Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

KHẢO SÁT THÁI ĐỘ VÀ SỰ TUÂN THỦ RỬA TAY CỦA BÁC SĨ VÀ ĐIỀU DƯỠNG TẠI CÁC KHOA TRỌNG ĐIỂM BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG NĂM 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211 KB, 25 trang )

KHẢO SÁT THÁI ĐỘ VÀ SỰ TUÂN THỦ RỬA TAY
CỦA BÁC SĨ VÀ ĐIỀU DƯỠNG TẠI CÁC KHOA TRỌNG ĐIỂM
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 NĂM 2010
Mai Ngọc Xuân*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát thái độ và sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng
tại các khoa trọng điểm Bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2010.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang, mơ tả và phân tích với mẫu nghiên
cứu là 188 Bác sĩ và điều dưỡng tại các khoa trọng điểm (Hồi sức, Sơ sinh, Tim
mạch, Tiêu hóa, Thận nội tiết) của Bệnh viện Nhi Đồng 2. Số liệu thu thập được
xử lý theo phần mềm SPSS 17.0.
Kết quả: Phần lớn nhân viên y tế có thái độ tuân thủ rửa tay rất tốt:
63,8% cho là luôn luôn và 31,4% cho là thường xuyên phải rửa tay khi có cơ
hội. Tuy nhiên, thực tế chỉ có 17,6% là ln luôn và 13,8% là thường xuyên
thực hành đúng cơ hội rửa tay; Kết quả khảo sát thực hành cho thấy tỉ lệ
tuân thủ rửa tay của điều dưỡng cao hơn bác sĩ (60,4% so với 49,6%); So
sánh tỉ lệ tuân thủ rửa tay giữa các khoa nhận thấy tỉ lệ tuân thủ rửa tay của
bác sĩ và điều dưỡng ở khoa Hồi sức và Sơ sinh cao hơn các khoa khác. Tỉ lệ
tuân thủ rửa tay của bác sĩ ở khoa Hồi sức và Sơ sinh lần lượt là 74,7% và
82%, của điều dưỡng ở khoa Hồi sức và Sơ sinh lần lượt là 71,9% và 70,3%.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tuân thủ rửa tay của bác sĩ và
điều dưỡng tại các khoa trọng điểm của Bệnh viện Nhi Đồng 2 chưa cao. Để
tăng cường sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế cần xây dựng chiến dịch tăng
cường rửa tay. Chiến dịch này cần sự quan tâm và hỗ trợ xuyên suốt của Ban
giám đốc; sự phối hợp chặt chẽ của Khoa Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn, mạng lưới
Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn tại khoa phòng và tất cả nhân viên y tế trong bệnh
viện.
Từ khóa: rửa tay, tuân thủ rửa tay, nhiễm khuẩn bệnh viện.

1



ABSTRACT
SURVEY OF HAND HYGIENE ATTITUDE AND COMPLIANCE OF
DOCTORS AND NURSES OF THE PRINCIPAL DEPARTMENTS AT
CHILDREN’S HOSPITAL 2 IN 2010
Mai Ngoc Xuan* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 2010: 218 – 226
Objectives: To audit hand hygiene attitude and compliance of doctors and
nurses in the principal departments of Children’s Hospital 2 in 2010.
Method: A cross-sectional, descriptive and analytical study was conducted
on 188 Doctors and Nurses in the principal departments of Children’s Hospital
No2. Statistical data collection was processed by SPSS 17. 0 for Windows.
Results: Most of HCWs have claimed to have the right attitude towards and
comply with hand hygiene practice: 63.8% of them has always and 31.4% has
often done so when having the opportunities. However, in reality, only 17.6%
has always and 13.8% has often done so. Compliance audit results found that
Nurses’ hand hygiene compliance rate is higher than Doctors’ (60.4% as
opposed to 49.6%). Hand hygiene compliance rates of Doctors and Nurses of
the ICU and Newborn Departments are higher than the others; which was
recorded at 74.7% and 82% for Doctors in the ICU and Newborn Depts and at
71.9% and 70.3% for Nurses.
Conclusions: This result demonstrates that hand hygiene compliance of
HCWs in the principal departments at Children’s Hospital 2 is not high. To
improve this, a campaign of hand hygiene practice should be launched. The
hand hygiene campaign needs to be carefully and regularly supported by the
hospital Director Board and requires a high level of co-operation between the
Infection Control Department, Infection Control network and all the HCWs in
the hospital.
Key words: hand hygiene (hand washing), hand hygiene compliance,
hospital infections.


2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng nguyên nhân gây NKBV phần lớn là
do sự lây truyền từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác qua bàn tay của
NVYT(2,7,10).
Trung tâm kiểm sốt và phịng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) và những tổ
chức y tế khác đã chứng minh rằng rửa tay trước và sau khi tiếp xúc bệnh nhân
là một trong những biện pháp quan trọng nhất trong phịng ngừa NKBV(11).
Dù có nhiều bằng chứng cho rằng rửa tay là biện pháp đơn giản và hiệu quả
nhất để phòng ngừa NKBV nhưng tỷ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT cịn rất
thấp(1,6,9).
Những lý do mà NVYT khơng tuân thủ rửa tay là: công việc quá tải, quá bận
rộn khơng có thời gian; dung dịch rửa tay làm khơ tay, gây kích ứng da; khơng
thấy tay dơ; thiếu phương tiện rửa tay; rửa tay mất thời gian.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát thái độ và thực hành rửa tay của Bác sĩ và Điều dưỡng tại các khoa
trọng điểm Bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2010.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định tỷ lệ thái độ tuân thủ rửa tay của Bác sĩ và Điều dưỡng.
Xác định tỷ lệ thực hành tuân thủ rửa tay của Bác sĩ và Điều dưỡng.
Xác định tỷ lệ thực hành rửa tay đúng của Bác sĩ và Điều dưỡng.
Xác định mối tương quan giữa tỷ lệ thực hành rửa tay của Bác sĩ và Điều
dưỡng với các yếu tố: giới tính, trình độ chun mơn, thâm niên cơng tác…
ĐỚI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang, mô tả.


3


Thời gian
Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2010.
Địa điểm
5 khoa trọng điểm của Bệnh viện Nhi Đồng 2: Hồi sức, Sơ sinh, Tim Mạch,
Tiêu hóa, Thận nội tiết.
* Ghi chú: 5 khoa trọng điểm là 5 khoa có tỷ lệ NKBV đứng đầu theo
điều tra cắt ngang NKBV tại BV Nhi Đồng 2 qua 3 năm liền: 2007, 2008 và
2009.
Đối tượng nghiên cứu
Bác sĩ, điều dưỡng của Bệnh viện Nhi Đồng 2 đang công tác lâm sàng tại
5 khoa trọng điểm của BV Nhi Đồng 2 từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2010.
Cỡ mẫu
Lấy mẫu tồn bộ.
Tiêu chí chọn vào
Bác sĩ, điều dưỡng là nhân viên chính thức của BV Nhi Đồng 2 và đang làm
việc tại các khoa trọng điểm trong thời gian nghiên cứu. Bác sĩ, điều dưỡng có
làm cơng tác chun mơn, tiếp xúc với bệnh nhân theo 5 thời điểm của WHO và
2 thời điểm khuyến cáo của BYT:
- Trước khi tiếp xúc bệnh nhân.
- Trước khi làm thủ thuật.
- Sau khi tiếp xúc bệnh nhân.
- Sau khi tiếp xúc với máu, dịch tiết.
- Sau khi tiếp xúc với môi trường xung quanh bệnh nhân.
- Sau khi cởi găng.
- Khi chuyển từ vùng nhiễm sang vùng sạch trên cùng 1 bệnh nhân.

4



Tiêu chí loại trừ
Bác sĩ, điều dưỡng khơng phải là nhân viên của BV Nhi Đồng 2 (nhân viên
thực tập…) và bác sĩ, điều dưỡng làm công tác hành chánh, không tiếp xúc trực
tiếp bệnh nhân.
Phương pháp thu thập số liệu
Quan sát
Quan sát và điền vào bảng kiểm.
Việc khảo sát sự tuân thủ rửa tay được tiến hành song song với cơng tác giám
sát kiểm sốt nhiễm khuẩn thường xun, thực hiện bởi giám sát viên của khoa
KSNK.
Mỗi bác sĩ/điều dưỡng được quan sát 10 cơ hội rửa tay trong 1 hoặc nhiều
lần đi giám sát.
Phỏng vấn gián tiếp
Sau khi được quan sát đủ 10 cơ hội rửa tay, nhân viên trong mẫu nghiên cứu
sẽ điền vào bảng thăm dò về thái độ rửa tay.
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Đặc điểm
Giới tính

Nam

Tần số
33

(N=188)
Chức danh

Nữ


155

82,4%

Bác sĩ

51

27,1%

(N=188)

Điều dưỡng

137

72,9%

Đa khoa
CK 1
Thạc sĩ
CK 2
Sơ cấp
Trung cấp

31
9
9
2

1
129

60,8%
17,6%
3,9%
17,6%
0,7%
94,2%

Cử nhân

7

5,1%

Trình độ
chun
mơn

Bác sĩ
(N=51)
Điều

(N=188) dưỡng
(N=137)

5

Tỷ lệ %

17,6%


Đặc điểm
Thâm niên công
< 1 năm
1 – 5 năm
tác
6 – 10năm
tại BVNĐ2
11 – 15năm
(N=188)
16 – 20năm
> 20 năm

Tần số
8
98
34
14
9
5

Tỷ lệ %
14,9%
52,1%
18,1%
7,4%
4,8%
2,7%


Công cụ thu thập số liệu
Sử dụng bảng kiểm để quan sát sự tuân thủ rửa tay của bác sĩ và điều dưỡng.
Sử dụng bảng câu hỏi để bác sĩ và điều dưỡng tự trả lời.
Phương pháp kiểm soát sai lệch
Kiểm sốt sai lệch: bằng cách tn thủ tiêu chí chọn mẫu và tiêu chí loại trừ.
Kiểm sốt sai lệch của người quan sát: bằng cách tập huấn thật kỹ cho
giám sát viên; khảo sát thử để xem xét, chỉnh sửa bảng khảo sát cho phù hợp.
Phương pháp xử lý số liệu
Thống kê mơ tả và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0 for
Windows.

6


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Khảo sát của chúng tôi được tiến hành từ ngày 01 tháng 4 đến ngày 17 tháng
9 năm 2010, tại 5 khoa của BVNĐ2 có tỷ lệ NKBV cao nhất theo điều tra cắt
ngang NKBV 3 năm liền (2007, 2008 và 2009) của khoa KSNK. Đó là các
khoa: Hồi sức, Sơ sinh, Tim mạch, Tiêu hóa, Thận nội tiết. Tổng cộng tất cả có
188 bác sĩ và điều dưỡng được chọn vào trong nghiên cứu. Tỉ lệ chấp nhận trả
lời phỏng vấn là 100%.
Nhận xét: Tổng số NVYT trong mẫu nghiên cứu là 188, trong đó số ĐD
(n=137; 72,9%) nhiều gần gấp 3 lần số BS (n=51; 27,1%); nữ giới gần gấp 5
lần nam giới (82,4% ở nữ so với 17,6% ở nam).
Về trình độ chun mơn của BS, BS đa khoa chiếm 60,8% (n=31) trong tổng
số 51 BS; BS chuyên khoa (CK) 1 và thạc sĩ chiếm tỉ lệ bằng nhau (n=9;
17,6%); Có 2 BSCK2 (3,9%) và khơng có tiến sĩ bác sĩ nào.
Về trình độ chuyên môn của ĐD, phần lớn là ĐD trung cấp (n=129, 94,2%);
cử nhân ĐD chiếm 5,1% (n=7) và có 1 ĐD sơ cấp (0,7%).

Về thâm niên công tác tại BVNĐ2, thâm niên từ 1 đến 5 năm chiếm tỉ lệ
cao nhất: 52,1% (n=98); thâm niên trên 20 năm chiếm tỉ lệ thấp nhất: 2,7%
(n=5).
Bảng 2: Số lượng NV của các khoa trong mẫu nghiên cứu
Khoa
Hồi sức
Sơ sinh
Tim mạch
Tiêu hóa
Thận nội tiết
Tổng NV

Bác sĩ
17 (28,8%)
10 (21,3%)
7 (28,0%)
10 (29,4%)
7 (30,4%)
51 (27,1%)

Điều dưỡng
42 (71,2%)
37 (78,7%)
18 (72%)
24 (70,6%)
16 (69,6%)
137 (72,9%)

7


Tổng NV
59 (31,4%)
47 (25%)
25 (13,3%)
34 (18,1%)
23 (12,2%)
188 (100%)


Nhận xét: Về số người tham gia nghiên cứu ở mỗi khoa, khoa Hồi sức có số
người đơng nhất (n=59), chiếm gần 1/3 tổng số người nghiên cứu (31,4%) và
khoa Thận nội tiết có số người nghiên cứu thấp nhất (n=23), chiếm tỉ lệ 12,2%.
Bảng 3: Tỷ lệ thái độ và thực hành rửa tay
Thái độ

Thực hành

(N=188)
(N=188)
Luôn luôn (100%)
63,8%
17,6%
Thường xuyên (80%-90%)
31,4%
13,8%
Thỉnh thoảng (50%-70%)
3,8%
36,2%
Ít khi (<50%)
0,9%

18,1%
Khơng bao giờ (0%)
0,3%
14,4%
Nhận xét: 2/3 tổng số người cho rằng mình ln ln rửa tay; khoảng 1/3
cho là thường xuyên rửa tay; dưới 1/10 cho là thỉnh thoảng, ít khi và khơng bao
giờ rửa tay.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực hành rửa tay, chưa tới 1/3 tổng số nghiên cứu
luôn luôn và thường xuyên rửa tay; trên 1/3 tổng số người là thỉnh thoảng rửa
tay và khoảng 1/3 là ít khi và khơng bao giờ rửa tay.
Bảng 4: Tỷ lệ thái độ rửa tay theo từng thời điểm


I
II
III
IV
V

Thường

Thỉnh

101

xun
82

thoảng
5


(53,7%)
172

(43,6%)
16

(2,7%)

(91,5%)
112

(8,5%)
72

(59,6%)
180

(38,3%)
8

(95,7%)
71

(4,3%)
87

Ln ln

Ít khi


Khơng
bao giờ

0

0

0

0

0

0

0

0

0

24

4

2

0
4

(2,1%)

8

Tổng
188
(100%)
188
(100%)
188
(100%)
188
(100%)
188


Thường

Thỉnh

(37,8%)
106

xun
(46,3%)
74

thoảng
(12,8%)
8


(56,4%)
99

(39,4%)
71

(4,3%)
9

(52,7%)
841

(37,8%)
410

Ln ln

Ít khi

Khơng

Tổng

(2,1%)

bao giờ
(1,1%)

0


0

7

2

(100%)
188

(4,8%)
50

(3,7%)
11

(1,1%)
4

(100%)
1316

(63,9%)
(31,2%)
(3,8%)
I: Trước khi tiếp xúc bệnh nhân

(0,8%)

(0,3%)


(100%)


VI
VII
TC

(100%)
188

II: Trước khi làm thủ thuật
III: Sau khi tiếp xúc bệnh nhân
IV: Sau khi tiếp xúc máu, dịch tiết
V: Sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân
VI: Sau khi cởi găng
VII: Khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trên cùng một bệnh nhân
*Nhận xét: Kết quả khảo sát thái độ rửa tay theo thời điểm (bảng 4) cho
thấy:
Thời điểm sau khi tiếp xúc máu, dịch tiết có tỉ lệ thái độ luôn luôn rửa tay
chiếm tỉ lệ cao nhất 95,7% (n=180); thời điểm trước khi làm thủ thuật cũng có tỉ
lệ thái độ ln ln rửa tay khá cao là 91,5% (n=172). Đặc biệt, ở cả 2 thời điểm
này khơng có tỉ lệ thái độ nào cho là thỉnh thoảng, ít khi, khơng bao giờ rửa tay.
Tuy nhiên, thời điểm sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân có
3,3% (n=6) thái độ cho là ít khi và không bao giờ rửa tay; cũng vậy, đối với thời
điểm khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trện cùng 1 bệnh nhân có tới
4,8% (n=9) thái độ cho là ít khi và khơng bao giờ rửa tay.
Bảng 5: Tỷ lệ thực hành rửa tay theo từng thời điểm

9





Khơng

rửa tay
274

rửa tay
282

(25,4%)
169

(35,3%)
118

(29,6%)
287

(15,6%)
322

(14,8%)
246

(15,3%)
568


(29,8%)
50

(30,8%)
25

(30,2%)
75

(4,6%)
158

(3,1%)
53

(4%)
211

(14,6%)
91

(6,6%)
65

(11,2%)
156

(8,4%)
16


(8,1%)
11

(8,3%)
27

(1,5%)
1080

(1,4%)
800

(1,4%)
1880

(100%)
(100%)
Nhận xét: Qua thực tế khảo sát thực hành rửa tay, ta thấy:

(100%)

Thời điểm
Trước khi tiếp xúc bệnh nhân
Trước khi làm thủ thuật
Sau khi tiếp xúc bệnh nhân
Sau khi tiếp xúc máu, dịch tiết
Sau khi tiếp xúc môi trường xung
quanh bệnh nhân
Sau khi cởi găng
Khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng

sạch trên cùng một bệnh nhân
Tổng

Tổng
556

Thời điểm trước và sau khi tiếp xúc với bệnh nhân có tỉ lệ cơ hội tuân thủ rửa
tay cao nhất, 29,8% (n=322) đối với thời điểm sau khi tiếp xúc bệnh nhân và
25,4% (n=274) đối với thời điểm trước khi tiếp xúc bệnh nhân.
Thời điểm khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trên cùng 1 bệnh nhân
có tỉ lệ cơ hội tuân thủ rửa tay thấp nhất là 1,5% (n=16). Ngoài ra, thời điểm
sau khi tiếp xúc với máu, dịch tiết có tỉ lệ cơ hội tuân thủ rửa tay cũng rất
thấp 4,6% (n=50).
Bảng 6: Tỷ lệ thực hành tuân thủ rửa tay của Bác sĩ và điều dưỡng ở các khoa
Hồi sức

Bác sĩ
127 (74,7%)

10

Điều dưỡng
302 (71,9%)


Sơ sinh
82 (82%)
260 (70,3%)
Tim mạch
22 (31,4%)

62 (34,4%)
Tiêu hóa
9 (9%)
145 (60,4%)
Thận nội tiết
13 (18,6%)
58 (36,3%)
Tổng
253 (49,6%)
827 (60,4%)
Nhận xét: Tỷ lệ tuân thủ rửa tay chung và ở từng khoa của BS thấp hơn ĐD:
tỉ lệ tuân thủ rửa tay chung của BS chiếm 49,6% trong khi tỉ lệ tuân thủ rửa tay
chung của ĐD là 60,4%.
Về thực hành rửa tay của BS, có tới 3/5 khoa có tỉ lệ cơ hội tuân thủ rửa tay
của bác sĩ thấp hơn 50%: khoa Tiêu hóa có tỉ lệ BS tuân thủ rửa tay thấp nhất
(9%) trong khi khoa Sơ sinh có tỉ lệ BS tuân thủ rửa tay cao nhất (82%).
Về thực hành rửa tay của ĐD, 2 khoa Thận nội tiết và Tim mạch có tỉ lệ
ĐD tuân thủ rửa tay thấp hơn 50%; Khoa Tim mạch có tỉ lệ ĐD tuân thủ rửa
tay thấp nhất (34,4%) trong khi khoa Hồi sức có tỉ lệ ĐD tuân thủ rửa tay cao
nhất (71,9%).

Bảng 7: Tỷ lệ thực hành rửa tay với Softa-man và xà bông
Tần số
Tỷ lệ %
Rửa tay với Softa-man
752
40,0
Rửa tay với xà bông
328
17,4

Không rửa tay
800
42,6
Tổng
1.880
100
Nhận xét: tỉ lệ tuân thủ rửa tay nói chung chiếm tỉ lệ trên 50% (n=1080;
57,4%); trong đó tỉ lệ cơ hội rửa tay với dung dịch rửa tay nhanh (Softa-man)
cao hơn gấp 2 lần cơ hội rửa tay với dung dịch xà bông, 40% (n=752) so với
17,4% (n=328).
Bảng 8: Mối tương quan giữa dung dịch rửa tay và kỹ thuật rửa tay
Dung dịch

Kỹ thuật rửa tay

11

Tổng


Softa-man
Xà bông
Tổng

Đúng
Không đúng
28
724
118
210

146
934
χ2=203,205; p < 0,01

752
328
1080

Nhận xét: chúng ta thấy có mối liên quan có ý nghĩa về mặt thống kê giữa
dung dịch rửa tay (softa-man/ xà bông) với kỹ thuật rửa tay (

= 203,205; p

< 0,01): khi rửa tay với xà bơng NVYT rửa tay đúng quy trình kỹ thuật hơn
so với rửa tay với dung dịch sát khuẩn tay nhanh softa-man.

12


Bảng 9: Mối tương quan giữa chức danh và kỹ thuật rửa tay
Kỹ thuật rửa tay
Đúng
Khơng đúng

Chức danh

Tổng

quy trình
quy trình

Bác sĩ
14
239
253
Điều dưỡng
132
695
827
Tổng
146
934
1080
χ2 = 18,019; p < 0,01
Nhận xét: Bảng 9 cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa về mặt thống kê giữa
chức danh (BS/ĐD) với kỹ thuật rửa tay đúng quy trình (c2= 18,019; p < 0,01):
BS rửa tay khơng đúng qui trình hơn ĐD.
Bảng 10: Mối tương quan giữa việc mang găng và thực hành rửa tay


Khơng

Tổng
rửa tay
rửa tay
Mang găng
159
94
253
Không mang găng
779

619
1398
Tổng
938
713
1.651
χ2= 4,431; p=0,035
Nhận xét: Chúng ta thấy có mối liên quan có ý nghĩa về mặt thống kê
giữa việc mang găng tay với tuân thủ rửa tay (

= 4,431; p = 0,035): mang

găng làm NVYT không rửa tay nhiều hơn vì “yên tâm” với sự bảo vệ của
găng tay, cho rằng việc mang găng tay sẽ giúp tránh lây nhiễm.

Bảng 11: Mối tương quan giữa thực hành rửa tay với các yếu tố khác
Yếu tố xã hội
Giới tính

Nam

Rửa tay

Khơng
6
27
13

Tổng
33



Yếu tố xã hội

Chức danh

Trình độ
chun mơn

Thâm niên cơng
tác

Rửa tay

Khơng
Nữ
27
128
Tổng
33
155
χ2 = 0,011; p = 0,917
BS
9
42
ĐD
24
113
Tổng
33

155
2
χ =0,000; P=0,984
BS
4
27
BSCK1
4
5
BSCK2
0
2
ThS BS
1
8
ĐDSC
0
1
ĐDTC
24
105
CNĐD
0
7
Tổng
33
155
χ2 =7,446; P=0,282
< 1 năm
6

22
1–5 năm
14
84
6–10 năm
8
26
11–15 năm
2
12
16–20 năm
2
7
> 20năm
1
4
Tổng
33
155
χ2 =27,162; P=0,205

Tổng
155
188
51
137
188
31
9
2

9
1
129
7
188
28
98
34
14
9
5
188

Nhận xét: Bảng 11 cho chúng ta thấy khơng có mối liên quan về mặt thống
kê giữa sự tuân thủ rửa tay với các đặc điểm của mẫu nghiên cứu (giới tính, chức
danh, trình độ chun mơn, thâm niên cơng tác tại BV NĐ2).
Bảng 12: Lý do không luôn luôn & không thường xuyên rửa tay
Bệnh đông

I
3

II

III
7
14

IV
1


V
5

TC
16


I
2

Qn
Lây nhiễm thấp
Khơng cần rửa
Khơ tay
Kích ứng da
Mang găng
Tổng cộng
5
I: Trước khi tiếp xúc bệnh nhân

II
3
1

III
8
7
5
2

1

4

IV
3
3
1

30

8

V
7
2
1
1
2
18

TC
23
13
7
3
1
2
65


II: Sau khi tiếp xúc bệnh nhân
III: Sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân
IV: Sau khi cởi găng
V: Khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trên cùng một bệnh nhân
Nhận xét: Khảo sát này cho biết nguyên nhân có thái độ không luôn luôn và
thường xuyên rửa tay (bảng 12).
Lý do quên có tần số cao nhất (n=23/65); lý do bệnh đơng, áp lực cơng việc,
khơng có thời gian có tần số cao thứ 2 (n=16/65); có 13/65 ý kiến cho là khả
năng lây nhiễm thấp và có l lý do là dung dịch rửa tay gây kích ứng da.
Bảng 13: Các biện pháp tăng cường tuân thủ rửa tay
Tần số
Tỷ lệ %
Dán poster nhắc nhở rửa tay
100
41,2
Tập huấn rửa tay thường xuyên
63
25,9
Giám sát và nhắc nhở
64
26,3
Khen thưởng
1
0,4
Dung dịch rửa tay khơng gây kích ứng da
14
5,8
Phân bổ cơng việc hợp lý
1
0,4

TỔNG
243
100
Nhận xét: Trong 243 ý kiến của 188 BS và ĐD về các biện pháp tăng cường
tuân thủ rửa tay (bảng 13), chúng tôi nhận thấy:

15


Ý kiến dán poster để nhắc nhở rửa tay là ý kiến được đồng tình nhất 41,2%;
Giám sát nhắc nhở và tập huấn thường xuyên là các ý kiến chiếm tỉ lệ cao thứ 2
(26,3% và 25,9%) ; Ý kiến khen thưởng, phân bổ công việc hợp lý cũng được đề
nghị xem xét.

16


BÀN LUẬN
Trong những năm gần đây, NKBV là mối quan tâm rất lớn ở các nước đã và
đang phát triển nói chung và ở Bệnh viện Nhi đồng 2 nói riêng. Bệnh nhân bị
NKBV phần lớn là do sự lan truyền vi khuẩn hiện diện trên bàn tay NVYT
thông qua q trình chăm sóc, điều trị. Các khoa Hồi sức, Sơ sinh, Tim mạch,
Tiêu hóa, Thận nội tiết là các khoa trong BV có nguy cơ xảy ra NKBV cao hơn
so với các khoa khác vì bệnh nhân thường rất nặng, nằm viện dài ngày, sử dụng
nhiều thủ thuật xâm lấn(4,10).. Chính vì vậy, chúng tơi tiến hành nghiên cứu ban
đầu về sự tuân thủ rửa tay của BS và ĐD tại 5 khoa trọng điểm trên, nơi có tỉ lệ
NKBV cao nhất trong BV (dựa trên kết quả điều tra cắt ngang NKBV tại
BVNĐ2 của 3 năm liền 2007, 2008 và 2009) nhằm biết được tỉ lệ tuân thủ rửa
tay là bao nhiêu cũng như xem xét các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tuân
thủ rửa tay để tìm ra biện pháp tăng cường tuân thủ rửa tay và phòng ngừa

NKBV.
Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu:
Mẫu nghiên cứu là 188 BS và ĐD công tác tại các khoa Hồi sức, Sơ sinh,
Tim mạch, Tiêu hóa, Thận nội tiết trong đó tỉ lệ ĐD (n=137; 72,9%) nhiều
gần gấp 3 lần BS (n=51; 27,1%) và nữ giới gần gấp 5 lần nam giới (82,4% ở
nữ so với 17,6% ở nam). Điều này phù hợp với tình hình nhân sự ở đa số các
bệnh viện và nhân lực ở BVNĐ2; Phần lớn là nhân lực trẻ nên thâm niên từ
dưới 1 năm đến 5 năm chiếm tỉ lệ khá cao 67%.
Về trình độ chun mơn của BS, BS đa khoa chiếm đa số (n=31; 60,8%);
chuyên khoa 1 và thạc sĩ chiếm tỉ lệ thấp (n=9; 17,6%); chuyên khoa 2 rất ít
(n=2; 3,9%) vì các BS có trình độ chun mơn cao phần lớn làm cơng tác quản
lý, rất ít người trực tiếp điều trị cho bệnh nhân nên chúng tôi không khảo sát
được.

17


Về trình độ chun mơn của ĐD, phần lớn là ĐD trung cấp (n=129) chiếm
tỉ lệ 94,2%; cử nhân ĐD chỉ chiếm 5,1% (n=7) và có 1 điều dưỡng sơ cấp
(0,7%). Điều này hồn tồn phù hợp với tình hình nhân lực tại BVNĐ2, ĐD
làm công tác chuyên môn tại các khoa trọng điểm đa số là ĐD trung cấp được
tuyển chọn và có kết quả học tập khá giỏi; tuy có 1 ĐD sơ cấp nhưng thâm
niên cơng tác đã trên 30 năm kinh nghiệm; 7 cử nhân ĐD đa số là ĐD trẻ, có
thâm niên cơng tác dưới 1 năm.
Kết quả nghiên cứu
Phần lớn NVYT có thái độ tuân thủ rửa tay rất tốt: 63,8% cho là luôn luôn và
31,4% cho là thường xuyên phải rửa tay khi có cơ hội. Tuy nhiên, thực tế chỉ có
17,6% là luôn luôn và 13,8% là thường xuyên thực hành đúng cơ hội rửa tay; Có
đến 32,5% là ít khi và không bao giờ rửa tay. Điều này cho thấy từ nhận thức
đến thái độ và thực hành rửa tay vẫn còn khoảng cách khá lớn.

Về thái độ rửa tay theo từng thời điểm, phần lớn cho là luôn rửa tay sau khi
tiếp xúc máu, dịch tiết và trước khi làm thủ thuật (95,7% và 91,5%), không ai
cho là thỉnh thoảng, ít khi, không bao giờ rửa tay ở 2 thời điểm này. Tuy nhiên,
thực tế khảo sát thực hành rửa tay cho thấy chỉ có 4,6% rửa tay sau khi tiếp xúc
máu, dịch tiết và 15,6% rửa tay trước khi làm thủ thuật, có thể vì họ nghĩ mang
găng nên khơng cần rửa tay. Điều đáng ngại là vẫn có một số ít thái độ cho là ít
khi và khơng bao giờ rửa tay sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân
(3,2%) và khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trên cùng một bệnh nhân
(4,8%) vì cho rằng thời điểm này không cần thiết phải rửa tay, khả năng lây
nhiễm thấp từ môi trường xung quanh BN, mang găng có thể bảo vệ được
NVYT nên khơng cần thiết phải rửa tay. Vì vậy, thực tế khảo sát cho thấy chỉ có
14,6% rửa tay sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân và 1,5% rửa
tay khi di chuyển từ vùng dơ sang vùng sạch trên cùng một bệnh nhân. Điều này
chứng tỏ sự cần thiết phải tập huấn lại kiến thức về các thời điểm rửa tay cho

18


NVYT và phải có sự giám sát, nhắc nhở thường xuyên của mạng lưới KSNK tại
chỗ. Thực tế khảo sát còn cho thấy, tỉ lệ tuân thủ rửa tay trước và sau khi tiếp
xúc bệnh nhân đạt cao nhất cũng chỉ dừng lại lần lượt ở con số 25,4% và 29,8%;
Tỉ lệ tuân thủ ở các thời điểm này cao nhất có thể là do NVYT khơng mang
găng và sử dụng dung dịch rửa tay nhanh.
So sánh tỉ lệ tuân thủ rửa tay giữa các khoa, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ tuân
thủ rửa tay của BS và ĐD ở khoa Hồi sức và Sơ sinh cao hơn các khoa còn lại
và cao hơn 50%; Tỉ lệ tuân thủ rửa tay của BS ở khoa Hồi sức và Sơ sinh lần
lượt là 74,7%, 82%, của ĐD ở khoa Hồi sức và Sơ sinh lần lượt là 71,9% và
70,3%. Điều này phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước vì bệnh
nhân ở 2 khoa này phần lớn là bệnh nhân nhỏ tuổi, bệnh nặng, thời gian nằm
viện kéo dài, sức đề kháng kém, kháng với nhiều loại kháng sinh, sử dụng

nhiều thủ thuật xâm lấn… nên BS và ĐD điều trị, chăm sóc cho bệnh nhân ở
2 khoa này nhận thức về nguy cơ NKBV của bệnh nhân cao hơn nên thói
quen rửa tay có cao hơn các khoa khác(4). Tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT
của 3 khoa còn lại khá thấp: tỉ lệ BS tuân thủ rửa tay cao nhất trong 3 khoa
này là BS ở khoa Tim mạch cũng chỉ có 31,4% và tỉ lệ tuân thủ rửa tay của
ĐD cao nhất là ở khoa Tiêu hóa cũng chỉ có 60,4%.
Kết quả khảo sát thực hành cũng cho thấy ở một số khoa, tỉ lệ tuân thủ rửa
tay của ĐD cao hơn BS (60,4% so với 49,6%), điển hình là tỉ lệ tuân thủ rửa tay
của ĐD ở khoa Tiêu hóa và Thận nội tiết lần lượt là 60,4% và 36,3% trong khi
của BS là 9% và 18,6% (!...) nhưng nhìn chung, tỉ lệ tuân thủ rửa tay của 2 đối
tượng này không khác nhau (17,6% và 17,5%). Bệnh nhân đơng có thể là một lý
do để làm giảm sự tuân thủ của các BS (8), một lý do khác có thể là do nhận thức
về nguy cơ lây lan bệnh qua bàn tay NVYT ở phòng bệnh thường thấp hơn
phòng cấp cứu nên sự tuân thủ của các BS có kém hơn.

19


Một nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ tuân thủ rửa tay với dung dịch rửa tay
nhanh cao gấp hơn 2 lần dung dịch xà bông (40% so với 17,4%) và sự khác biệt
này có nghĩa thống kê (c2 = 203,205; p < 0,01); Điều này, một lần nữa khẳng
định sự chọn lựa dung dịch rửa tay phù hợp có vai trò quan trọng trong việc tuân
thủ rửa tay của NVYT.
Ngồi ra, chúng tơi cịn ghi nhận một số mối tương quan có ý nghĩa thống kê
khi thực hành rửa tay của NVYT ở 5 khoa nghiên cứu:
- Có mối tương quan chặt chẽ giữa chức danh và kỹ thuật rửa tay: ĐD rửa tay
đúng quy trình kỹ thuật hơn BS (c2 = 18,019; p < 0,01).
- Dung dịch rửa tay và kỹ thuật rửa tay cũng có mối liên quan có ý nghĩa: khi
rửa tay với dung dịch xà bơng thì rửa tay đúng quy trình kỹ thuật hơn là với
dung dịch rửa tay nhanh sát khuẩn (c2 = 203,205; p < 0,01).

- Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa việc sử dụng găng và tuân thủ
rửa tay: khi mang găng, NVYT ít tuân thủ rửa tay hơn (c2 = 4,431; p = 0,035).
Các yếu tố khác: giới tính, chức danh, trình độ chun mơn, thâm niên
công tác chưa cho thấy mối tương quan rõ rệt với sự tuân thủ rửa tay của
NVYT trong nghiên cứu của chúng tôi (p > 0,05).
Qua khảo sát các lý do không tuân thủ rửa tay, lý do “quên” chiếm tỉ lệ
cao nhất (35,4%); Lý do thứ 2 là bệnh đơng, áp lực cơng việc, khơng có thời
gian cũng là một nguyên nhân làm giảm sự tuân thủ rửa tay (24,6%). Điều
này cũng phù hợp với ghi nhận của Tổ chức y tế thế giới về các nguyên nhân
của tỉ lệ tuân thủ rửa tay thấp: quên, áp lực thời gian và công việc, mang
găng, NVYT không nhận thấy vi khuẩn trên bàn tay của họ, sự tuân thủ rửa
tay cịn phụ thuộc vào dung dịch rửa tay… Vì vậy, để NVYT tuân thủ rửa tay
cao hơn, cần có nhiều biện pháp nhắc nhở tuân thủ rửa tay (tập huấn, giám
sát, tranh ảnh cổ động, động viên, khen thưởng, …) và phải có sự phân bổ
cơng việc hợp lý, tránh quá tải.

20


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Từ tháng 4 đến tháng 9/2010, tỉ lệ tuân thủ rửa tay của BS và ĐD tại 5 khoa
trọng điểm của BVNĐ2 là 49,6% và 60,4% và còn khoảng cách lớn giữa thái độ
đúng về rửa tay với tuân thủ rửa tay của NVYT. Vì rửa tay là biện pháp cơ bản,
rẻ tiền và hiệu quả nhất trong phòng ngừa NKBV nên việc rửa tay thường xuyên
và đúng quy trình kỹ thuật được xem là bước ngoặc quan trọng trong công tác
KSNKBV.
Để tăng cường sự tuân thủ rửa tay của NVYT, cần xây dựng chiến dịch tăng
cường rửa tay, bao gồm:
- Sự quan tâm và hỗ trợ thường xuyên của Ban giám đốc BV.
- Xây dựng kế hoạch tăng cường rửa tay của khoa KSNK và mạng lưới

- Tập huấn những kiến thức mới về rửa tay (thực hiện định kỳ bởi khoa
KSNK và mạng lưới KSNK tại chỗ).
- Có bảng kiểm khảo sát sự tuân thủ rửa tay và phản hồi cho NVYT của giám
sát viên KSNK.
- Cung cấp đầy đủ dung dịch rửa tay nhanh phù hợp.
- Có biện pháp động viên, khen thưởng kịp thời đối với các khoa và cá nhân
tuân thủ tốt rửa tay cũng như phê bình, xử phạt các khoa hoặc cá nhân còn xao
lãng việc rửa tay trong chăm sóc và điều trị bệnh nhân.

21


TỪ VIẾT TẮT
CDC (The Centers for Disease Control and Prevention): Trung tâm kiểm sốt
và phịng ngừa bệnh tật của Hoa Kỳ.
HCW (Health Care Worker): nhân viên y tế.
WHO (World Health Organization): Tổ chức Y tế thế giới.
HH (Hand Hygience): rửa tay.
BS: bác sĩ.
BV: bệnh viện.
BYT: Bộ Y tế.
CK: chuyên khoa.
ĐD: điều dưỡng.
KSNK: kiểm soát nhiễm khuẩn.
NKBV: nhiễm khuẩn bệnh viện.
NĐ2: Nhi đồng 2.

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Albert RK., and CondieF (1981). Handwashing patterns in medical
intensive care units. N. Engl. J. Med. 304:1465-1466.

2.

Black

RE, DykesAC, Anderson KE ,

Wells JG,

Sinclair

SP, Gary GW, Jr., Hatch MH, and Gangarosa. EJ (1981). Handwashing
to prevent diarrhea in day-care centers. Am. J. Epidemiol. 113: 445-451.
3.

Bộ y tế (2003) .Tài liệu hướng dẫn quy trình chống nhiễm khuẩn bệnh
viện., tập I. Nhà xuất bản y học Hà Nội

4.

Donowitz LG. (1987). Handwashing technique in a pediatric intensive
care unit. Am. J. Dis. Child. 141:683-685.

5.


Hà Mạnh Tuấn, Bạch Văn Cam (1994). Các điều kiện gây nhiễm
khuẩn bệnh viện tại khoa hồi sức cấp cứu trẻ và biện pháp phịng ngừa. Tài
liệu huấn luyện kiểm sốt nhiễm trùng bệnh viện. Bệnh viện nhi đồng 1, 1017

6.

Pittet D, Hugonnet S, Harbarth S, et al (2000). Effectiveness of a
hospital-wide programme to improve compliance with hand hygience. The
lancet 2000; 356 (9238): 1307-1312.

7.

Reybrouck, G. (1986). Handwashing and hand disinfection. J. Hosp.
Infect. 8:5-23.

8.

Samadi AR., Huq M.I, and Ahmed QS (1983). Detection of rotavirus
in the handwashings of attendants of children with diarrhea. Br. Med. J.
286:188.

9.

Schurmann W and Eggers HJ (1985). An experimental study on the
epidemiology of enteroviruses: water and soap washing of poliovirus 1contaminated hands, its effectiveness and kinetics. Med. Microbiol.
Immunol. 174:221-236.

23



10.

Steer AC, and Mallison GF (1975). Handwashing practices for the
prevention of nosocomial infections. Ann. Intern. Med. 83:683-690.

11.

WHO (2006) Who Guidelines on Hand Hygience in Health Care
(Advanced Draft World Alliance for Patient Safety; Who, Geneva.

24


25


×