BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Nguyên Hảo
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP
SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
VỚI TRẺ Ở THỊ XÃ DĨ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Nguyên Hảo
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP
SƯ PHẠM CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
VỚI TRẺ Ở THỊ XÃ DĨ AN
Chuyên ngành
: Giáo dục học (Mầm non)
Mã số
: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ XUÂN HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên này là do chính tôi thực hiện. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong công
trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự khiếu nại, tố cáo
bản quyển tác giả.
Học viên
Bùi Thị Nguyên Hảo
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá Cao học Giáo dục học (mầm non) khoá 2011 – 2013,
ngoài những nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được sự quan tâm, động viên, hỗ trợ
của rất nhiều người. Tôi xin chân thành cảm ơn đến:
Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, Phòng Sau Đại học,
Khoa Giáo dục Mầm non của trường và toàn thể giảng viên giảng dạy khoá Cao
học mầm non K1. Trường và Khoa đã tổ chức khoá học để chúng tôi có điều kiện
nâng cao và hoàn thiện tri thức của mình. Quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy và
hướng dẫn chúng tôi trong suốt khoá học.
Xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc TS. Lê Xuân Hồng, cô là người hướng dẫn
khoa học cho đề tài của tôi. Xin chân thành cảm ơn và tỏ lòng tri ân về tất cả sự
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài.
Ban giám hiệu trường Đại học Thủ Dầu Một, Khoa khoa học giáo dục của
trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khoá học.
Phòng giáo dục Thị xã Dĩ An cùng Ban Giám hiệu và giáo viên các trường:
MN Hoa Hồng 1, MN Hoa Hồng 2, MG Hoa Hồng 3, MN Hoa Hồng 4, MG Hoa
Hồng 5, MN Hoa Hồng 6, MG Anh Đào, MN Võ Thị Sáu đã nhiệt tình cộng tác
trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Cùng tất cả các bạn bè đã giúp tôi rất nhiều trong quá trình học và thực
hiện đề tài của tôi.
Bình Dương, tháng 9 năm 2013
Học viên
Bùi Thị Nguyên Hảo
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN ...........................................................................................................2
MỤC LỤC .................................................................................................................3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .....................................................................5
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 6
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................. 8
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.......................................................................... 8
5. Giả thuyết khoa học ................................................................................................... 8
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu............................................................................... 9
7. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP
SƯ PHẠM ...............................................................................................................11
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................... 11
1.1.1. Ở nước ngoài .................................................................................................... 11
1.1.2. Ở Việt Nam ...................................................................................................... 12
1.2. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng giao tiếp sư
phạm .............................................................................................................................. 16
1.2.1. Kỹ năng ............................................................................................................ 16
1.2.2. Giao tiếp và kỹ năng giao tiếp ......................................................................... 20
1.2.3. Kỹ năng giao tiếp sư phạm............................................................................... 24
1.2.4. Giao tiếp sư phạm của người giáo viên mầm non ........................................... 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM CỦA GIÁO
VIÊN MẦM NON VỚI TRẺ Ở THỊ XÃ DĨ AN .................................................46
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu ....................................................... 46
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu .......................................................................... 46
2.1.2. Khách thể nghiên cứu....................................................................................... 47
2.2. Khái quát về quá trình nghiên cứu thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của
giáo viên mầm non với trẻ ở Thị xã Dĩ An................................................................. 48
3
2.2.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 48
2.2.2. Khách thể nghiên cứu....................................................................................... 48
2.2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 48
2.2.4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 48
2.3. Kết quả thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ
ở Thị xã Dĩ An. ............................................................................................................. 54
2.3.1. Nhận thức của giáo viên mầm non về sự cần thiết của kỹ năng giao tiếp sư
phạm. .......................................................................................................................... 54
2.3.2. Đánh giá về kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ trong
hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ ........................................................................... 59
2.3.3. Những khó khăn giáo viên mầm non gặp phải trong quá trình giao tiếp sư
phạm với trẻ ............................................................................................................... 84
2.3.4. Nguyên nhân của thực trạng KNGTSP của GVMN với trẻ ở Thị xã Dĩ An ... 90
2.4. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo
viên mầm non ở Thị xã Dĩ An ..................................................................................... 97
2.4.1. Cơ sở của việc đề xuất biện pháp ..................................................................... 97
2.4.2. Đề xuất một số biện pháp tác động .................................................................. 98
2.4.3. Kết quả khảo sát tính khả thi của các biện pháp nâng cao KNGTSP cho
GVMN...................................................................................................................... 103
KẾT LUẬN CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM .........................................109
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................113
PHỤ LỤC ..............................................................................................................116
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL
:
Cán bộ quản lý
ĐTB
:
Điểm trung bình
GDMN
:
Giáo dục mầm non
GT
:
Giao tiếp
GTSP
:
Giao tiếp sư phạm
GV
:
Giáo viên
GVMN
:
Giáo viên mầm non
KN
:
Kỹ năng
KNĐH
:
Kỹ năng định hướng
KNĐK
:
Kỹ năng điều khiển
KNĐV
:
Kỹ năng định vị
KNGT
:
Kỹ năng giao tiếp
KNGTSP :
Kỹ năng giao tiếp sư phạm
TLH
Tâm lý học
:
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là một hiện tượng rất đặc trưng của xã hội loài người, là điều kiện tất yếu,
không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Con người không thể sống, lao động, thỏa
mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình mà không có giao tiếp với người khác.
Từ khi mới sinh ra ta đã bước vào các mối quan hệ đa dạng với thế giới xung quanh, nhờ
vào giao tiếp mà con người tiếp thu được các chuẩn mực xã hội, nhận thức được người
khác và bản thân. Mặt khác, mối quan hệ trong giao tiếp cũng làm đời sống con người
thêm phong phú hơn. Giao tiếp là điều kiện thiết yếu của sự tồn tại đối với con người và
là một trong các nguồn gốc quan trọng của sự phát triển tâm lý con người. Karl Marx đã
khẳng định: “Bản chất con người không phải cái gì trừu tượng, tồn tại riêng biệt; trong
tính riêng biệt của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hộii”. [5]
Giao tiếp không chỉ quan trọng đối với cuộc sống con người nói chung mà nó còn
ảnh hưởng rất lớn việc hình thành nhân cách nghề nghiệp. Đối với nghề giáo viên, giao
tiếp vừa có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách người giáo viên
vừa là một bộ phận cấu thành hoạt động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc
năng lực sư phạm của người giáo viên. Đồng thời giao tiếp của giáo viên với học sinh là
con đường giúp giáo viên truyền đạt những kiến thức đến với học sinh, đặc biệt nó có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách…của học sinh, và hơn
hết là trẻ mầm non. Với trẻ mầm non, cô giáo là người có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với
trẻ: cô giáo chính là khuôn mẫu, là chuẩn mực để trẻ bắt chước và noi theo, vì vậy không
khó để ta bắt gặp những cử chỉ, hành động, lời nói…mà trẻ hay bắt chước cô giáo của trẻ.
Như ta biết, hiện tượng khủng hoảng tuổi lên ba là thời kỳ mà tiền đề nhân cách của đứa
trẻ bắt đầu xuất hiện (sự tự ý thức). Và từ đây, mọi phẩm chất nhân cách của đứa trẻ chỉ
được hình thành trong giao tiếp với người xung quanh, chính trong giao tiếp trẻ lĩnh hội
những yêu cầu, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội về cách ứng xử cho phù hợp với
6
các mối quan hệ xã hội, biết tự đánh giá mình và đánh giá người khác, cũng như biết rèn
luyện những phẩm chất nhân cách để được mọi người chấp nhận.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Điều 22 Luật giáo dục (2005) đã xác định: “Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển
về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ vào lớp một”. Và để đạt được mục tiêu đó thì giáo viên mầm non là một
trong những nhân tố quyết định trực tiếp. Điều này đòi hỏi GVMN phải có năng lực sư
phạm, cần phải có những kiến thức và kỹ năng cần thiết, trong đó KNGTSP là một trong
những KN ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục. Bên cạnh đó, theo điều 7 – chương II
về “Các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp GVMN“ cũng đã cho ta thấy rõ: KNGTSP của
GVMN là một trong những yêu cầu của nghề và cũng là một trong những tiêu chí đánh
giá năng lực của GVMN.
Nghề GVMN là nghề lao động rất đặc biệt, là một nghề đa năng, đòi hỏi người GV
phải có nhiều kỹ năng khác nhau, không chỉ là cô mà còn là mẹ, bác sĩ, họa sĩ, nghệ sĩ…
đặc biệt là người bạn của trẻ. Trong suốt quá trình lao động luôn có sự tương tác giữa cô
và trẻ, trẻ với trẻ, cô với cô, cô với phụ huynh… Trên thực tế cho thấy GVMN có KNGT
tốt sẽ thiết lập được mối quan hệ, ứng xử hợp lý với trẻ, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng
đồng,... Mối quan hệ này không chỉ giúp cho giáo viên có nhiều thuận lợi trong việc thực
hiện các nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ, mà còn là một trong những điều kiện thực hiện
thắng lợi mục tiêu giáo dục đã đề ra. Song bên cạnh đó cũng có không ít giáo viên còn
hạn chế về KNGTSP đặc biệt là KNGTSP giữa cô với trẻ như: Cô còn hạn chế về thái độ,
cách thức giao tiếp, ứng xử với trẻ… cô chưa gần gũi để hiểu được nhu cầu của trẻ. Thời
gian gần đây, một hồi chuông báo động về nạn bạo hình trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ lứa
tuổi mầm non đang được dư luận hết sức quan tâm, thậm chí có những bé hằng ngày đến
trường lại thường bị những lời la mắng, đánh đập từ chính cô giáo của mình. Những điều
này đã ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng của việc tổ chức các hoạt động chăm sóc
giáo dục trẻ. Tuy nhiên để có được KNGT tốt với trẻ là vấn đề đầy khó khăn và thách
thức đối với đa số GVMN hiện nay. Do đó, việc rèn luyện nâng cao KNGTSP của
GVMN với trẻ là vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm, bởi đây là một trong những yêu cầu
7
quan trọng của ngành học và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của ngành học, đáp
ứng yêu cầu của xã hội.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng kỹ năng
giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ ở Thị xã Dĩ An” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ ở Thị
xã Dĩ An. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng kỹ năng giao
tiếp sư phạm cho giáo viên mầm non ở Thị xã Dĩ An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp sư
phạm, đặc điểm hoạt động sư phạm của giáo viên mầm non, giao tiếp sư phạm trong hoạt
động chăm sóc và giáo dục trẻ của giáo viên mầm non, yêu cầu về kỹ năng giao tiếp
trong chuẩn giáo viên mầm non.
- Khảo sát thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm trong hoạt động chăm sóc và giáo
dục của giáo viên mầm non với trẻ ở Thị xã Dĩ An.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo viên
mầm non ở Thị xã Dĩ An.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ tại một số trường mầm
non trên địa bàn Thị xã Dĩ An.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ ở Thị xã Dĩ An.
5. Giả thuyết khoa học
Giáo viên mầm non ở Thị xã Dĩ An đã có kỹ năng giao tiếp sư phạm với trẻ nhưng vẫn
còn những hạn chế trong giao tiếp sư phạm giữa giáo viên mầm non với trẻ. Nếu nghiên
8
cứu và đánh giá đúng thực trạng KNGTSP của giáo viên mầm non với trẻ thì sẽ đưa ra
được những giải pháp góp phần nâng cao kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo viên ở Thị
xã Dĩ An.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu một số kỹ năng giao tiếp sư phạm của GVMN như: kỹ
năng định hướng, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp.
Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ mẫu giáo ở
một số trường mầm non Thị xã Dĩ An.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tham khảo các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí chuyên ngành về các vấn
đề liên quan, từ đó hệ thống và khái quát hóa các khái niệm công cụ làm cơ sở lý luận
cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát một số hoạt động của cô và trẻ ở trường mầm non để tìm
hiểu rõ hơn về thực trạng KNGTSP của giáo viên mầm non với trẻ.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp chính của đề tài. Sử dụng bảng câu hỏi để tìm hiểu ý kiến
của giáo viên mầm non, cán bộ quản lý các trường mầm non về:
- Nhận thức của giáo viên về vai trò của KNGTSP
- Tự đánh giá về KNGTSP của giáo viên mầm non.
- Những khó khăn trong quá trình giao tiếp sư phạm của GVMN với trẻ.
- Những nguyên nhân ảnh hưởng đến KNGTSP của giáo viên mầm non.
- Đề xuất của giáo viên mầm non đối với nhà trường và bản thân trong việc nâng
cao KNGTSP cho giáo viên.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn
9
Tiến hành phỏng vấn một số giáo viên và cán bộ quản lý trường mầm non, phụ
huynh học sinh nhằm tìm hiểu thực trạng KNGTSP của giáo viên mầm non với trẻ, đặc
biệt là nguyên nhân của thực trạng và đề xuất các biện pháp cần thực hiện để nâng cao
KNGTSP cho GVMN.
7.3. Phương pháp toán thống kê
Các số liệu thu được trong quá trình nghiên cứu được xử lý bằng toán thống kê theo
chương trình phần mềm SPSS for Windows 13.0.
Trong những phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu tài liệu và điều tra bằng
bảng hỏi là phương pháp nghiên cứu chính, còn lại là các phương pháp hỗ trợ.
10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG
GIAO TIẾP SƯ PHẠM
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
Giao tiếp là vấn đề đã được con người nghiên cứu từ thời cổ Hy Lạp. Tuy vậy, trước
thế kỷ XIX, giao tiếp chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc như một chuyên ngành tâm
lý học. Giao tiếp chỉ được một số nhà triết học nhắc đến như là sự phản ánh mối quan hệ
giữa con người và con người.
Trong thời kỳ cổ Hy Lạp Xôcơrat (470-399 trước công nguyên) và Platon (428-347
trước công nguyên) đã nói tới đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh các mối quan
hệ giữa con người và con người.
Đến thời kỳ phục hưng, nhà bác học kiêm nghệ sĩ thiên tài Ý Lêôna Đêvanhxi
(1452-1512) đã mô tả sự giao tiếp mẹ con.
Đến thế kỷ XVIII nhà triết học Hà Lan M.P Hemtexlôxin đã viết một tiểu luận dưới
tiêu đề: “Một bức thư về con người và các quan hệ của nó với người khác”. Trong đó có
đoạn: “Muốn xem xét con người trong xã hội một cách chút ít thành công thì phải bất đầu
chú ý nghiên cứu một cái cơ quan mà cho đến nay chưa có tên riêng, mà thường được gọi
là trái tim, tình cảm, lương tâm… Tương tự như cơ quan thính giác hay thị giác nếu
không có không khí thì không thể hoạt động được, trái tim và lương tâm con người chỉ
bộc lộ khi người ấy cùng sống với người khác”. [4]
Đến thế kỷ XIX, giao tiếp được đánh giá có tầm quan trọng đặc biệt trong sự hình
thành, phát triển bản chất xã hội của con người.
Nhà triết học Đức Phơ Bách (1804-1872) đã viết: “Bản chất con người chỉ biểu hiện
trong giao tiếp, trong sự thống nhất của con người với con người, trong sự thống nhất dựa
trên tính hiện thực của sự khác biệt giữa tôi và bạn”.
11
Giữa thế kỷ XIX, nhà tư tưởng, nhà kinh tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của
Hiệp hội Người lao động Quốc tế Các Mác (1818-1883). Trong “Bản thảo kinh tế - triết
học 1984”, Mác viết: “Bất cứ quan hệ nào của con người đối với bản thân mình đều chỉ
được thực hiện, biểu hiện trong quan hệ của con người, đối với những người khác”. [5]
Sang thế kỷ XX vấn đề giao tiếp ngày càng được các nhà triết học, tâm lý học, xã
hội học quan tâm nhiều như:
Một số công trình nghiên cứu của các nhà TLH Liên Xô (cũ) như: “Về bản chất
giao tiếp nghề” (1973) của Xacophin, “Tâm lý học về các mối quan hệ qua lại trong
nhóm nhỏ” (1976) của I.L.Kolominxki, “Tâm lý học giao tiếp” (1978) của
A.A.Leonchiev, “Giao tiếp trong tâm lý học” (1981) của K.Platonov, “Phạm trù giao tiếp
và hoạt động trong tâm lý học” của B.P.Lomov. [33]... Các công trình nghiên cứu trên
phần lớn nghiên cứu những vấn đề chung về GT như bản chất, cấu trúc, cơ chế, phương
pháp luận nghiên cứu GT, mối quan hệ giữa nghiên cứu và hoạt động…
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu giao tiếp với nhân cách như: “Nhân cách
trong cấu trúc giao tiếp sư phạm” (1980) của Pơlotnhicova, “Những trở ngại tâm lý trong
giao tiếp giữa các nhân cách (1985) của Sakanova… [23,tr14]
Ngoài ra còn có một số tác giả có những nghiên cứu về các dạng giao tiếp nghề
nghiệp, trong đó có giao tiếp sư phạm là một loại giao tiếp nghề nghiệp được nhiều nhà
TLH quan tâm nghiên cứu như: A.A.Leonchiev với “Giao tiếp sư phạm” (1979),
A.V.Petropxki với “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm”, V.A.Krutetxki với
“Những cơ sở của tâm lý học sư phạm” (1980), Ph.N.Gonobolin với “Những phẩm chất
tâm lý của người giáo viên”. [33]
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1 Những nghiên cứu về giao tiếp
Ở Việt Nam vấn đề nghiên cứu giao tiếp chỉ được nghiên cứu từ những năm 1970
đến những năm 1980. Ngoài một vài bài lý luận như: “Các Mác và phạm trù giao tiếp”
của Đỗ Long (1963), phần lớn tập trung ở khoa tâm lý giáo dục trường Đại học sư phạm
12
Hà Nội I. Các bài của Trần Trọng Thủy như “Giao tiếp, tâm lý, nhân cách” (1981), “Giao
tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ” (1981), “Bàn về phạm trù giao tiếp” (1981) của
Bùi Văn Huệ, “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên sư phạm” (1985), “Nhập môn khoa học
giao tiếp” (2006) của Nguyễn Sinh Huy, Trần Trọng Thủy. Nguyễn Sinh Huy, Trần
Trọng Thủy (2006), Nhập môn khoa học giao tiếp, NXB…các luận văn, khóa luận của
sinh viên khoa tâm lý giáo dục về giao tiếp và giao tiếp sư phạm đã có nhiều, song đều
mới dừng lại ở thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên.
Hiện nay, GT cũng là một nội dung quan trọng được giảng dạy trong các trường
trường Cao đẳng, Đại học…trong “Giáo trình TLH xã hội – những vấn đề lý luận” của
Mai Thanh Thế, “Giao tiếp và ứng xử sư phạm” (1992) của tác giả Ngô Công Hoàn,
“Giao tiếp sư phạm” (1997) của tác giả Hoàng Anh, “Giáo trình giao tiếp sư phạm”
(2002) của Lê Thanh Hùng (Đại học An Giang), “Khoa học giao tiếp” (2002) của
Nguyễn Ngọc Lâm (Đại học mở TP HCM), “Ứng xử sư phạm” (2006) của Trịnh Trúc
Lâm, … đã đề cập đến khái niệm GT, chức năng, vai trò của GT, phong cách GT, hệ
thống GT, … cũng như nguyên tắc, quy trình ứng xử và các tình huống ứng xử trong
GTSP, cung cấp cái nhìn hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn trong GTSP. Đây là
cơ sở quan trọng góp phần giúp cho đề tài hình thành các vấn đề lý luận trong nghiên cứu
KNGTSP của GVMN. [3], [12], [21],[22]
Bên cạnh đó, một số luận án, luận văn nghiên cứu về GT và các vấn đề liên quan
như:
Luận án tiến sĩ TLH giáo dục “Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong
nhóm chơi không cùng độ tuổi” của Lê Xuân Hồng (1996) đã hệ thống các lý luận về GT
của trẻ, nghiên cứu việc tổ chức chơi và những ảnh hưởng qua lại giữa trẻ trong nhóm
chơi không cùng độ tuổi. Những nghiên cứu của đề tài giúp chúng tôi có cơ sở xem xét
đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo ở các lứa tuổi khác nhau. [17]
Luận án Tiến sĩ “Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp sư phạm” (1997) của
Nguyễn Thanh Bình đã khẳng định GTSP là một loại GT nghề nghiệp giữa giáo viên và
học sinh cần có sự tiếp xúc tâm lý, xây dựng bầu không khí thuận lợi nhằm tạo kết quả
13
tối ưu trong hoạt động dạy và hoạt động học. Qua đó, cho thấy GTSP có vị trí đặc biệt
quan trọng trong cấu trúc năng lực sư phạm. Đây là vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu
vấn đề GT và KNGTSP của GVMN. [20]
1.1.2.2. Những nghiên cứu về giao tiếp sư phạm, kỹ năng giao tiếp sư phạm trong
ngành giáo dục – giáo dục mầm non.
Ở nước ta, những năm gần đây vấn đề GTSP trong ngành GDMN mới bắt đầu được
quan tâm nghiên cứu với một số tác giả như:
-
Năm 1994 có “Những vấn đề về giao tiếp sư phạm mầm non” của Lê Xuân Hồng và
Vũ Thị Ngân biên dịch.
-
Năm 1997 có “Giao tiếp và ứng xử sư phạm (Dùng cho giáo viên mầm non)” của
Ngô Công Hoàn.
-
Năm 2000 có “Những kỹ năng sư phạm của giáo viên mầm non” của Lê Xuân Hồng
và một số tác giả biên dịch.
-
Năm 2004 có “Một số vấn đề về giao tiếp và giao tiếp sư phạm trong hoạt động của
giáo viên mầm non” của Lê Xuân Hồng.
-
Các tác giả đã đề cập đến vấn đề GT, ứng xử, GTSP, KNGTSP, những đặc điểm
phát triển nhu cầu giao tiếp của trẻ mầm non, đặc điểm GTSP của người lớn với trẻ,
những nguyên tắc và phương thức giao tiếp, ứng xử giữa cô và trẻ…Đây là những
cơ sở quan trọng góp phần giúp cho đề tài hình thành các vấn đề lý luận trong
nghiên cứu KNGTSP của GVMN.
Những năm cuối thế kỉ 20, ở trong nước đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu
vấn đề KNGT trong các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực sư phạm. Có thể kể đến
một số nghiên cứu như:
-
Luận án Tiến sĩ TLH “Kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên” (1992) của Hoàng
Thị Anh đã khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về GTSP và nghiên cứu thực
trạng KNGTSP theo các nhóm KN định hướng, KN định vị, KN điều khiển quá
trình giao tiếp… [4]
14
-
Các luận văn thạc sĩ nghiên cứu KNGTSP của sinh viên như: luận văn thạc sĩ TLH
“Kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo sinh người dân tộc trong trường trung học sư
phạm” (1995) của Lã Thị Thu Hà, “Tìm hiểu kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh
viên sư phạm” (1996) của Trịnh Thị Ngọc Thìn, “Tìm hiểu kỹ năng giao tiếp sư
phạm của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Hà Nội có nhu cầu giao tiếp khác
nhau” (1997) của Lê Minh Nguyệt, “Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp sư phạm của
sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Lạng Sơn” (1999) của Lô Thị Na, “Nghiên cứu
khả năng giao tiếp của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Sơn La” (2001) của Lò
Mai Thoan, “Kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúc
có nhu cầu giao tiếp ở mức độ khác nhau” (2001) của Phạm Văn Đại, “Kỹ năng
giao tiếp của sinh viên sư phạm trường Cao đẳng Cần Thơ” (2010) của Châu Thúy
Kiều, đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về GT, GTSP, KNGTSP và
nghiên cứu thực trạng KNGT, KNGTSP của sinh viên Cao đẳng sư phạm, từ đó đưa
ra một số biện pháp nhằm rèn luyện và nâng cao KNGTSP cho sinh viên Cao đẳng
sư phạm. [20]
-
Đặc biệt đã có một số luận văn nghiên cứu trong GDMN như: “Nghiên cứu một số
kỹ năng sư phạm của giáo viên mầm non” của Hồ Nguyễn Xuân Trang (2006),
“Thực trạng kỹ năng giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ ở Thành Phố
Cà Mau” của Bùi Khiếu Ngọc Lệ Hằng (2012) đã khái quát hóa những vấn đề lý
luận về KN, GT, KNGTSP và nghiên cứu thực trạng KNGTSP của GVMN với trẻ,
từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao KNGTSP cho GVMN ở Thành phố
Cà Mau.
Trong các công trình nghiên cứu trên, nhìn chung vấn đề KNGTSP được quan tâm
trên các khía cạnh khác nhau, với các khách thể và thời điểm nghiên cứu khác nhau đã
cho thấy tầm quan trọng của KNGTSP, đặc biệt KNGTSP trong ngành GDMN là vấn đề
cần thiết, đã và đang được quan tâm. Hơn hết cho đến nay chưa có công trình nào Nghiên
cứu KNGTSP của GVMN ở Thị Xã Dĩ An thuộc Tỉnh Bình Dương, một tỉnh thuộc miền
Đông nam bộ và là một trong những tỉnh phát triển mạnh về công nghiệp, điều này ảnh
15
hưởng rất lớn về giáo dục (số lượng dân nhập cư cao). Do đó, việc nghiên cứu kỹ năng
giao tiếp sư phạm của giáo viên mầm non với trẻ ở Thị Xã Dĩ An là rất cần thiết.
1.2. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng giao tiếp
sư phạm
1.2.1. Kỹ năng
1.2.1.1. Khái niệm kỹ năng
Theo từ điển tiếng việt, kỹ năng là “Thói quen áp dụng vào thực tiễn những kiến
thức đã học hoặc là kết quả của quá trình luyện tập”.
Trong tiếng Anh, kỹ năng được dịch “Skill”. Từ điển Oxford định nghĩa “Skill” là
khả năng tìm ra giải pháp cho một vấn đề nào đó và có được nhờ rèn luyện.
Khái niệm kỹ năng được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Trong lịch sử nghiên
cứu các vấn đề về KN, có nhiều tác giả đã đưa ra những quan điểm khác nhau về KN.
Trong TLH tồn tại hai quan điểm khác nhau về kỹ năng:
Theo quan điểm thứ nhất: xem KN như vấn đề kỹ thuật hành động. Đại diện cho
quan niệm này là các tác giả như:
V.X. Cudin, V.A.Krutetxki, A.G Covalio, Trần Trọng Thủy… ” kỹ năng là phương
tiện thực hiện hành động phù hợp với mục đích, điều kiện hoạt động mà con người đã
nắm vững mà không cần tính đến kết quả của hành động”. [37]
Theo quan điểm thứ hai: xem xét kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành
động mà còn biểu hiện về năng lực của con người. Đại diện cho quan niệm này là các tác
giả như:
Nhà tâm lý học người Nga A.V.Barabasicoov (1963) cho rằng: “KN là khả
năng sử dụng tri thức và các kỹ xảo của mình một cách có mục đích và sáng tạo trong
quá trình của hoạt động thực tiễn. Khả năng này là khả năng tự tạo của con người:.[2]
N.D Lêvitov, K.I Kixegof, K.K Platonop, G.G Golubev, Nguyễn Quang Uẩn,
Ngô Công Hoàn, Nguyễn Ánh Tuyết, Trần Quốc Thành thì kỹ năng chính là năng lực
16
một công việc có kết quả và chất lượng cần thiết và với thời gian tương ứng trong điều
kiện mới. [42,tr48]
Quan niệm thứ hai có chú ý đến kết quả của hành động. Để hình thành kỹ năng các
tác giả đã chỉ ra rằng: Khi dạy một hành động mới nào đó, lúc đầu phải xác định mục
đích của nó, sau đó chỉ ra và giúp người học hiểu được cách thực hiện hoạt động này,
trình tự thực hiện các hoạt động và cung cấp các biểu tượng về kỹ thuật hoàn thành chúng
[8]. Tri thức về mục đích của hoạt động, các khái niệm và các biểu tượng về các phương
thức đạt được mục đích đó cần được nắm vững trước khi hình thành các kỹ năng. Trong
quá trình hình thành kỹ năng, các khái niệm, các biểu tượng và các kỹ xảo đã có sẽ được
mở rộng hơn, trở nên sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn, có thêm các yếu tố mới cần thiết cho
việc hoàn thành hoạt động được lĩnh hội. Các kỹ năng chỉ được hình thành trong hoạt
động thực tiễn nhờ luyện tập và dạy học. Người có kỹ năng về hành động nào đó phải có
tri thức về hành động đó, hành động theo đúng yêu cầu và đạt kết quả trong mọi điều kiện
khác nhau. K.I. Platonov và G.G. Golubev cũng chú ý tới kết quả của hoạt động trong kỹ
năng. Theo họ, kỹ năng là năng lực của người thực hiện công việc có kết quả với một
chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới và những khoảng thời gian tương ứng.
Bất kỳ một kỹ năng nào cũng bao hàm trong nó cả biểu tượng, khái niệm, vốn tri thức, kỹ
xảo tập trung, tự kiểm tra, điều chỉnh quá trình hoạt động cũng như kỹ xảo hoạt động. Hai
ông cho rằng, trong quá trình hình thành kỹ năng các biểu tượng, khái niệm đã có sẽ được
mở rộng ra, được làm sâu sắc hơn và được “dày hơn nữa” bằng những nhân tố mới. Kỹ
năng không mâu thuẫn với vốn tri thức, kỹ xảo. Kỹ năng chỉ được hình thành trên cơ sở
của chúng. Như vậy, hai ông khẳng định rằng, trong việc hình thành kỹ năng bao hàm cả
việc thông hiểu mối quan hệ qua lại giữa mục đích hành động, các điều kiện và cách thức
hành động, trong cấu trúc của kỹ năng không chỉ bao hàm tri thức, kỹ xảo mà cả tư duy
sáng tạo. Sự vận hành kỹ năng là sự sử dụng tri thức để giải quyết nhiệm vụ nhất định.
Đó là loại kiến thức thao tác (theo E.I. Boico), là tri thức trong hành động. Kỹ năng
thường có liên quan đến khả năng vận dụng kinh nghiệm cũ trong việc thực hiện những
hoạt động mới trong điều kiện mới.
17
V.V Tsebucava khẳng định: “Các quá trình nhận thức trong học tập càng tích cực
bao nhiêu thì các kỹ năng, kỹ xảo càng hình thành nhanh chóng và hoàn thiện hơn bấy
nhiêu”. Vì vậy, nhà trường phải chú ý đúng mức đến chất lượng các kỹ năng cần hoàn
thiện.
Theo Levitov: “Người có kỹ năng hành động là phải nắm được và vận dụng đúng
đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả và để hình thành kỹ
năng con người không chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải biết vận dụng vào thực
tế”. [39] Bên cạnh đó, một số nhà khoa học Việt Nam cũng đưa ra khái niệm theo quan
điểm thứ hai:
Theo từ điển Tâm lý học của tác giả Vũ Dũng: “KN là năng lực vận dụng có kết quả
những tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những
nhiệm vụ tương ứng. Ở mức độ KN, công việc được hoàn thành trong điều kiện hoàn
cảnh không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác chưa thuần thục và còn phải tập trung
chú ý căng thẳng. KN được hình thành qua luyện tập”.[6]
Tác giả Lê Văn Hồng cho rằng: “KN là khả năng vận hành kiến thức (khái niệm,
cách thức, phương pháp…) để giải quyết một nhiệm vụ mới”. [2,tr97]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng: “KN là khả năng thực hiện có kết quả một hành
động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động
phù hợp với những điều kiện cho phép”. [33]
Tác giả Trần Thị Quốc Minh và một số tác giả khác xác định kỹ năng là sự thực
hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh
nghiệm đã có để hành động phù hợp với hoàn cảnh cho phép. Kỹ năng không chỉ đơn
thuần về mặt kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện năng lực của con người, muốn
hình thành phải luyện tập theo một quy trình nhất định. [26]
Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy, KN vừa là mặt kỹ thuật của hành
động, vừa là biểu hiện năng lực của con người. Cơ sở của KN là tri thức, kinh nghiệm đã
có từ trước. KN được hình thành do luyện tập.
18
Vì vây, trên cơ sở xem xét các quan niệm về kỹ năng như đã trình bày ở trên, đề tài
thống nhất sử dụng khái niệm của tác giả Huỳnh văn sơn cho rằng: “KN là khả năng thực
hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh
nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép”
1.2.1.2. Các mức độ và quá trình hình thành kỹ năng
Khi tìm hiểu về giai đoạn hình thành và phát triển KN, ta thấy mỗi nhà nghiên
cứu có một cách phân chia khác nhau. Nhưng đa phần các tác giả đều phân chia KN
thành năm mức độ từ KN ban đầu đến KN đạt ở mức hoàn hảo. Theo quan điểm của
V.P.Bexpalko, có năm mức độ như sau: [32]
Mức độ 1: Kỹ năng ban đầu
Người học đã có kiến thức về nội dung một dạng kỹ năng nào đó, và trong những
tình huống cụ thể khi cần thiết, sẽ có thể tái hiện được những thao tác, hành động nhất
định. Tuy nhiên, ở mức độ KN ban đầu này thì người học thường chỉ thực hiện được yêu
cầu của KN này dưới sự hướng dẫn của người dạy.
Mức độ 2: Kỹ năng mức thấp
Khác với ở mức 1, ở mức độ KN mức thấp, con người có thể tự thực hiện được
những thao tác, hành động cần thiết theo một trình tự đã biết. Song, ở mức độ KN này,
người học chỉ thực hiện được những thao tác, hành động trong những tình huống quen
thuộc và chưa di chuyển được sang những tình huống mới.
Mức độ 3: Kỹ năng trung bình
Ở mức độ này, con người tự thực hiện thành thạo các thao tác đã biết trong các tình
huống quen thuộc. Tuy vậy, việc di chuyển của các KN sang tình huống mới còn hạn chế.
Mức độ 4: Kỹ năng cao
Một sự khác biệt thể hiện KN ở mức độ cao là người học đã tự lựa chọn hệ thống
các thao tác, các hành động cần thiết trong các tình huống khác nhau. Bên cạnh đó, người
học đã biết di chuyển KN trong phạm vi nhất định.
Mức độ 5: Kỹ năng hoàn hảo
Đây là mức độ cao nhất của KN. Khi đó, con người nắm được đầy đủ hệ thống các
thao tác, hành động khác nhau, biết chọn lựa những thao tác, hành động cần thiết và ứng
19
dụng chúng một cách thành thạo trong các tình huống khác nhau mà không gặp khó khăn
gì.
Theo K.K. Platonov và G.G. Golubev thì KN được hình thành và phát triển qua năm
giai đoạn với năm hình thức biểu hiện và có cấu trúc tâm lý như sau:
Mức độ 1: Có KN sơ đẳng, hành động được thực hiện theo cách thử và sai, dựa trên
vốn hiểu biết và kinh nghiệm.
Mức độ 2: Biết cách thực hiện hành động nhưng không đầy đủ.
Mức độ 3: Có những KN chung nhưng còn mang tính chất rời rạc, riêng lẻ.
Mức độ 4: Có những KN chuyên biệt để hành động.
Mức độ 5: Vận dụng sáng tạo những KN trong các tình huống khác nhau.
Tác Giả Hoàng Thị Oanh cho rằng, KN được hình thành theo 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn nhận thức
Giai đoạn làm thử
Giai đoạn kỹ năng bắt đầu hình thành
Giai đoạn kỹ năng bắt đầu hoàn thiện. [1]
Bên cạnh đó, một số nhà tâm lý học như: Cruchetxki, Levitov, Petropxki, Phạm
Minh Hạc…cho rằng, quá trình hình thành kỹ năng gồm 3 bước:
Bước 1: Nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện hành động.
Bước 2: Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu.
Bước 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu, điều kiện hành
động nhằm đạt được mục đích đặt ra. [26, tr41]
Nhìn chung, vấn đề hình thành kỹ năng thì có rất nhiều nhận định khác nhau, nhưng
những nhận định trên đều xác định là KN được hình thành trong hoạt động. Từ đây cho
thấy, để hình thành kỹ năng thì điều quan trọng và cần thiết là ta phải nắm được các giai
đoạn hình thành KN. Riêng đối với KNSP của GV thì được hình thành và hoàn thiện
trong quá trình dạy học.
1.2.2. Giao tiếp và kỹ năng giao tiếp
1.2.2.1. Khái niệm giao tiếp
20
Giao tiếp là một trong những phạm trù trung tâm của tâm lý học. Tư tưởng về giao
tiếp được đề cập từ thời kỳ cổ đại, qua thời kỳ Phục hưng và đến giữa thế kỷ XX hình
thành nên một chuyên ngành tâm lý học giao tiếp. Có nhiều hướng nghiên cứu về vấn đề
giao tiếp từ các tác giả trong và ngoài nước, từ đó có rất nhiều quan điểm về giao tiếp, có
thể điểm qua một số quan điểm về giao tiếp như sau:
T.Chúc côn – nhà tâm lý học Mỹ xem giao tiếp như là một sự tác động qua lại trực
tiếp lên nhân cách và dẫn đến việc hình thành ý nghĩ, biểu tượng, chuẩn mực và mục đích
hành động.
T.Stecren – nhà tâm lý học pháp xem giao tiếp là sự trao đổi tình cảm, xúc cảm giữa
con người với nhau.
M.Acgain – nhà tâm lý học Anh xem giao tiếp như là một quá trình hai mặt của sự
thông báo, thiết lập sự tiếp xúc và trao đổi thông tin.
Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) có một số quan niệm về giao tiếp như sau:
L.X Vugotxky cho rằng giao tiếp là sự thông báo hoặc quan hệ qua lại một cách
thuần túy giữa người với người như là một sự trao đổi về quan điểm, về
cảm xúc.
X.L Rubinstein cho rằng giao tiếp là hình thức giao tiếp giữa con người với nhau.
A.G.Covaliop quan niệm rằng giao tiếp là sự giao thiệp bằng lời nói của một số
người với mục đích giải quyết một số vấn đề lý thuyết hay thực tiễn nào đó.
Ở Việt Nam, chúng tôi thấy có các khái niệm khác nhau về GT của một số tác giả
như sau:
- Tác giả Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành
các quan hệ người – người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội người ta với nhau”. [9]
- Tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng: “Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người
với con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp”. [13]
21
- Tác Giả Hoàng Anh cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý tạo nên quan hệ
giữa hai hoặc nhiều người với nhau, chứa đựng một nội dung lịch sử xã hội nhất định, có
nhiều chức năng tác động, hỗ trợ cùng nhau, thông báo, điểu khiển, nhận thức, hành động
và tình cảm… nhằm thực hiện một mục đích nhất định của một hoạt động nhất định”. [1]
- Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người
và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn
nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay nói khác đi giao tiếp là sự xác lập và
vận hành các quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này
với chủ thể khác”. [40,tr49]
- Theo tác giả Lê Xuân Hồng: “Giao tiếp có thể là một quá trình, trong đó con người
trao đổi với nhau các ý tưởng, cảm xúc, và thông tin nhằm xác lập và vận hành các mối
quan hệ giữa người với người trong xã hội vì những mục đích khác nhau”.
- Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn: “Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các mối
quan hệ xã hội giữa người và người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định và nhằm
mục đích nào đó”. [33]
Ngoài các tác giả trên, còn rất nhiều khái niệm về giao tiếp của các tác giả như:
Nguyễn Thạc, Trần Tuấn Lộ, Diệp Quang Ban, Đinh Trọng Lạc, Trần Trọng Thủy,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Hiệp, Vũ Dũng, Nguyễn Văn Đồng,
Nguyễn Khắc Viện.
Nhìn chung, các nhà tâm lý học trong và ngoài nước đều có điểm chung là đều công
nhận giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, trong đó có sự trao đổi tư tưởng,
tình cảm, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.
Qua xem xét các khái niệm về giao tiếp, theo quan điểm của người nghiên cứu,
chúng tôi chọn, sử dụng khái niệm của tác giả Huỳnh Văn Sơn: “Giao tiếp là hoạt động
xác lập và vận hành các mối quan hệ xã hội giữa người và người nhằm thỏa mãn những
nhu cầu nhất định và nhằm mục đích nào đó”.
Chúng tôi chọn khái niệm này vì:
- Khái niệm này nêu đặc trưng và bản chất của giao tiếp
- Nêu lên được tác động hai chiều của quan hệ chủ thể và đối tượng trong giao tiếp.
22
- Nêu rõ được chức năng của giao tiếp
1.2.2.2. Kỹ năng giao tiếp
Để giao tiếp tốt và đạt hiệu quả thì đòi hỏi ta phải có KNGT tốt, nói đến KNGT
thì cũng đã có nhiều quan niệm khác nhau về KNGT như:
Theo nhóm tác giả Michelson, Sugai, Wood và Kazdin (1983), họ tiếp cận theo
khía cạnh KN xã hội, nhóm tác giả cho rằng: ta có thể hiểu KNGT là KN được hình
thành thông qua giáo dục, rèn luyện bao gồm các hành vi ứng xử thích hợp bằng lời và
không lời trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao trong giao
tiếp với người khác. [33]
Theo tác giả Nguyễn Văn Đồng: “KNGT là năng lực vận dụng có hiệu quả những
tri thức về quá trình giao tiếp, về những yếu tố tham gia và tác động tới quá trình này
cũng như sử dụng có hiệu quả và phối hợp hài hòa các phương tiện giao tiếp ngôn ngữ,
phi ngôn ngữ và phương tiện kỹ thuật để đạt được mục đích đã định trong giao tiếp”. Như
vậy, KNGT bao gồm các yếu tố như tri thức về quá trình GT, chủ thể GT, môi trường
GT, mục đích GT…sử dụng phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn ngữ và phương tiện kỹ thuật
khác.
Nhóm tác giả Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc cho rằng: “KNGT là khả
năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và đoán biết tâm lý bên trong
của đối tượng và bản thân của chủ thể GT, là khả năng sử dụng hợp lý những phương tiện
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, biết cách tổ chức điều chỉnh, điều khiển quá trình GT nhằm
đạt mục đích GT”. [2, tr201]
Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn: “KNGT là khả năng vận dụng hiệu quả các tri thức và
kinh nghiệm về giao tiếp, các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ vào trong những
hoàn cảnh khác nhau của quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích GT”. [33]
Tham khảo các khái niệm về KNGT, chúng tôi nêu một định nghĩa về KNGT như
sau: KNGT là sự thực hiện có hiệu quả hoạt động giao tiếp, bằng cách vận dụng các tri
thức và kinh nghiệm về giao tiếp của bản thân trong quá trình giao tiếp nhằm đạt được
mục đích đề ra.
23