Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

tiến trình văn hóa của các dân tộc khmer, chăm, hoa ở vùng tây nam bộ từ năm 1802 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.25 MB, 162 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Diễm Thúy

TIẾN TRÌNH VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC
KHMER, CHĂM, HOA Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Diễm Thúy

TIẾN TRÌNH VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC
KHMER, CHĂM, HOA Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam.
Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHÚ VĂN HẲN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
được trích dẫn trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép
sử dụng. Công trình nghiên cứu này chưa từng công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Thị Diễm Thúy


LỜI CẢM ƠN.
Trước hết, Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô đã giảng dạy và
hướng dẫn khoa học trong thời gian tôi được đào tạo Cao học tại Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và Phòng Sau đại học Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh, Thư viện Trường, Thư viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi học tập và làm luận văn.
Tôi xin cảm ơn Trường Phổ thông Dân Tộc Nội Trú Quận ÔMôn đã tạo
điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học Cao học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phú Văn Hẳn đã tận tình
hướng dẫn, khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi không quên cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ,
động viên.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2014.
Tác giả


Lê Thị Diễm Thúy


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu. .............................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 2
3. Phương pháp nghiên cứu. ......................................................................... 3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài. ................................................. 4
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ....................................................................... 6
6. Bố cục đề tài. ........................................................................................... 10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................ 11
1.1. Một số khái niệm về văn hoá và lịch sử ........................................... 11
1.1.1. Về văn hóa. ..................................................................................... 11
1.1.2. Về lịch sử. ....................................................................................... 16
1.1.3. Quan hệ giữa lịch sử và văn hóa. .................................................... 17
1.2. Quá trình phát triển cộng đồng các dân tộc ở Tây Nam Bộ. .......... 19
1.2.1. Cộng đồng người Việt (Kinh). ........................................................ 19
1.2.2. Cộng đồng người Khmer. ............................................................... 22
1.2.3. Cộng đồng người Chăm. ................................................................. 25
1.2.4. Cộng đồng người Hoa. .................................................................... 30
Chương 2. VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC KHMER, CHĂM, HOA Ở TÂY
NAM BỘ TỪ NĂM 1802 ĐẾN 1975. .......................................................... 35
2.1. Văn hóa dân tộc Khmer ở Tây Nam Bộ (1802 – 1975). ................... 35
2.1.1. Về chùa của người Khmer. ............................................................. 35
2.1.2. Về ăn mặc ở của người Khmer. ...................................................... 39

2.1.3. Về đời sống tinh thần của người Khmer......................................... 46


2.2. Văn hóa dân tộc Chăm ở Tây Nam Bộ (1802-1975). ....................... 51
2.2.1. Về thánh đường Islam của người Chăm. ........................................ 51
2.2.2. Về ăn mặc ở của người Chăm......................................................... 52
2.2.3. Về đời sống tinh thần của người Chăm. ......................................... 61
2.3. Văn hóa dân tộc Hoa ở Tây Nam Bộ (1802-1975)............................ 64
2.3.1. Về chùa của người Hoa................................................................... 64
2.3.2. Về ăn mặc ở của người Hoa............................................................ 67
2.3.3. Về đời sống tinh thần của người Hoa. ............................................ 73
Tiểu kết. .......................................................................................................... 79
CHƯƠNG 3. VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC KHMER, CHĂM, HOA Ở
TÂY NAM BỘ TỪ 1975 ĐẾN NAY. ........................................................... 84
3.1. Văn hóa dân tộc Khmer ở Tây Nam Bộ (từ 1975 đến nay)............. 84
3.1.1. Về chùa và phum, sóc của người Khmer từ sau năm 1975. ........... 84
3.1.2. Về ăn mặc ở của người Khmer từ sau năm 1975. .......................... 89
3.1.3. Về đời sống tinh thần của người Khmer từ sau năm 1975. ............ 93
3.2. Văn hóa dân tộc Chăm ở Tây Nam Bộ (1975 đến nay). .................. 98
3.2.1. Về thánh đường Islam của người Chăm từ sau năm 1975. ............ 98
3.2.2. Về ăn mặc ở của người Chăm từ sau năm 1975. ............................ 99
3.2.3. Về đời sống của người Chăm sau năm 1975. ............................... 103
3.3. Văn hóa dân tộc Hoa ở Tây Nam Bộ (1975 đến nay). ................... 109
3.3.1. Về chùa của người Hoa sau năm 1975. ........................................ 109
3.3.2. Về ăn mặc ở của người Hoa sau năm 1975. ................................. 113
3.3.3. Về đời sống tinh thần của người Hoa sau năm 1975. ................... 116
Tiểu kết. ........................................................................................................ 124
KẾT LUẬN .................................................................................................. 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 133
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 146



1

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu.

Văn hóa là thước đo trình độ phát triển và thể hiện những đặc tính riêng
của mỗi dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo đó tức là văn hóa”. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa của các dân
tộc để tìm ra được những đặc sắc, tinh túy trong hệ thống giá trị truyền thống
văn hóa của dân tộc để tôn vinh, phát huy văn hóa của các dân tộc lên tầm cao
mới, phục vụ tốt hơn cho cuộc sống các thế hệ hôm nay và mai sau.
Ngày nay, trong phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu
hóa, các quốc gia dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau để học tập, trao đổi,
giao lưu về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây vừa là thời cơ vừa là thách thức
trong phát triển kinh tế cũng như trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa truyền
thống của dân tộc. Bởi vì, đứng trước sự tiếp xúc, giao lưu với các nền văn
hóa của bạn bè trên thế giới ta vừa có cơ hội học tập, giao lưu làm cho bức
tranh văn hóa của dân tộc ta thêm sinh động, nhiều màu sắc đồng thời cũng
đặt dân tộc ta trước nguy cơ đánh mất dần bản sắc văn hóa truyền thống. Do
vậy, việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc góp phần thiết thực vào việc giáo
dục cho học sinh ý thức trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Tây Nam Bộ có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng ở Việt Nam, là cửa ngõ

của Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, của lục địa và hải đảo, vùng này sớm
là nơi gặp gỡ của những nền văn hóa, là nơi thiên di và sinh tụ của nhiều tộc
người trong lịch sử. Trong quá trình hình thành và phát triển, các tộc người
Việt, Hoa, Chăm, Khmer đã đến đây cùng cư trú, khai thác, xây dựng cộng
đồng và hình thành văn hóa các dân tộc.


2

Trong lịch sử phát triển hơn 300 năm, bên cạnh người Việt các dân tộc
Khmer, Chăm, Hoa đã làm đa dạng văn hóa vùng Tây Nam Bộ và tạo cho nơi
đây một bản sắc riêng độc đáo: Văn hóa Tây Nam Bộ.
Nghiên cứu “Tiến trình văn hóa của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở
vùng Tây Nam Bộ từ 1802 đến nay” là cần thiết nhằm làm rõ quá trình hình
thành và phát triển văn hóa các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa theo các giai đoạn
từ năm 1802 đến năm 1975 và từ ngày thống nhất đất nước đến nay (1975 đến
nay), cũng như các khía cạnh giao lưu văn hóa của các dân tộc này ở Tây
Nam Bộ, đồng thời góp phần làm rõ tiến trình văn hóa Việt Nam ở vùng cực
Nam của tổ quốc.
Tìm hiểu tiến trình văn hóa của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa giúp
người viết hiểu thêm về lịch sử, văn hóa của dân tộc mà còn có cơ hội tìm
hiểu về vùng đất quê hương mình, từ đó giúp cho việc giảng dạy lịch sử thêm
sinh động nhất là mảng lịch sử địa phương. Từ đó, góp phần giáo dục cho học
sinh thêm yêu thích lịch sử và hứng thú học tập.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Như tên đề tài đã phản ánh, đối tượng nghiên cứu của đề tài là những
giá trị văn hóa của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở vùng Tây Nam Bộ, cụ
thể là quá trình lịch sử, văn hóa xã hội của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa
sinh sống ở vùng Tây Nam Bộ.

Văn hóa là một phạm trù có nội dung rộng lớn. Trong điều kiện và khả
năng hạn chế, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu văn hóa gồm hai mảng
chính là văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất trong lịch sử phát triển tộc
người. Văn hóa tinh thần với các dạng thức cơ bản là yếu tố tâm linh, tín
ngưỡng và phong tục tập quán,…Văn hóa vật chất với các công trình văn hóa


3

vật chất cụ thể như chùa chiền, miếu mạo, thánh đường, nhà ở, trang phục, ăn
uống,… Trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc rút ra
được những nét biến đổi trong một số lĩnh vực của văn hóa của các dân tộc
trong thời đại mới.
Phạm vi nghiên cứu.
- Về mặt thời gian nghiên cứu được xác định là những giá trị trong văn
hóa từ năm 1802 đến nay. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, hiệu
Gia Long, vương triều Nguyễn chính thức được xác lập, cai quản lãnh thổ Đại
Việt được mở rộng đến mũi Cà Mau. Dưới triều Nguyễn, đặc biệt là triều vua
Minh Mạng đã cho thực hiện cuộc cải cách hành chính quy mô và toàn diện.
Theo đó, các đơn vị hành chính như tỉnh, thành được xác lập ở triều Nguyễn
gần như tương ứng với các tỉnh, thành ngày nay. Và cho đến nay, cộng đồng
các dân tộc Khmer, Hoa, Chăm đã hòa nhập và phát triển hòa hợp trên vùng
đất đồng bằng sông Cửu Long tạo nên bản sắc văn hóa rất riêng của vùng.
- Về chủ thể nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu, trình bày những
giá trị văn hóa của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở vùng Tây Nam Bộ trong
quá trình phát triển bên cạnh người Việt cùng sinh sống trong vùng.
- Về không gian nghiên cứu của đề tài được xác định là vùng đất Tây
Nam Bộ hay còn gọi là Đồng bằng sông Cửu Long.
Về không gian ngoài vùng Tây Nam Bộ (vùng Đông Nam Bộ, miền
Trung); chủ thể ngoài các tộc người Khmer, Chăm, Hoa (tộc người Việt); thời

gian ngoài giai đoạn từ năm 1802 đến nay (giai đoạn Óc Eo, Phù Nam, Chân
Lạp, các chúa Nguyễn) trong đề tài có thể được nhắc đến để so sánh đối chiếu
làm rõ nội dung luận văn.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, người viết vận dụng phương pháp chính của
chuyên ngành lịch sử là:


4

- Phương pháp lịch sử: Được vận dụng làm rõ những sự kiện lịch sử
cụ thể phản ánh những giá trị văn hóa của các tộc người Khmer, Chăm, Hoa
từ thế kỉ XIX cho đến nay sao cho đúng những gì nó đã diễn ra và tồn tại theo
một thời gian xác định.
- Phương pháp logic: Giúp xem xét những sự kiện lịch sử, rút ra
những kết luận khoa học có tính tổng quát, những nhận xét, đánh giá khách
quan, hướng tới tìm ra bản chất và cái tất yếu của lịch sử. Cụ thể là dựa vào
sự phân kỳ lịch sử nêu lên được những đặc điểm, những biến đổi văn hóa của
các tộc người Khmer, Chăm, Hoa trong lịch sử.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng các phương pháp và các thao tác khác
để thực hiện đề tài như:
- Phương pháp phân tích, so sánh: Trên cơ sở quá trình phát triển của
văn hóa các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở vùng Tây Nam Bộ, tìm ra những
đặc điểm riêng của văn hóa vùng đất này trong tiến trình lịch sử văn hóa dân
tộc, từ đó góp phần tìm hiểu cái riêng và cái chung văn hóa của các tộc người
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Dựa vào kết quả so sánh, thấy
được mối quan hệ giữa các dân tộc, sự giao thoa giữa các nền văn hóa.
- Phương pháp liên ngành: Người viết sử dụng kết quả nghiên cứu của
một số bộ môn khoa học gần gũi như dân tộc học, văn hóa học, khảo cổ
hoc,…trong đó phương pháp nghiên cứu văn hóa sẽ được chú trọng để làm rõ

những giá trị văn hóa các tộc người Khmer, Chăm, Hoa trong phát triển ở Tây
Nam Bộ
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
- Về mặt khoa học:
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ quá trình phát triển văn
hóa của các dân tộc Khmer, Hoa, Chăm trong dòng chảy của lịch sử dân tộc
Việt Nam, làm cơ sở tư liệu cho nghiên cứu tiến trình văn hóa của các dân tộc


5

ở vùng Nam Bộ, tạo cơ sở để hiểu về dân tộc đầy đủ hơn, phong phú hơn. Từ
đó, khắc phục cách nhìn có phần phiến diện đối với truyền thống, bổ sung
thêm cách nhìn khoa học, khách quan về dân tộc, về văn hóa dân tộc tuy đa
dạng nhưng thống nhất trong văn hóa vùng Tây Nam Bộ.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp học sinh ở các
trường phổ thông các tỉnh vùng Tây Nam Bộ tìm hiểu văn hóa vùng Tây Nam
Bộ trong nền văn hóa Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:
Nghiên cứu “Tiến trình văn hóa các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở vùng
Tây Nam Bộ từ 1802 đến nay” tức là nghiên cứu mảng lịch sử văn hóa của
các tộc người Khmer, Chăm, Hoa. Kết quả này góp phần hiểu thêm lịch sử
kinh tế, xã hội của vùng đất Tây Nam Bộ, hiểu thêm đặc điểm, tâm lý, tính
cách của các tộc người ở đây. Đặc biệt, qua sự tiếp xúc, tiếp thu của những
yếu tố văn hóa khác nhau đã hình thành nên khối đoàn kết các tộc người cùng
lao động xây dựng đất nước Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó, các dân tộc xét về địa
vựa cư trú có tầm quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng, tinh
thần cách mạng và tiềm lực của các dân tộc rất lớn. Ngay từ khi thành lập cho
đến nay, Đảng ta đã rất chú trọng đến công tác dân tộc nhằm phục vụ cho

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường học hỏi, hiểu biết lẫn nhau
giữa các dân tộc. Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu lịch sử văn hóa các
tộc người Khmer, Chăm, Hoa ở vùng Tây Nam Bộ có ý nghĩa thực tiễn rất
lớn bởi đây là những tộc người đã cùng các dân tộc Việt Nam đóng góp cho
lịch sử dân tộc. Do vây, việc tìm hiểu lịch sử văn hóa của các dân tộc góp
phần để Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương có những định hướng về
đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hóa, tâm
lý nhằm bảo tồn và phát triển những nét văn hóa truyền thống của các dân tộc.


6

5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Cho đến nay, vùng Tây Nam Bộ đã được nghiên cứu khá nhiều trên
mọi bình diện. Để nghiên cứu đề tài, người viết đã kế thừa và sử dụng các cơ
sở lý luận, thành quả nghiên cứu trước có liên quan, bao gồm hai mảng lớn:
lịch sử và văn hóa vùng đất Tây Nam Bộ.
Nghiên cứu Nam Bộ không thể bỏ qua cuốn “Chân Lạp phong thổ ký”
(của Châu Đạt Quan, 2006, Hà Văn Tấn dịch, Nhà xuất bản Thế giới). Công
trình này nói đến cuộc hành trình của đoàn sứ thần Trung Hoa đến kinh đô
Ăngko nước Cao Miên (tức Campuchia hiện nay) dưới triều vua
Shindravarman (1295-1307), trong đó ghi lại về đất nước và con người bản
xứ, nơi mà đoàn sứ thần đã đi qua.
Tài liệu quan trọng nhất về Nam bộ là tác phẩm “Gia Định thành thông
chí” (Trịnh Hoài Đức 1998, Bản dịch của Viện Sử học, Hà Nội, Nhà xuất bản
Giáo dục). Tác phẩm đã ghi chép khá công phu và tỉ mỉ về núi sông, khí hậu,
hành chính, cũng như về phong tục tập quán, tính cách và sinh hoạt của cư
dân Gia Định xưa, bao gồm cả vùng đất Đông và Tây Nam bộ.
Một số bút ký, chuyên khảo về Tây Nam Bộ, tiêu biểu là của học giả
Sơn Nam với đề tài khẩn hoang đã trở thành sở trường và thế mạnh của ông

như: “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” (Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2009), “Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa (Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh, 1981), “Đất Gia Định xưa” (Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1984) cung cấp những tư liệu quý về sinh hoạt, phong tục, tín ngưỡng,
nhà ở, trang phục, ăn uống của cư dân đồng bằng sông Cửu Long; sự giao tiếp
văn hóa các cư dân trong đó có ăn uống; ngoài ra có văn học dân gian như ca
dao, giai thoại-sự sáng tạo của cư dân trong buổi đầu khai phá.
Tác phẩm “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ của Huỳnh Lứa
(Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987) trình bày tiến trình nhân


7

dân ta khai khẩn và mở mang vùng đất Nam Bộ từ đầu thế kỉ XVII đến
giữa thế kỉ XX.
Đồng thời với các công trình nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ nói
chung và Tây Nam Bộ nói riêng là các công trình chuyên khảo về đặc trưng
văn hóa của các tộc người ở vùng Tây Nam Bộ
Tác phẩm “ Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam” (Bộ
Văn hóa-giáo dục và Thanh niên, 1974) của Nguyễn Văn Luận, tác phẩm
nghiên cứu một cách hệ thống về tộc người Chăm ở miền Tây Nam Bộ từ lịch
sử tộc người, quá trình di cư của tộc người Chăm tới vùng đất miền Tây Nam
Bộ đến đời sống văn hóa, tôn giáo, các tập tục gia đình, hôn nhân đã cung cấp
cho người đọc những hiểu biết giá trị về tộc người Chăm cũng như văn hóa
của tộc người này trong tiến trình phát triển văn hóa ở miền Tây Nam bộ.
Lê Anh Trà với “Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long”
(Viện văn hóa xuất bản 1984) đã tập hợp các bài nghiên cứu về: phương ngôn
Nam bộ, về dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, về văn hóa vật
chất của cư dân đi khẩn hoang, sự hình thành nếp sống và tập quán của người
nông dân Nam bộ, tín ngưỡng cộng đồng của người Hoa vùng đồng bằng

sông Cửu Long, trang phục và văn nghệ truyền thống của đồng bào Chăm,
văn hóa dân gian của người Việt, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
Tác phẩm cho thấy văn hóa đồng bằng sông Cửu Long có nét đặc trưng riêng,
trong đó nổi lên vai trò chủ đạo của người Việt trong giao lưu và phát triển
văn hóa ở đây.
Viện văn hóa công bố tác phẩm “Văn hóa người Khmer vùng đồng
bằng sông Cửu Long” (Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1993) đã khái
quát lịch sử hình thành tộc người và văn hóa tộc người Khmer đồng thời
nghiên cứu một cách hệ thống các giá trị văn hóa vật chất, tinh thần của tộc
người khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.


8

Mạc Đường, “Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long” (Nxb khoa
học xã hội, 1991), tập hợp những bài nghiên cứu về: dân cư và dân tộc ở đồng
bằng sông Cửu Long, một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Khmer
và người Chăm, lịch sử di cư của người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long,
truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của hai dân tộc qua hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ.
Phan Thị Yến Tuyết (Luận án Phó Tiến sĩ năm 1992) với “ Văn hóa
vật chất của các dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long”, đề cập đến quá trình
định cư của các tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long, nghiên cứu một cách hệ
thống các thành tố văn hóa vật chất như nhà ở, ăn uống, trang phục của bốn tộc
người Việt, Hoa, Chăm, Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long thế kỉ XVII-XVIII.
Huỳnh Ngọc Trảng với “Đặc khảo văn hóa người Hoa ở Nam Bộ”
(Viện Nghiên cứu văn hóa thông tin xuất bản, 2005) là một chuyên khảo,
nghiên cứu một cách hệ thống từ quá trình di cư, nhập cư đến Nam Bộ của
người Hoa đến các giá trị văn hóa vật chất, tinh thần, các loại hình nghệ thuật
sân khấu đặc sắc. Tác phẩm đã cung cấp cho người đọc những tư liệu quý về

các giá trị văn hóa của người Hoa ở Nam Bộ.
Nguyễn Cẩm Thúy, “Định cư của người Hoa trên vùng đất Nam bộ từ
thế kỉ XVII đến 1945”, ( Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2000), tác phẩm đã
dựng lại quá trình di cư của từng lớp cư dân người Hoa đến vùng đất Nam bộ
từ thế kỉ XVII đến 1945, đồng thời với quá trình di cư là quá trình phát triển
văn hóa của tộc người Hoa trên vùng đất Nam bộ với các giá trị văn hóa tinh
thần đặc săc như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán.
Nguyễn Đăng Duy có “Văn hóa tâm linh Nam Bộ” (Nhà xuất bản Hà
Nội, 1997), trình bày khái quát quá trình khai phá của các cư dân trên vùng
đất Nam bộ thế kỉ XVI-XVIII; đề cập đến các hình thức tín ngưỡng của cư
dân Việt, Hoa, Khmer như thờ cúng tổ tiên, thờ thần, thờ mẫu.


9

Nguyễn Phương Thảo, “ Văn hóa dân gian Nam bộ-những phác thảo”
(Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2008), đề cập đến lễ hội của người Khmer,
văn học dân gian của người Việt, người Khmer, qua đó thấy được sự giao lưu
tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc ở Nam bộ.
Vũ Văn Ngọc, “Nam bộ nhìn từ văn hóa, văn học, ngôn ngữ” (Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, 1998) tập hợp những bài viết đề cập chi tiết các lĩnh vực
văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của tộc người Hoa, người Khmer cũng
như sự có mặt của họ trên vùng đất Nam bộ.
Li tana, “Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỉ XVIIXVIII” (Nhà xuất bản Trẻ, 1999), đây là công trình nghiên cứu có giá trị, khái
quát quá trình nam tiến của cư dân Việt từ thế kỉ X đến XVIII; cuộc sống hội
nhập, sáng tạo của các tộc người cùng sinh sống ở Đàng Trong thể hiện qua
việc giao lưu văn hóa giữa các tộc người trong cách ăn, mặc, phong tục, tôn
giáo,…
Trần Văn Bính, “Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ thực trạng và những
vấn đề đặt ra”, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004), trình bày một

cách chi tiết về đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa của các dân
tộc Chăm, Hoa, Khmer qua đó thấy được thực trạng đời sống văn hóa của các
tộc người Chăm, Hoa, Khmer ở Tây Nam bộ.
Mới đây, Vương Hoàng Trù và Phú Văn Hẳn đã xuất bản “Một số vấn
đề về dân tộc và tôn giáo ở Nam Bộ trong phát triển”, (Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, 2012) đã nêu nhiều khía cạnh văn hóa, kinh tế, xã hội giữa các dân
tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long và những vấn đề cần quan tâm trong việc
phát huy và gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc ở Nam Bộ.
Trên đây là những công trình tiêu biểu liên quan đến văn hóa các dân
tộc ở Nam Bộ. Rõ ràng cho đến nay khối lượng các công trình nghiên cứu về
vùng đất Nam Bộ, văn hóa Tây Nam Bộ, về các dân tộc ở Tây Nam Bộ hay


10

Đồng bằng sông Cửu Long là rất phong phú. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu trên chỉ tập trung vào nghiên cứu các giá trị văn hóa, các thành tố văn hóa
của các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, chưa làm rõ được quá trình phát
triển văn hóa của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa được thể hiện rõ qua những
giá trị văn hóa của từng thời kì lịch sử cũng như qua truyền thống đấu tranh
chống ngoại xâm trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ. Đề tài “ Tiến trình văn hóa các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở vùng Tây
Nam Bộ từ 1802 đến nay” hy vọng bổ sung vào khoảng trống ấy.
6. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Trỉnh bày các lý thuyết về lịch sử, về văn hóa, mối quan hệ giữa lịch sử
và văn hóa đồng thời khái quát quá trình phát triển của cộng đồng các dân tộc
Khmer, Chăm, Hoa ở Tây Nam Bộ trong lịch sử và hiện tại.
Chương 2. Văn hóa các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở Tây Nam Bộ từ

năm 1802 đến năm 1975.
Các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa,
cũng như các khía cạnh giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc ở Tây
Nam Bộ mà trong đó chủ thể là người Việt sẽ là nội dung chương hai tập
trung làm rõ.
Chương 3. Văn hóa các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở Tây Nam Bộ từ
năm 1975 đến nay.
Trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Khmer,
Chăm, Hoa trong giai đoạn 1802 đến 1975 chương ba nêu lên những biến đổi
văn hóa của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa ở Tây Nam Bộ từ sau năm 1975
đến nay.


11

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm về văn hoá và lịch sử
1.1.1. Về văn hóa.
Ở phương Tây, từ “văn hóa” bắt nguồn từ tiếng La tinh “Cultura” bao
gồm ý nghĩa trồng trọt, nuôi dưỡng, cư trú, luyện tập…Từ đó mà có từ
“Culture” (tiếng Anh, Pháp), “Kultur” (tiếng Đức), “Kultura” (tiếng
Nga)…Thuật ngữ “Văn hóa” được dùng khá sớm, nhưng đến thế kỉ XIX khái
niệm “văn hóa” mới xuất hiện. Tùy từng đối tượng của ngành khoa học, từ
văn hóa được hiểu và có nhiều định nghĩa khác nhau. Edward B. Tylor được
cho là người tiên phong đã đưa ra định nghĩa về văn hóa trong sách “Văn hóa
nguyên thủy” xuất bản tại Luân Đôn năm 1871. Theo bản dịch tiếng Việt
(năm 2000), định nghĩa về văn hóa của tác giả này được dịch là “Văn hóa hay
văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, và một số năng lực, thói quen
khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [34, 11].

Đó được cho là một định nghĩa nhân học văn hóa đầu tiên, là một bước
ngoặt cho sự ra đời về khái niệm văn hóa trong giới học thuật phương Tây.
Sau E.B. Tylor đã có thêm nhiều định nghĩa khác nhau về “văn hóa” của các
nhà văn hóa học phương Tây như L. White, E. Sapir, L. Watts,…
Tại Trung Quốc, hai từ “văn”, “hóa” đã viết trong Chu Dịch với nghĩa
giáo hóa, giáo dục…cách hiểu này vẫn không thay đổi cho đến cuối thế kỉ
XIX và ngày nay khái niệm “văn hóa” được dùng trong các sách văn hóa học
Trung Quốc “thường được giới hạn trong các hiện tượng xã hội thuộc lĩnh
vực đời sống tinh thần, bao gồm các hình thái ý thức xã hội (triết học, sử học,
văn học, nghệ thuật, lễ nghi, tôn giáo)…” [34, 10].


12

“Trong tiếng Việt, “văn hóa” là danh từ có một nội hàm ngữ nghĩa khá
phong phú và phức tạp. Người ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt động sáng
tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như trình độ học vấn mà
mỗi công nhân viên chức vẫn ghi trong lý lịch của mình” [38, 13].
Theo Trần Ngọc Thêm, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để
chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa
chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn)…Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại cho đến những tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao
động…Chính với cách hiểu này, văn hóa mới là đối tượng đích thực của văn
hóa học. Ông định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sựu tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội” [103, 10].
Đào Duy Anh khái quát “Văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các
phương diện sinh hoạt của loài người, cho nên ta có thể nói rằng: văn hóa tức

là sinh hoạt” [10, 13].
Trên thế giới khái niệm về văn hóa rất rộng và có hàng trăm định nghĩa
khác nhau về lĩnh vực này. Tuy nhiên, một khái niệm được cho là chung nhất
về văn hóa là định nghĩa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên Hiệp Quốc-UNESCO đưa ra vào năm 1982 và điều chỉnh vào đầu năm
2000. Theo đó văn hóa là “tổng hợp các đặc điểm tinh thần, thể chất, tri thức,
tình cảm đặc trưng cho một xã hội hoặc một nhóm xã hội. Những đặc trưng
này giúp ta phân biệt được xã hội này với xã hội khác” [38, 16].
Gần đây nhất, nhân dịp kỷ niệm thập kỷ thế giới phát triển văn hóa
(1988-1997) UNESCO đã công bố một định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là


13

tổng thể các hệ thống giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh
thần của xã hội. Nó không đơn thuần bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật, mà
bao gồm cả phương thức sống, những quyền con người cơ bản, truyền thống
tín ngưỡng” [50, 15].
Trong các định nghĩa khác nhau về văn hóa, các nhà khoa học gặp nhau
ở những điểm chung như xem văn hóa là sản phẩm của con người, do con
người sáng tạo trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội.
Văn hóa là những hệ thống giá trị về vật chất, về tinh thần được hình thành,
đúc kết trong quá trình sinh sống của con người. Văn hóa tạo nên nét đặc
trưng, bản sắc riêng của từng dân tộc, từng cộng đồng, từng quốc gia. Trên
cơ sở đó chúng ta có thể hiểu rằng, trong quá trình hình thành và phát triển,
các cộng đồng người Khmer, Chăm, Hoa đã tồn tại, lao động ứng xử với
môi trường tự nhiên và xã hội, đã sáng tạo những giá trị vật chất và tinh
thần, đã trao truyền và tạo nên những đặc trưng riêng trong văn hóa vùng
Tây Nam Bộ.
Văn hóa tộc người

Quá trình hình thành tộc người phản ánh tính quy luật chung của lịch sử
nhân loại, nhưng do rất nhiều yếu tố vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính
khách quan tác động đến. Những quá trình đó không giống nhau, dẫn đến sự
phát triển không đồng đều giữa các dân tộc. Mỗi tộc người trong quá trình tồn
tại và phát triển của mình đều sáng tạo cho mình một phức hợp văn hóa phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của chính tộc người đó. Những giá
trị văn hóa của từng tộc người đã làm phong phú bức tranh văn hóa nhân loại.
Trong những nghiên cứu dân tộc văn hóa tộc người được hiểu là bao gồm
tổng thể các yếu tố về văn hóa vật chất, văn hoá tinh thần, giúp phân biệt tộc
người này với tộc người khác.


14

Khi nói đến văn hóa tộc người là đề cập đến một phạm vi rất rộng bao
gồm toàn bộ các khía cạnh đời sống của tộc người nhưng không phải chung
chung về văn hóa mà là những gì tạo nên sắc thái bản sắc riêng của tộc người
đó không bị hòa lẫn với tộc người khác. Mỗi tộc người trong tiến trình lịch sử
của mình đã hình thành nên bản sắc văn hóa của mình [44:318].
Đặng Nghiêm Vạn, chuyên gia về dân tộc học và tôn giáo học, đã có
nhiều bài viết tổng kết một cách súc tích, ngắn gọn về sự hình thành văn hóa
tộc người trong quá trình tộc người. Văn hóa tộc người đã được ông tiếp cận
ở nhiều khía cạnh kể cả khía cạnh lịch sử, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập
quán, lối sống văn hóa và nhất là có một ý thức tự giác tộc người,… đây
chính là cách hiểu trọn vẹn và chính xác về tộc người và văn hóa tộc người.
Sự tác động qua lại giữa con người-tự nhiên, tự nhiên-con người và con
người-con người trong cộng đồng tộc người là cái gốc của văn hóa tộc người.
Văn hóa tộc người đã được nhấn mạnh như một nhân tố không thể thiếu trong
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Văn hóa tộc người có một ý nghĩa
vô cùng quan trọng để phân biệt sự khác nhau của các nền văn hóa, góp phần

định hình văn hóa.
Các công trình nghiên cứu về văn hóa tộc người đã khẳng định một định
hướng nghiên cứu khoa học, nổi bật nhất là sự khẳng định quá trình tộc người ở
Việt Nam cùng với tính đa dạng và phong phú của văn hóa tộc người đã trở
thành một bộ phận hữu cơ của nền văn hóa Việt Nam, nền văn hóa thống nhất
trong đa dạng.
Về giao lưu văn hóa
Giao lưu văn hóa là hiện tượng phổ biến của xã hội loài người. Nhờ
giao lưu văn hóa đúng hướng mà các nước chậm phát triển có cơ hội trở thành
nước phát triển. Trong mọi hoạt động văn hóa, Đảng và Nhà nước ta luôn xác


15

định: kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
“Giao lưu văn hóa là sự đối thoại giữa các nền văn hóa. Nó nhiều khi
đóng vai trò quan trọng, thậm chí quyết định những cuộc đàm phán về biên
giới, lãnh thổ, xung đột sắc tộc giữa các quốc gia, dân tộc” [38, 34].
Quá trình giao lưu văn hóa cần tính đến giá trị chung, giá trị nhân loại,
đồng thời thừa nhận cái khác biệt của các dân tộc khác. Vấn đề còn lại là bản
sắc, bản lĩnh, đạo lý dân tộc. Điều đó chúng ta có thể chiêm nghiệm được qua
câu của Thomas L.Friedman viết trong cuốn sách Chiếc Lexus và cây ô liu:
“Một đất nước không có rặng cây ô liu khỏe khoắn (biểu trưng gốc rễ dân tộc)
sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để hội
nhập với thế giới. Nhưng một đất nước chỉ có rặng cây ô liu không thôi, chỉ lo
cội rễ mà không có xe Lexus (biểu trưng tính hiện đại) thì sẽ không bao giờ
tiến xa được. Giữ cân bằng hai yếu tố trên là cuộc vật lộn triền miên” [38, 34].
Ở phương Tây, các quốc gia khác nhau dùng thuật ngữ khác nhau để
chỉ sự giao lưu văn hóa. Người Anh dùng từ Culturtal exchanges. Người Tây

Ban Nha có thuật ngữ Transculturation. Người Pháp dùng cụm từ
Interpenetration des civilisations. Người Mỹ với thuật ngữ Acculturation.
Mỗi dân tộc có một thuật ngữ riêng nhưng hầu hết các khái niệm về “giao lưu
văn hóa” trong các bộ Bách khoa toàn thư, từ điển Nhân học, các công trình
“Nhân học văn hóa”, đều thống nhất sử dụng thuật ngữ “Acculturation” để chỉ
hiện tượng “giao lưu văn hóa” và nội dung định nghĩa “giao lưu văn hóa”
giống nhau cho dù cách diễn đạt có khác nhau.
Nói đến khái niệm “giao lưu văn hóa” ít nhiều có liên quan đến khái
niệm “giao tiếp liên văn hóa” là sự giao tiếp giữa các nền văn hóa, giữa các
cộng đồng văn hóa khác nhau với những phương thức sống và thế giới quan


16

khác nhau. Bản thân sự giao tiếp liên văn hóa không phải là một hiện tượng
mới mẻ, mà đã trải qua lịch sử hàng ngàn năm, gắn liền với số phận của tất cả
các dân tộc của một đất nước, hay các cộng đồng người trên thế giới.
Cho đến nay, khi bước vào thế kỉ XXI, nhân loại đã đạt được những thành
tựu to lớn về khoa học và công nghệ. Nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại
như: mạng internet, điện thoại di động, truyền hình cùng vô số các kênh truyền
thanh và truyền hình quốc tế… thì cơ hội giao lưu, đối thoại, học hỏi lẫn nhau
giữa các nền văn hóa và các cộng đồng văn hóa ngày càng mạnh mẽ.
1.1.2. Về lịch sử.
Lịch sử, theo Hán Việt, “lịch” có nghĩa là đã qua và “sử” có nghĩa là
những gì miệng nói hoặc tay làm. Nói chung lịch sử chỉ về các việc người ta
đã làm cũng như những lời người ta đã nói [52, 21].
Nhìn vào cách dùng thông thường của tiếng “lịch sử”, có thể thấy nó
bao hàm ba ý nghĩa:
Một là, khi nhấn mạnh vào tính cách đã qua của sự việc nghĩa là nhấn
mạnh vào chữ “lịch” thì “lịch sử” là những gì xảy ra trong quá khứ về con

người. Nó là thời sự quá khứ của thế giới nhân văn và của thế giới thiên nhiên
trong những gì có liên quan đến con người [52, 22].
Theo nghĩa này thì “lịch sử” là những gì đã qua nên cố nhiên nó đã có
một hình thức nhất định, nó diễn ra và kết thúc trong một thời gian và một
hoàn cảnh nhất định. Vì lẽ đó, “lịch sử” có tính cách tuyệt đối và khách quan.
Hai là, khi nhấn mạnh ý nghĩa của từ lịch sử là những gì đã xảy ra và
được lưu lại cho đến ngày nay nhờ người xưa đã bỏ công ghi chép lại, “lịch
sử” bấy giờ đồng nghĩa với tiếng “sử ký” (ký là ghi chép) [52, 25].
Lịch sử không thể có được nếu không có kết quả của các công trình sử
ký. Nhưng kết quả của các công trình diễn đạt lại này lệ thuộc rất nhiều vào


17

những điều kiện riêng của người cầm viết như: sự sáng suốt của trí phán đoán,
trình độ kiến thức, ngôn ngữ diễn đạt,… Do vậy, bất cứ tài liệu sử ký nào do
người đời để lại đều trải qua một tiến trình hình thành đầy dấu vết chủ quan.
Ba là, khi nhấn mạnh vào việc tìm tòi thời sự quá khứ, bởi vì muốn biết
sự thật đã qua, người ta phải khó nhọc từ bỏ thế giới hiện tại để lùi về khoảng
thời gian không còn nữa với những điều kiện riêng của nó, nhiều khi rất khác
với các điều kiện hiện tại. Bấy giờ “lịch sử” có nghĩa là “sử học” [52, 21].
Chúng ta đã thấy “lịch sử” là thời sự quá khứ, nó tuyệt đối, nó khách
quan, nó duy nhất. Nhưng đồng thời “lịch sử” lại là “sử ký”, nghĩa là những
công trình kể lai quá khứ bởi đó nó tương đối, nó chủ quan. Để giải quyết
mâu thuẫn này, “lịch sử” còn có nghĩa là “sử học”, nghĩa là một công trình
nghiên cứu thời sự quá khứ, và ghi chép lại thời sự quá khứ theo một phương
pháp khoa học thường gọi là phương pháp sử học để gột rửa đi những dấu vết
tương đối, chủ quan tìm cho ra chân lý của thời sự quá khứ.
Như vậy, nói một cách ngắn gọn và đầy đủ: “Lịch sử” là những việc đã
xảy ra liên quan đến con người sống trong xã hội và được ghi chép lại đúng

theo phương pháp sử. Hay vắn tắt hơn: “Lịch sử” là con người hiểu biết về
quá khứ của mình [52, 28].
1.1.3. Quan hệ giữa lịch sử và văn hóa.
Một trong những hướng quan trọng của văn hoá học là nghiên cứu văn
hóa từ góc độ thời gian. Ở góc độ này, trên bình diện phổ quát, Văn hoá học
nghiên cứu những đặc điểm có tính quy luật của quá trình hình thành và phát
triển của lịch sử văn hoá nhân loại; ở bình diện hẹp hơn, Văn hoá học nghiên
cứu tiến trình văn hoá của một dân tộc nhằm nhận ra những đặc điểm văn hoá
của dân tộc đó qua từng giai đoạn cũng như tính thống nhất văn hoá của dân
tộc đó trong quá trình vận động và phát triển theo chỉều thời gian. Như vậy,


18

nhìn ở cả hai bình diện, có thể thấy Văn hoá học rất gần với Sử học và có
quan hệ mật thiết với Sử học [11, 1].
Lịch sử là dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại và lấy toàn bộ
sinh hoạt của xã hội loài người trong quá trình phát triển của nó làm đối tượng
nghiên cứu. Khoa học lịch sử khôi phục lại bức tranh quá khứ và tìm cách giải
thích quá trình phát triển lâu dài của loài người như là quá trình thống nhất và
chịu sự chi phối của những quy luật nhất định. Cũng như Văn hoá học, bên
cạnh tính phổ quát, Sử học quan tâm đến tính đa dạng của lịch sử nhân loại, đi
sâu vào lịch sử của từng cộng đồng, quốc gia, dân tộc... và nhìn lịch sử nhân loại
trong tính thống nhất trong đa dạng của nó. Sử học không chỉ quan tâm đến sự
kiện, chuỗi sự kiện tiếp nối mà còn quan tâm đến những nền tảng, những hệ giá
trị bề sâu, trên đó diễn ra các sự kiện lịch sử.
Việc tiếp cận văn hóa từ góc nhìn sử văn hóa giúp chúng ta hiểu một cách
đầy đủ về tiến trình lịch sử của văn hóa bởi bất kỳ nền văn hóa nào cũng hình
thành và phát triển trong những hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. “Nói
đến văn hóa bao giờ cũng phải nói đến bề dày lịch sử và chiều sâu tích lũy.

Mỗi bước tiến lên của văn hóa đều đánh dấu một bước tăng tiến khả năng
con người tác động đến ngoại giới, cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội, cải
tạo bản thân; tăng tiến khả năng làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm
chủ bản thân của con người” [140, 50].
Đào Duy Anh cũng đã nói về quan hệ giữ lịch sử và văn hóa như sau:
“Các điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đến cách sinh hoạt của người ta, song
người là giống hoạt động cho nên trở lai cũng có thể dùng sức mạnh mà xử trí
và biến chuyển những điều kiện ấy cho thích nghi với những điều cần thiết
của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà cũng biến chuyển và khiến văn hóa cũng
biến chuyển theo. Nghiên cứu xem sự hoạt động để sinh hoạt về các phương
tiện của một dân tộc xưa nay biến chuyển thế nào, tức là nghiên cứu văn hóa
sử của dân tộc ấy vậy” [10, 12].


19

Mỗi thời kỳ lịch sử đều mang đậm dấu tích văn hoá. Không am hiểu
lịch sử sẽ rất khó có thể am hiểu truyền thống văn hoá một dân tộc.
Một trong những con đường của Sử học trong nghiên cứu lịch sử là
phương pháp nghiên cứu biểu tượng, trong đó biểu tượng văn hoá đóng vai
trò quan trọng. Biểu tượng văn hoá không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
quá khứ mà còn giúp chúng ta nhận thức về quy luật phát triển của lịch sử
nhân loại. Chẳng hạn, qua trống đồng và các biểu tượng văn hoá trên trống
đồng, nhà nghiên cứu lịch sử có thêm cơ sở để khẳng định về nền "Văn minh
sông Hồng", về cơ sở lịch sử - xã hội của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc; mặt
khác, nhà nghiên cứu lịch sử cũng có thể xuất phát từ những cơ sở lịch sử - xã
hội thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc để nhận diện những đặc điểm văn hoá - lịch sử
và giải thích những biểu tượng văn hoá biểu hiện trên trống đồng [11, 4].
Văn hoá có thể được nghiên cứu từ nhiều hướng. Với tính chất liên
ngành, Văn hoá học có thể nghiên cứu văn hoá từ cách tiếp cận của Sử học,

góp phần làm sáng tỏ các hiện tượng văn hoá, những quy luật chung của tiến
trình lịch sử của nhân loại... Qua hàng loạt các sự kiện lịch sử do ngành Sử
học cung cấp, nhà văn hoá học có thể khái quát nên những đặc điểm có tính
quy luật của quá trình vận động phát triển lịch sử của một chủ thể văn hoá,
nhận ra những đặc điểm có tính quy luật của nền văn hoá đó. Như vậy có thể
thấy Sử học gắn kết chặt chẽ với Văn hoá [11, 5].
1.2. Quá trình phát triển cộng đồng các dân tộc ở Tây Nam Bộ.
1.2.1. Cộng đồng người Việt (Kinh).
Ở Tây Nam Bộ người Việt, theo số liệu năm 2009 có 15.811.571 người
[141, 134:146]. Tuy người Việt không phải là cộng đồng dân tộc thuộc đối
tượng nghiên cứu của đề tài, nhưng việc nghiên cứu các cộng đồng dân tộc
Khmer, Chăm, Hoa tại Tây Nam Bộ không thể không đề cập đến cộng đồng


×