm nhìn về trẻ thơ Australia đến năm 2020”. Với mục tiêu “Đến năm 2020
tất cả trẻ em đều có sự bắt đầu tốt nhất của cuộc đời để tạo ra tương lai tốt nhất cho

bản thân và cho quốc gia” [24, tr. 58]. Song song chiến lược phát triển giáo dục,
chương trình “khung” cũng ra đời, với triết lí chung là “vừa học vừa chơi”, ở trường
trẻ được chơi theo sở thích riêng, tự do tưởng tượng và sáng tạo với trò chơi, người
dạy chỉ đóng vai trò theo dõi, hướng dẫn và định hướng [24]. Thiết bị dạy học an toàn,
gần gũi với đời sống thực của trẻ, có sức gợi mở trí tưởng tượng cho trẻ. Ngoài ban
hành chương trình mới, Chính phủ liên bang cũng ban hành chuẩn chất lượng quốc gia
về giáo dục trẻ thơ gồm 7 lĩnh vực và 57 yếu tố [24, tr. 58]. Xu hướng đổi mới tiếp tục
lan rộng đến một đất nước còn khá non trẻ về giáo dục mầm non đó là Indonesia,
chính phủ bắt đầu quan tâm và đầu tư phát triển chương trình giáo dục mầm non theo


9

hướng tiếp cận toàn diện và tích hợp với mục tiêu “Thực hiện hệ thống giáo dục mầm
non toàn diện và tích hợp để phát triển đa trí tuệ và chuẩn bị cho trẻ sẵn sàng bước vào
giáo dục tiểu học” [27, tr. 63].
Làn sóng cải cách giáo dục đã châm lửa cho các nhà giáo dục khắp mọi nơi mạnh
dạn thể hiện những quan điểm của mình về đổi mới giáo dục, trong giai đoạn này các
mô hình giáo dục hiện đại là trung tâm cho những nghiên cứu để áp dụng rộng rãi vào
thực tế giáo dục mầm non: phương pháp Montessori, cách tiếp cận HighScope, Reggio
Emilia và dạy học theo dự án của Lilian Katz,… Một trong những mô hình trên, dạy
học theo dự án cũng rất được quan tâm, dạy học theo dự án đã được các nhà sư phạm
Mỹ xây dựng cơ sở lý luận từ cuối thế kỷ XIX và coi đó là mô hình dạy học quan
trọng để thực hiện quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” nhằm khắc phục nhược
điểm của dạy học truyền thống [29]. Đối với bậc mầm non thì dạy học theo dự án được
biết đến bởi Lilian Katz, một nhà lãnh đạo quốc tế trong lĩnh vực giáo dục trẻ nhỏ. Mô
hình dạy học theo dự án được Lilian Katz đúc kết qua một thời gian dài nghiên cứu về
giáo dục mầm non ở nhiều quốc gia trên thế giới [33], [38], [39]. Vào khoảng những
năm 80 - 90 của thế kỉ XX, Lilian Katz đã cho ra đời hàng loạt những tác phẩm nói về
dạy học theo dự án và những ấn phẩm nổi tiếng của Lilian Katz trước tiên phải được

kể đến là: quyển“Engaging Children’s Mind: The Project Approach” xuất bản năm
1989 với cộng sự S.C.Chard [35]; năm 2000 ấn phẩm thứ hai“Engaging Children’s
Mind” được xuất bản [36]; năm 2001 một tác phẩm lớn về dạy học theo dự án của
Lilian Katz và J.H.Helm được ra mắt “Young Investigators the project approach in the
early years”, trong những tác phẩm của Lilian Katz đã thể hiện rõ tinh thần của dạy
học theo dự án ở bậc học mầm non và những thành công của mô hình dạy học này tại
Mỹ [33], [38], [39]. Dạy học theo dự án còn được Chard quan tâm qua hai tác phẩm
“The project approach: Managing successful projects” và “The project approach:
curriculum come alive” (1998) [45], [46]. Trong khi các nhà giáo dục trên thế giới
quan tâm nghiên cứu và có những đánh giá cao về mô hình dạy học này thì tại Việt
Nam lại thiếu sự quan tâm đúng mức, điều này thể hiện sự thiếu cập nhật có chọn lọc
những tiến bộ của thế giới về giáo dục mầm non.


10

1.1.2. Giáo dục mầm non Việt Nam trước làn sóng cải cách giáo dục của thế giới
Cải cách giáo dục không còn là vấn đề riêng của một quốc gia nào, đặc biệt là cải
cách giáo dục mầm non. Đã từ rất lâu thế giới đánh giá rất cao vai trò và tầm quan
trọng của bậc học mầm non với sự phát triển toàn diện một đứa trẻ, hàng loạt những
mô hình tiên tiến có lịch sử lâu đời cũng đã xuất hiện và tồn tại đến ngày nay (mô hình
giáo dục Montessori - 1897, cách tiếp cận Reggio Emilia - 1945, dạy học theo dự án
của Lilian Katz…) [26]. Từ những năm 80 – 90 của thế kỷ XX giáo dục mầm non trên
thế giới đã dạy học theo hình thức “lấy người học làm trung tâm” [25, tr. 62 – 65],
trong khi đó đến đầu thế kỉ XXI thì Việt Nam mới thực sự quan tâm đến đổi mới giáo
dục mầm non [4]. Cuộc cách mạng của ngành mầm non được bắt đầu từ năm 2005 khi
Dự thảo Chương trình Giáo dục mầm non được hội đồng cấp quốc gia thẩm định và
cho phép triển khai thực nghiệm, thí điểm từ năm 2005 đến 2009 trên 20 tỉnh thành
[11]. Sau thời gian thí điểm và tổ chức đánh giá tính khả thi của chương trình, năm
2009 chương trình được chính thức ra đời đánh dấu bước phát triển mới của ngành học

mầm non Việt Nam. Với triết lý giáo dục “Sự phát triển là vòng tròn đồng tâm đi theo
hướng xoáy trôn ốc, thể hiện tính kế thừa và thống hợp” và hình thức giáo dục là “dạy
học hướng vào người học”, “dạy học tích hợp”, chương trình giáo dục mầm non 2009
đã thể hiện được tính mới trong quan điểm dạy học so với chương trình trước đây. Dạy
học không còn chú trọng vào kiến thức cần cung cấp để trẻ nhớ, trẻ thuộc mà quan
trọng là tạo điều kiện để trẻ tự tìm hiểu và khám phá môi trường xung quanh; dạy học
không chỉ là nhiệm vụ của nhà trường, mà là nhiệm vụ của gia đình và toàn xã hội;
trong môi trường học không chỉ trong lớp mà được mở rộng ra thế giới xung quanh
trẻ; dạy học không còn phân từng môn riêng lẻ mà là dạy học tích hợp theo chủ đề;
dạy học không còn là một sự cứng nhắc, rập khuôn, áp đặt từ phía cô lên trẻ mà trở
nên linh hoạt hơn trong lựa chọn chủ đề, môi trường, hình thức và phương pháp dạy
học. Trong những điểm khác biệt nêu trên giữa chương trình đổi mới và chương trình
giáo dục mầm non cũ thì phương pháp dạy học tích cực được xem là điểm mới của
chương trình 2009, đóng vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của giáo viên mầm
non, theo Jean Vial (1968) phương pháp dạy học tích cực có ba tiêu chuẩn chủ yếu:
hoạt động, tự do, tự giáo dục [7]. Để có kiến thức mới, trẻ phải được tự hoạt động,


11

được quan sát trên đối tượng, tự do phát huy sáng kiến, tự lựa chọn con đường đi tới
kiến thức. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới đáp ứng các nhu cầu đó, đồng thời
phát huy tinh thần chủ động, tăng cường tính tự chủ, sự phát triển và hoàn thiện nhân
cách của trẻ. Phương pháp dạy học tích cực là công cụ để hướng đến thực hiện quan
điểm “dạy học lấy trẻ làm trung tâm”, bởi vì đặc trưng của phương pháp dạy học tích
cực là: dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập cho trẻ, chú trọng rèn luyện
khả năng tự học, tăng cường học tập cá thể và phối hợp với học tập hợp tác nhóm. Với
cách học này, vai trò của giáo viên không hề giảm nhẹ, trái lại nó đòi hỏi ở giáo viên
trình độ lành nghề, óc sáng tạo, sự linh hoạt,… để đóng vai người khởi xướng, động
viên, xúc tác, trợ giúp, cố vấn [4]. Điều này thể hiện ngay ở việc lựa chọn phương

pháp dạy học của giáo viên, bởi vì chính phương pháp dạy học sẽ quyết định sự say
mê, hứng thú, tò mò, tích cực tìm hiểu, chủ động đưa ra vấn đề và cách giải quyết vấn
đề, phát triển tối đa năng lực khám phá cho trẻ trên cơ sở cho trẻ tự học trên trải
nghiệm của chính mình, bằng thử và sai,… [4]. Nói như Phan Thị Thu Hiền, chuyên
gia về giáo dục đầu đời tại Việt Nam khi trả lời tư vấn trực tuyến về “Phương pháp
Giáo Dục Vượt Trội cho trẻ từ 0 – 11 tuổi”, ngày 13/6/2013: “Các nhà giáo dục đều
phải thừa nhận một điều rằng cách tiếp cận tốt nhất để giáo dục trẻ 0 -11 tuổi đó là lấy
trẻ làm trung tâm và ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực để thúc đẩy sự phát
triển tính chủ động, khả năng tư duy phản biện và giải quyết vấn đề cho trẻ. Các cách
tiếp cận tốt thường thể hiện tính tích hợp cao và kết nối việc học với thực tế đời sống
của trẻ…” [47].
Nhìn chung, dạy học “lấy giáo viên làm trung tâm” của chương trình trước đây
đã được kế thừa và phát triển thành chương trình học với quan điểm tích cực hơn “lấy
người học làm trung tâm”. Với cách tiếp cận của chương trình giáo dục mầm non mới,
giáo dục không chỉ hướng đến mục tiêu gần là giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm,
thẩm mỹ, kỹ năng xã hội, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một [4], mà còn nhằm đến một mục
tiêu xa hơn là hình thành ở trẻ khả năng thích ứng và luôn biết cách tự làm mới kiến
thức, kỹ năng của bản thân trong quá trình học tập và phát triển [13]. Sự thay đổi của
giáo dục mầm non Việt Nam là một biểu hiện tích cực trong nhận thức, các nhà giáo
dục nhận thức được sự tất yếu phải thay đổi cách học, phương pháp dạy học để cho ra


12

đời thế hệ trẻ năng động của thế kỷ XIX, kịp thời đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuy nhiên,
quan điểm “dạy học lấy trẻ làm trung tâm” và “dạy học tích hợp” trong chương trình
giáo dục mầm non mới đã khiến cho giáo viên và cán bộ quản lí ngành mầm non
không khỏi lung túng, hiểu chương trình là một vấn đề không đơn giản và vận dụng
vào thực thế càng gặp nhiều khó khăn hơn. Theo kết quả nghiên cứu của TS. Lê Thu
Hương - nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chất lượng & Phát triển chương

trình Giáo dục Mầm non: Từ 11,4% đến 30% giáo viên thấy khó khăn khi lập kế hoạch
chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo viên mầm non mới; 11,1% đến 27%
giáo viên thấy khó khăn khi xây dựng và tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động như: tổ
chức môi trường hoạt động an toàn cho trẻ, tổ chức môi trường hoạt động mang tính
mở, kích thích trẻ tích cực hoạt động và sáng tạo,… [11]. Trần Thị Kim Thoa - Hiệu
trưởng Trường mầm non 11, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh cho biết:
Việc áp dụng chương trình giáo dục mầm non mới đòi hỏi giáo viên phải năng
động, sáng tạo, phải biết xây dựng các hoạt động phù hợp với trẻ. Và các hoạt
động đó phải khơi gợi được hứng thú và kích thích trẻ hoạt động tích cực. Tuy
nhiên khi giáo viên, nhất là giáo sinh thực tập soạn một đề tài cho hoạt động một
ngày hay một tuần theo chủ đề thường có hai xu hướng. Nếu giáo viên thiên về
khám phá khoa học thì bỏ sót kỹ năng sống cho trẻ, ít dạy xúc cảm và tình cảm.
Nếu giáo viên dạy theo tăng cường tính thoải mái, tự do cho trẻ thì bỏ sót tính kỹ
năng bộ môn [48].
Đồng thời, hiệu trưởng của một số trường mầm non thực hiện chương trình giáo
viên mầm non mới cũng thừa nhận là chương trình rất hay nhưng khi áp dụng vào thực
tế thì không đơn giản chút nào. Áp lực vì sĩ số học sinh, cơ sở vật chất chưa tương
xứng và đặc biệt là phương pháp dạy của giáo viên vẫn không thoát ra được kiểu dạy
truyền thụ một chiều. Nhiều giáo viên vẫn hay áp đặt trẻ phải làm theo ý mình mà
không hề quan tâm đến tình cảm của trẻ, vô tình giáo viên đã làm tổn thương trẻ…
[48]. Nguyên nhân của vấn đề trên có thể lí giải với một số lý do sau: giáo viên có
trình độ chuyên môn kém nên chưa bắt kịp tinh thần của chương trình, hay từ rất lâu
giáo viên đã hình thành cho bản thân một lối mòn trong tư duy, suy nghĩ và cả cách
làm, cho nên xuất hiện quan điểm bảo thủ, khó chấp nhận sự thay đổi,…


13

Xâu chuỗi lại tất cả vấn đề, chúng tôi nhận thấy chúng ta đã đi được bước đầu
tiên trên chặng đường đổi mới giáo dục mầm non và chặng đường đầu tiên bao giờ

cũng rất khó khăn, điều này thể hiện ở sự hạn chế về phương pháp và hình thức dạy
học tích cực của giáo viên mầm non. Sự thiếu sáng tạo và cập nhật phương pháp mới
sẽ dẫn đến sự nghèo nàn trong cách tổ chức hoạt động, dẫn đến nhiều khó khăn cho
giáo viên trong việc thực hiện tinh thần đổi mới giáo dục mầm non. Vấn đề đặt ra là
cần có những phương pháp hay mô hình dạy học phù hợp với tinh thần đổi mới, tạo
điều kiện cho giáo viên dễ dàng trong thực hiện chương trình và trẻ được học tập tốt
nhất. Một trong những mô hình chúng tôi đặc biệt quan tâm là những mô hình giáo
dục mầm non nổi tiếng trên thế giới, những mô hình thể hiện quan điểm “dạy học
hướng vào người học và dạy học tích hợp”, đặc biệt là chưa được nghiên cứu tại Việt
Nam. Với những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn mô hình dạy học theo dự án của
Lilian G. Katz (Mỹ), đây là một trong những mô hình dạy học hiện đại và đang được
áp dụng tại nhiều nước trên thế giới [28], [33]. Dạy học theo dự án là những trải
nghiệm học tập trong một thời gian dài, nhấn mạnh tính tích hợp (liên môn) và lấy trẻ
làm trung tâm. Việc sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học tích cực (đặt vấn đề,
hợp tác nhóm, tìm kiếm – phát hiện,…) khi tổ chức dự án tạo động cơ và hứng thú học
tập cho trẻ. Trẻ trở nên tích cực, chủ động khi tham gia hoạt động và càng tích cực hơn
khi trẻ được tự làm mọi thứ trong quá trình học. Dạy học theo dự án nhấn mạnh yếu tố
cá nhân hay nhóm trẻ hợp tác tạo ra một sản phẩm nào đó thể hiện những điều trẻ đã
và đang học [9]. Có thể thấy đặc điểm của mô hình dạy học theo dự án rất phù hợp với
quan điểm dạy học trong chương trình giáo dục mầm non của chúng ta. Để chứng
minh điều này chúng ta cần có một công trình nghiên cứu, hiện nay đã có một số công
trình nghiên cứu về dạy học dự án như: Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh Nga
(2009) về “Tổ chức dạy học theo dự án một số kiến thức thuộc phần: “Từ trường cảm
ứng điện từ” - học phần Điện và Từ đại cương cho sinh viên ngành kỹ thuật trường
Đại học Giao thông” [18]; Hoàng Thị Nguyên (2011), đề tài “Vận dụng phương pháp
dạy học dự án vào dạy học chương “Các định luật bảo toàn” (lớp 10 nâng cao)” [19];
Nguyễn Đăng Thuấn (2010), đề tài “Vận dụng mô hình dạy học dự án vào dạy học
chương “các định luật bảo toàn” - vật lý trung học phổ thông nhằm phát huy tính tích



14

cực, tự lực và kỹ năng làm việc theo nhóm của học sinh” [29];… Tuy nhiên, các công
trình trên đều thuộc bậc trung học cơ sở, đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình
nào tại Việt Nam nghiên cứuvề mô hình dạy học dự án của Lilian Katz ở bậc học mầm
non. Điều này làm chúng tôi thú vị và rất mong muốn được nghiên cứu trên diện rộng,
tuy nhiên với qui mô của một luận văn thạc sĩ nên chúng tôi chỉ nghiên cứu trên quê
hương của mình nhằm mục đích tìm ra sự phù hợp với chương trình và điều kiện giáo
dục mầm non tại tỉnh.
1.2. Cơ sở lí luận về việc thử nghiệm mô hình dạy học theo dự án với trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi
1.2.1. Một số khái niệm công cụ
1.2.1.1. Khái niệm về dạy học tích hợp trong giáo dục mầm non
Trong xu hướng phát triển hiện nay, có nhiều cách tiếp cận mới như tiếp cận
mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục trẻ. Một trong những cách tiếp
cận mới được đề cập và ứng dụng phổ biến trong thực tiễn giáo dục mầm non là tiếp
cận tích hợp theo chủ đề [12]. Tiếp cận tích hợp theo chủ đề được hiểu là cách thức
cung cấp sự định hướng mở, linh hoạt, cho phép giáo viên tổ chức các hoạt động xoay
quanh chủ đề bằng cách phối hợp một cách tự nhiên những hoạt động cho trẻ trải
nghiệm như quan sát, tìm hiểu môi trường tự nhiên – xã hội, vận động, tham gia trò
chơi, làm quen với âm nhạc, hát, kể chuyện, đọc thơ, làm quen với toán và các hoạt
động sáng tạo như vẽ, tô màu, nặn, gấp giấy, cắt, dán, xây dựng, lắp ghép... qua đó
phát triển ở trẻ các mặt ngôn ngữ, thể lực, nhận thức, tình cảm, xã hội. Cách tiếp cận
này cho phép giáo viên có thể điều chỉnh giáo án một cách linh hoạt, có thể đưa các
tình huống xảy ra tình cờ, ngẫu nhiên vào kế hoạch dạy học, đáp ứng sự hứng thú của
trẻ và tạo không khí sinh động trong lớp học. Khác với môn học, đặc điểm của tiếp cận
theo chủ đề là chỉ đưa ra một khung có tính chất mở, gợi ý để từ đó giáo viên tiếp tục
thiết kế cho phù hợp với các nhu cầu, hứng thú của trẻ, làm phong phú dần vốn kinh
nghiệm của trẻ [15].
Giáo dục tích hợp theo chủ đề dựa trên quan điểm tiến bộ lấy trẻ làm trung tâm,

khai thác tiềm năng vốn có của trẻ. Giáo dục cần dựa vào đặc điểm cá nhân, phù hợp
với hứng thú, nhu cầu, nguyện vọng và năng khiếu trên tinh thần tự do, tự nguyện, chủ


15

động tích cực tham gia hoạt động của đứa trẻ. Giáo dục tích hợp ở bậc Mầm non chính
là quá trình tác động sư phạm một cách phù hợp với sự phát triển tình cảm, đạo đức và
trí tuệ của trẻ. Trẻ được tham gia vào nhiều hoạt động theo chủ đề nhằm cung cấp cho
trẻ cơ hội được học tập và luyện tập để trở thành “nhà nghiên cứu”, trẻ tích cực, năng
động trong việc tìm hiểu, khám phá, kích thích trẻ tư duy tích cực, vận dụng các kiến
thức, kĩ năng để lựa chọn và đưa ra quyết định trong hoàn cảnh có ý nghĩa đối với
cuộc sống thực của chúng. Giáo dục tích hợp trong giáo dục mầm non cần được hiểu
và thể hiện trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Xây dựng chương trình giáo dục
mầm non không xuất phát từ lôgíc phân chia các bộ môn khoa học như ở phổ thông
mà phải xuất phát từ yêu cầu hình thành những năng lực chung nhằm hướng tới sự
phát triển toàn diện cho trẻ [15].
Tóm lại, ở bậc học Mầm non, bậc học nền tảng đối với sự phát triển tư duy, trí
tuệ và nhân cách của đứa trẻ, dạy học tích hợp càng đóng vai trò quan trọng. Quan
điểm tích hợp trong giáo dục mầm non là nhìn nhận thế giới tự nhiên, xã hội và con
người như một thể thống nhất. Tích hợp không chỉ là đặt cạnh nhau, liên kết với nhau
mà là sự xâm nhập, đan xen, lồng ghép các đối tượng hay các bộ phận của một đối
tượng vào nhau, tạo thành một chỉnh thể. Trong đó những giá trị của từng bộ phận
được bảo tồn và phát triển mà đặc biệt là ý nghĩa thực tiễn của toàn bộ chỉnh thể đó
được nhân lên [14], [15].
1.2.1.2. Khái niệm về phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp nói chung là một khái niệm rất trừu tượng vì nó không mô tả
những trạng thái, những tồn tại tĩnh trong thế giới hiện thực, mà chủ yếu mô tả phương
pháp vận động trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Thuật
ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là: “méthodos” – nguyên văn là cách

thức, con đường đi tới một cái gì đó, đạt tới mục đích nào đó. Về mặt Triết học, có hai
định nghĩa phổ biến về phương pháp [13]:
- Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới mục đích nhất
định, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định trong nhận thức và thực tiễn.
- Phương pháp là hình thức vận động bên trong của nội dung.


16

Trong tài liệu về Lý luận dạy học, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương
pháp dạy học. Mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh nào đó, phản ánh sự phát
triển nhận thức của các nhà khoa học. Tuy chưa có sự thống nhất nhưng các tác giả
đều thừa nhận phương pháp dạy học có những đặc trưng sau [13]:
- Phương pháp dạy học phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của
người học và cách thức điều khiển nó nhằm đạt được mục đích đề ra.
- Phương pháp dạy học phản ánh cách thức tương tác giữa Thầy và Trò.
- Phương pháp dạy học phản ánh sự vận động của nội dung dạy học.
Phương pháp dạy học là phương pháp được xây dựng và vận dụng vào một hoạt
động cụ thể - hoạt động dạy học. Hoạt động dạy học bao gồm hai hoạt động có mối
quan hệ thống nhất biện chứng với nhau: hoạt động dạy của giáo viên đóng vai trò chủ
đạo, hoạt động học của người học đóng vai trò chủ động. Vì vậy, nói đến phương pháp
dạy học là nói đến tổ hợp cách thức làm việc của giáo viên và người học.
Từ đó, có thể nêu khái niệm: Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động
tương tác, phối hợp, thống nhất của giáo viên và người học trong hoạt động dạy học,
được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
dạy học.
Theo xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay, dạy học tích cực – “lấy người học
làm trung tâm” là một kiểu dạy học chi phối tất cả các yếu tố cúa hoạt động dạy học,
trong đó có phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
cao độ tính tích cực học tập của người học là làm thế nào để người học thực sự tự giác,

tích cực, hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập thực
chất không phải là sự thay thế các phương pháp dạy học truyền thống bằng các
phương pháp dạy học mới. Về bản chất đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách
tiến hành các phương pháp, đổi mới phương tiện và hình thức triển khai phương pháp
trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp dạy học truyền thống và
vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tối đa tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của người học.


17

Trong thực tiễn dạy học ở nhà trường hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến các
phương pháp dạy học truyền thống theo hướng kết hợp các phương pháp dạy học khác
nhau, góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của người học. Tuy nhiên, để thực sự
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập cần coi trọng
việc sử dụng phối hợp các “phương pháp dạy học tích cực” [13].
Vậy phương pháp dạy học tích cực là gì? Phương pháp dạy học tích cực có thể
được hiểu là hệ thống những phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tâp trung vào người dạy [13].
Theo tác giả Trần Bá Hoành, phương pháp dạy học tích cực phải có những đặc điểm
cơ bản sau [13]:
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của người học. Trong phương pháp
dạy học tích cực, người học – đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể của
hoạt động học – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ
đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa biết chứ không phải thụ
động tiếp thu những kiến thức đã được giáo viên sắp sẵn.
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Phương pháp dạy học tích

cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho trẻ không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Áp dụng phương
pháp dạy học tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ và tiến độ hoàn
thành nhiệm vụ học tập. Áp dụng phương pháp dạy học tích cực ở trình độ càng cao
thì sự phân hóa ngày càng lớn, điều này rất có ý nghĩa với việc phát triển năng lực cá
nhân trẻ. Tuy nhiên, phương pháp dạy học tích cực cũng thể hiện ở hình thức hợp tác
nhóm, đây là môi trường thuận lợi để trẻ phát triển các kỹ năng cần thiết qua thảo luận,
tranh luận, nêu ý kiến cá nhân, khẳng định hay bác bỏ,... qua đó người học nâng mình
lên một trình độ mới.
- Kết hợp đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của người học. Trước đây giáo
viên độc quyền đánh giá trẻ. Trong phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải


×