Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY CAO SU CHƯPRÔNG - GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.78 KB, 34 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Sự cần thiết nghiên cứu đề tài:
Từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây nền kinh tế thế giới đã và đang có sự
chuyển mình phát triển tiến bộ vượt bậc. Tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật ngày càng
cao, nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng đến chóng mặt làm thay đổi cả bộ mặt thế giới
cùng với đó là quá trình hội nhập, giao lưu và hợp tác cùng tiến bộ của các nước trên thế
giới, đó là quá trình toàn cầu hoá, là sự cạnh tranh khốc liệt.
Ở Việt Nam, tháng 12/1986 Đại hội toàn quốc lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam
thông qua đường lối đổi mới và mở rộng cửa nền kinh tế. Đất nước ta từ một nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi
mới phát triển kinh tế, nền kinh tế Việt Nam tiến lên một tầm cao mới, tầm cao của công
cuộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng vững chắc về kinh tế và cơ sở
vật chất. Đứng trước những cơ hội và thách thức của quá trình gia nhập WTO thì đối
với mỗi doanh nghiệp khi mà sự bảo hộ của Nhà nước ngày càng giảm dần do vậy các
doanh nghiệp cần phải tăng tính tự lập, chủ động sáng tạo tìm ra con đuờng kinh doanh
đúng hướng cho doanh nghiệp mình.
Công ty cao su Chưprông thành lập ngày 3/2/1977 nằm trên địa bàn 11 xã thuộc
huyện Chưprông - tỉnh Gia lai. Công ty cao su Chưprông thuộc Tập đoàn công nghiệp
cao su Việt Nam, là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh với
chức năng chủ yếu là sản xuất kinh doanh mủ cao su. Trong điều kiện sản xuất và kinh
doanh theo cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển đòi hỏi công ty phải tìm mọi biện
pháp để kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ
sở phân tích kinh doanh. Thông qua việc phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ
giúp cho các nhà quản lý thấy được đúng các mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nội tại
hay hiệu quả của vốn, lao động, chi phí và khả năng tạo lợi nhuận của chúng trong quá
trình hoạt động, qua đó xác định được phương hướng, mục tiêu trong đầu tư, biện pháp
sử dụng các điều kiện vốn có về các nguồn nhân tài vật lực của công ty.
Xuất phát từ thực tiễn và tầm quan trọng của hoạch định, phân tích, đánh giá hiệu
quả kinh tế đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với những đặc
điểm nêu trên nên tôi thực hiện đề tài: “PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT


KINH DOANH CỦA CÔNG TY CAO SU CHƯPRÔNG - GIA LAI”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng sản xuất kinh doanh cao su nói chung và của Công ty cao su
Chưprông nói riêng, tìm hiểu những thế mạnh cũng như hạn chế và tìm hiểu những
nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp cao su.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cao su Chưprông.
- Phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công
ty trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
- Cây cao su kinh doanh tại công ty cao su Chưprông – Gia Lai.
- Quá trình hoạt động sản xuất - tiêu thụ của công ty cao su Chưprông.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Nội dung
- Phân tích tình hình sản xuất sản phẩm của công ty.
- Phân tích quá trình tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của công ty.
- Phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công
ty trong thời gian tới.
1.4.2 Địa điểm thực tập
Tại công ty cao su Chưprông – huyện Chưprông – tỉnh Gia Lai.
1.4.3 Thời gian thực hiện đề tài
Nghiên cứu số liệu công ty trong 3 năm: 2005 – 2006 – 2007
Thời gian thực tập : Ba tháng 4/2008 – 6/2008

1.4.4 Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ tập trung vào đối tượng là cao su kinh doanh của công ty cao su
Chưprông – Gia Lai.
2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Cơ sở lý luận về cây cao su
2.1.1.1 Vai trò, vị trí của sản xuất cao su.
* Giá trị về mặt kinh tế
Cây cao su ba lá có tên khoa học là Hevea brasiliensis thuộc bộ 3 mảnh vỏ, họ
thầu dầu, thuộc lọai cây lấy nhựa mủ
[ ]
1
.
Cây cao su có nguồn gốc từ vùng rừng Amazon ở Nam Mỹ, là cây của vùng nhiệt
đới xích đạo. Mủ cao su là một trong 4 nguyên liệu cơ bản của nền công nghiệp hiện đại:
than đá, gang thép, dầu mỏ, cao su. Mủ cao su chủ yếu dùng chế tạo săm lốp xe (trên
60%), ngoài ra còn sử dụng cho nhiều sản phẩm công nghiệp (vỏ bọc dây điện, chống mài
mòn…), các dụng cụ y tế, đời sống (dụng cụ giải phẫu, giày dép, nệm gối, hồ dán…). Cây
cao su già hết thời gian khai thác mủ thì lấy gỗ. Gỗ cao su được ngâm tẩm chống nấm
mốc, mối mọt cũng là loại gỗ đẹp và tốt, ngày càng được sử dụng nhiều để làm ván ép,
bàn ghế, giường tủ…Hạt cao su dùng ép lấy dầu để pha chế sơn, làm xà phòng, keo dán.
Khô dầu làm thức ăn gia súc và phân bón. Cây cao su còn được trồng để tạo rừng che phủ
đất trống, đồi trọc, chống xói mòn và giữ màu mỡ cho đất.
Cây cao su được coi là một nguồn nguyên liệu công nghiệp quan trọng, có tính
chất chiến lược mà mọi nước trên thế giới đều cần.
Cây cao su hiện nay được đánh giá là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, được xếp
vào hàng thứ ba, sau nông sản chính là lúa và cà phê, hàng năm đóng góp một nguồn
ngoại tệ lớn cho ngân sách Nhà nước.
* Tác dụng đối với môi trường sinh thái

Trên các loại đất bạc màu, đất đồi dốc, đất trống đồi trọc, cây cao su khi trồng với
diện tích lớn còn có tác dụng phủ xanh đất trống đồi trọc, chống xói mòn, bảo vệ môi
trường mặt đất.
Ngoài ra do chu kỳ sống của cây cao su dài cho nên việc bảo vệ môi trường sinh
thái được bền vững trong một thời gian dài.
Kết quả theo dõi cho thấy, trên các loại đất tái canh cây cao su, nếu trong chu kỳ
khai thác trước vườn cao su được chăm sóc thích hợp thì độ phì của đất hầu như được
đảm bảo như tình trạng trước khi trồng cao su.
Ngoài ra cây cao su còn có thể sử dụng như một dạng cây rừng mà sản phẩm chủ
yếu là gỗ cao su có giá trị kinh tế cao.
3
* Tác dụng đối với xã hội
Việc trồng, chăm sóc và khai thác cây cao su đòi hỏi một lực lượng lao động khá
lớn (bình quân 1 lao động cho 2,5-3,5 ha) và ổn định lâu dài suốt 25 – 30 năm cho nên
trên các diện tích trồng cao su với quy mô trung bình đến lớn, một số lượng công nhân
ổn định sẽ được giao công việc thường xuyên và ổn định trong thời gian dài.
Phát triển các doanh nghiệp cao su còn có tác dụng xây dựng cơ sở hạ tầng: đường
xá, điện nước, bệnh viện, trường học, khu giải trí…, tham gia phân bố dân cư hợp lý
giữa vùng thành thị và nông thôn, thu hút lao động cho các vùng trung du, miền núi,
vùng định cư của các dân tộc ít người, góp phần bảo vệ an ninh phòng tại các vùng biên
giới.
2.1.1. 2 Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của cây cao su.
Cây cao su được du nhập và trồng ở Việt Nam từ năm 1897 do bác sĩ Yersin trồng
tại Nha Trang, lúc đầu chưa nhiều. Sau ngày thống nhất đất nước, nhà nước ta rất coi
trọng phát triển cây cao su, trồng cao su trở thành một trong những ngành mũi nhọn của
nền kinh tế quốc dân. Vùng trồng cao su chủ yếu là miền Đông Nam Bộ (các tỉnh Đồng
Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước…), chiếm tới gần 80% diện tích cao su cả
nước, sau đó là vùng Tây Nguyên (DakLak, Gia Lai, Dak Nông, Kontum), một số ít ở
vùng Vĩnh Linh (Quảng Trị), Nghệ An…
Cây cao su thích hợp với những vùng mưa nhiều 2000 – 3000mm/năm. Không kén

đất, có thể trồng trên nhiều loại đất, song cao su thích hợp với vùng đất đỏ Bazan và đất
xám Đông Nam Bộ. Cây cao su có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới xích đạo, yêu cầu khí
hậu nóng và ẩm. Nhiệt độ thích hợp trong khoảng 25 – 30
o
C, về độ ẩm không khí cây
cao su yêu cầu cao tối thiểu từ 75% trở lên..
Trung bình sau khi trồng 5 – 7 năm thì bắt đầu khai thác mủ. Mỗi ha trồng 400 –
500 cây, mỗi năm cho 1 – 2 tấn mủ khô và có thể khai thác liên tục 20 – 30 năm, sau đó
có thể cho 100 – 150 m
3
gỗ tròn
[ ]
2
.
2.1.2 Cơ sở lý luận về phân tích sản xuất kinh doanh
2.1.2.1 Phân tích sản xuất kinh doanh
Khái niệm: Phân tích hoạt động kinh doanh là đi sâu nghiên cứu quá trình và kết
quả hoạt động kinh doanh theo yêu cầu của quản lý kinh doanh, căn cứ vào các tài liệu
hạch toán và các thông tin kinh tế khác, bằng những phương pháp nghiên cứu thích hợp,
phân giải mối quan hệ giữa các hiện tượng kinh tế nhằm làm rõ bản chất của hoạt động
4
kinh doanh,nguồn tiềm năng cần được khai thác, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp
[ ]
1
.
Mục tiêu của phân tích hoạt động kinh doanh là làm sao cho các con số trên các tài
liệu, các báo cáo “biết nói” để những người sử dụng chúng hiểu được các mục tiêu, tình
hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Công tác hạch toán là sự ghi chép, phản ánh hoạt động kinh doanh bằng các con

số, trên các tài liệu của hạch toán kế toán cũng như hạch toán thống kê chưa thể nói lên
điều gì trong hoạt động kinh doanh. Phân tích hoạt động kinh doanh căn cứ vào các tài
liệu của hạch toán, nghiên cứu đánh giá, từ đó đưa ra các nhận xét trên cơ sở nhận xét
đúng đắn thì mới có thể đưa ra các giải pháp, cải tiến đúng đắn. Như vậy, nếu không có
phân tích hoạt động kinh doanh thì các tài liệu của hạch toán kế toán và hạch toán thống
kê sẽ trở nên vô nghĩa, bởi vì tự bản thân chúng không thể phán xét được tình hình và
kết quả của các hoạt động trong kinh doanh.
Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc so sánh các chỉ tiêu có
sẵn trên các báo cáo kế toán và thống kê, mà cần phải đi sâu vào xem xét, nghiên cứu
cấu trúc của tài liệu, tính ra các chỉ tiêu cần thiết và cần phải biết vận dụng cùng lúc
nhiều phương pháp thích hợp, để đánh giá đầy đủ, trên cơ sở đó đưa ra các kết luận
đúng đắn thì tài liệu thông qua phân tích mới có tính thuyết phục cao.
Vận dụng các phương pháp phân tích thích hợp theo một trình tự hợp lý để đưa ra
kết luận sâu sắc sẽ là cơ sở để phát hiện và khai thác các khả năng tiềm tàng trong hoạt
động kinh doanh, đồng thời cũng là căn cứ để đưa ra các quyết định kinh doanh đúng
đắn, và là biện pháp quan trọng trong việc phòng ngừa các rủi ro trong kinh doanh.
2.1.2 .2 Sản xuất
* Khái niệm
Sản xuất là việc sử dụng những nguồn nhân lực để biến đổi những nguồn vật chất
và tài chính thành của cải và dịch vụ. Những của cải và dịch vụ này phải phù hợp với
nhu cầu của thị trường. Sự kết hợp các nhân tố sản xuất phải thực hiện trong những điều
kiện có hiệu quả nhất
[ ]
10
.
Sản xuất hàng hóa là quá trình sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán, không
phải để tiêu dùng bởi chính người sản xuất ra sản phẩm đó. Theo nghĩa rộng hoạt động
sản xuất bao gồm từ khâu nguyên liệu đầu vào đến quá trình sản xuất và cả khâu tiêu
thụ sản phẩm…
[ ]

10
.
5
* Những vấn đề chung về tổ chức và sử dụng các yếu tố sản xuất trong
doanh nghiệp nông nghiệp
a. Khái niệm:
Yếu tố sản xuất của doanh nghiệp nông nghiệp là những đầu vào quan trọng để
doanh nghiệp tiến hành sản xuất sản phẩm. Yếu tố sản xuất trong doanh nghiệp nông
nghiệp bao gồm : đất đai, tư liệu sản xuất, vốn, lao động, trình độ và nghệ thuật quản
lý…, các yếu tố này tác động lẫn nhau và không thể tách biệt trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nông nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị
của các yếu tố đầu vào tính theo giá thị trường tạo thành chi phí sản xuất, vì vậy các
doanh nghiệp nông nghiệp cần phải hạch tóan, xác định và lựa chọn đầu vào tối ưu để
tối thiểu hóa chi phí, giảm giá thành, tăng lợi nhuận và phải chú ý đến giá cả, chất lượng
các yếu tố sản xuất
[ ]
11
.
b. Ý nghĩa tổ chức và sử dụng các yếu tố sản xuất
- Đáp ứng nhu cầu các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp về chủng loại, số lượng,
chất lượng với giá cả hợp lý và kịp thời.
- Là điều kiện quyết định đảm bảo tính tự chủ, ổn định trong kinh doanh của doanh
nghiệp nông nghiệp.
- Có tác động rõ rệt và cụ thể đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đến chất
lượng đầu ra.
- Góp phần trả lời câu hỏi “ Sản xuất như thế nào ?” để có hiệu quả cao trong kinh
doanh nông nghiệp.
2.1.2.3 Tiêu thụ
a.Khái niệm
Tiêu thụ là giai đoạn cuối của vòng chu chuyển vốn ở doanh nghiệp. Sản phẩm

hàng hóa chỉ được coi là tiêu thụ khi doanh nghiệp đã nhận được tiền bán hàng.Trong
nền kinh tế thị trường, khi sản xuất đã phát triển thì vấn đề quan trọng trước hết không
phải là sản xuất mà là tiêu thụ sản phẩm hàng hóa
[ ]
11
.
Tiêu thụ sản phẩm và phân phối tổng sản phẩm là một khâu của quá trình tái sản
xuất. Giá trị sản phẩm được thực hiện thông qua việc tiêu thụ. Phân phối thể hiện các
mối quan hệ lợi ích và bảo đảm thực hiện quá trình tái sản xuất. Thực hiện tốt việc tiêu
thụ sản phẩm là kết thúc quá trình sản xuất, tức là giải quyết khâu “đầu ra” của sản xuất.
6
Quá trình tái sản xuất sẽ được diễn ra thông qua việc phân phối, nghĩa là bù đắp các chi
phí tham gia vào quá trình sản xuất và đầu tư để tái sản xuất mở rộng
[ ]
4
.
Có thể biểu hiện giai đoạn tiêu thụ sản phẩm trong quá trình sản xuất của doanh
nghiệp theo sơ đồ sau:
b.Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tiêu thụ sản phẩm
- Nhóm nhân tố thị trường: Mục tiêu trên hết của các doanh nghiệp là lợi nhuận.
Vậy để đạt được hiệu quả kinh tế cao thì điều tất yếu là sản phẩm phải được tiêu thụ
nhanh chóng và kịp thời. Trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp
phải lựa chọn, nghiên cứu tìm hiểu thị trường nhằm trả lời được các câu hỏi: thị trường
đang cần sản phẩm gì? Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản phẩm đó? Ai là người tiêu thụ
sản phẩm này? Hiện trạng vấn đề cung cấp sản phẩm đó ra sao?...Chính vì vậy, việc tiêu
thụ sản phẩm không chỉ đơn thuần là việc lưu thông hàng hóa từ người sản xuất đến
người tiêu dùng mà tiêu thụ phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của thị trường, thị trường
quyết định đến thời gian tiêu thụ, số lượng sản phẩm, doanh thu. Đặc biệt trong thị
trường cạnh tranh hiện nay, càng đòi hỏi các doanh nghiệp tìm hiểu rõ thị trường, xác
định chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp. Và hơn thế nữa, các doanh nghiệp phải

nắm bắt được quy luật vận động của thị trường mà mình phục vụ, từ đó đưa ra được
những phương sách tiêu thụ sản phẩm hợp lý nhất mở rộng thị trường và phát triển thị
phần vững mạnh.Có thể xét trên 3 yếu tố sau đây của thị trường:
+ Nhu cầu của thị trường về nông sản phẩm.
+ Cung sản phẩm, phải tìm hiểu, nắm bắt các đối thủ cạnh tranh. Sản phẩm nông
nghiệp có tính đa dạng cả về chủng loại, số lượng, về phẩm cấp và về đối tượng tiêu
dùng. Khi số lượng cung tăng lên làm cho cầu giảm xuống và ngược lại. Để tổ chức tốt
việc tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp phải hiểu rõ được các đối thủ cạnh tranh của
mình về mặt số lượng, chất lượng sản phẩm và đối tượng khách hàng.
+ Giá cả: là một yếu tố quan trọng, là thước đo sự điều hòa cung – cầu trong nền
kinh tế thị trường. Giá cả tăng cho thấy sản phẩm đó đang khan hiếm, cầu lớn hơn cung
và ngược lại. Khi xem xét yếu tố giá cả cần đặc biệt lưu ý: hệ số co giãn giá của cầu, hệ
7
Đầu vào Sản xuất Đầu ra Tiêu thụ
Tiêu dùng
Giá trị sản phẩm được thực hiện
số co giãn chéo của mức cầu, hệ số co giãn thu nhập của mức cầu, tỷ giá, chỉ số giá cả.
Ngoài ra khi xem xét cầu sản phẩm cũng cần phải tính đến những thị hiếu, tập quán và
thói quen tiêu dùng của cư dân.
- Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ
- Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô và cơ chế quản lý:
+ Chính sách nhiều thành phần kinh tế
+ Chính sách tiêu dùng
+ Chính sách đầu tư và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
+ Chính sách giá cả, bảo trợ sản xuất và tiêu thụ
- Nhóm nhân tố về trình độ tổ chức tiêu thụ
c. Kênh tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng :
+ Tiêu thụ trực tiếp:
+ Tiêu thụ gián tiếp:

- Căn cứ vào phương thức xuất khẩu:
8
Người tiêu dùng
Môi giới
Doanh nghiệp sản xuất
Doanh nghiệp
sản xuất
Bán buôn
Bán lẻ
Người tiêu
dùng
Môi giới Đại lý
+ Xuất khẩu trực tiếp:
+ Xuất khẩu gián tiếp (ủy thác):
d. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
- Khái niệm: Thị trường là nơi trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ giữa một
bên là những người bán và một bên là những người mua, là sự kết hợp giữa cung và cầu
trong đó những người mua và người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Hoạt động cơ bản
của thị trường được biểu hiện qua 2 nhân tố có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau
đó là nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ và cung ứng về hàng hóa, dịch vụ
[ ]
7
.
- Vai trò: Thị trường là đối tượng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Nắm bắt được thị trường, nghiên cứu được đầy đủ và dự báo chính xác thị trường tiêu
thụ sẽ giúp cho doanh nghiệp có kế hoạch và chiến lược đúng đắn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Hiểu được phạm vi và quy mô của việc thực hiện cung cầu
dưới hình thức mua, bán hàng hóa và dịch vụ trên thị trường cho thấy rõ thị trường còn
là nơi kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm, giá trị của hàng hóa, dịch vụ. Do vậy mọi yếu
tố trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đều phải tham gia

vào thị trường. Để sản xuất ra sản phẩm thì điều tất yếu mà doanh nghiệp phải quan tâm
đó là nhu cầu thị trường, thị trường là cơ sở để quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
diễn ra. Quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không đó là do việc nghiên cứu
thị trường, hay nói cách khác là nếu như thị trường chưa được thực hiện chặt chẽ, thiếu
sự quan sát và tìm tòi dẫn đến hiệu quả tiêu thụ không cao, kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh kém hiệu quả.
e. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp nông nghiệp
- Sản phẩm nông nghiệp mang tính chất vùng và khu vực.
9
Doanh nghiệp Người nhập khẩu Thị trường tiêu thụ
Doanh nghiệp Công ty XNK
trong nước
Công ty
nhập khẩu
Thị trường
tiêu thụ
- Tính chất thời vụ của sản xuất nông nghiệp có tác dụng mạnh đến cung – cầu của
thị trường và giá cả nông sản.
- Sản phẩm nông nghiệp làm ra không chỉ để bán hoàn toàn mà còn để tiêu dùng
nội bộ với tư cách là tư liệu sản xuất.
2.1.2.4 Kết quả sản xuất kinh doanh
Kết quả sản xuất là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài
chính và các hoạt động khác của đơn vị sản xuất. Để hiểu rõ kết quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh ta tìm hiểu các khái niệm sau.
a. Giá thành
Giá thành đơn vị sản phẩm hàng hóa (giá vốn hàng bán) là khoản chi phí bỏ ra để
chế tạo thành một đơn vị sản phẩm, bao gồm: chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp
(NVL), chi phí về nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung (SXC) đã phân bổ cho sản
phẩm, chi phí ngoài sản xuất: chi phí bán hàng, chi phí quản lý chung của doanh nghiệp
phân bổ cho sản phẩm

[ ]
10
.
b. Doanh thu
Doanh thu của doanh nghiệp là biểu hiện thu nhập toàn bộ của đơn vị sản xuất
kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Đó chính là đối tượng phân phối chủ yếu của
đơn vị nhằm bù đắp mọi chi phí, nộp ngân sách nhà nước, chia lãi và trích lập các quỹ
của đơn vị. Xét một cách tổng quát, doanh thu là tổng số tiền thu được từ các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, nó bao gồm toàn bộ số tiền
bán hàng, trả gia công hoặc cung ứng dịch vụ
[ ]
10
.
Như vậy tổng doanh thu trong doanh nghiệp là :

=
=
n
i
DiD
1
Trong đó:
D: Tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Di: Doanh thu của từng loại hoạt động kinh doanh.
c. Chi phí
- Khái niệm: Chi phí là sự hao phí thể hiện bằng tiền trong quá trình kinh doanh
với mong muốn mang về một sản phẩm, dịch vụ hoàn thành hoặc một kết quả kinh
doanh nhất định. Chi phí phát sinh trong các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ
10
nhằm đến việc đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp: Doanh thu và lợi nhuận.

Tuy nhiên chi phí được phân loại dựa trên nhiều góc nhìn khác nhau và việc phân loại
chi phí như vậy không nhằm ngoài mục đích phục vụ nhu cầu quản trị doanh nghiệp
[ ]
10
.
d. Lợi nhuận
Lợi nhuận của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền bộ phận của sản phẩm thặng dư
do kết quả của công nhân mang lại
[ ]
10
.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp biểu hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp,
phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản sản xuất như lao động, vật tư, tài sản cố
định… Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người lao động
và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, trên cơ sở của chính sách phân phối đúng đắn.
Lợi nhuận = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
2.1.2.5 Hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Khái niệm: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình
độ sử dụng nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp. Đây là một vấn đề hết sức phức
tạp, có liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều mặt của quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp như: lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động…
[ ]
6
.
- Chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được xác
định bằng công thức:
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh doanh =

Chi phí đầu vào
2.1.2.6 Phân tích điểm hòa vốn
- Phân tích điểm hòa vốn là một nội dung quan trọng trong phân tích hoạt động
kinh doanh. Nó cung cấp thông tin cho nhà quản trị về số lượng sản phẩm cần phải bán
để đạt được lợi nhuận mong muốn và thường bắt đầu tại điểm hòa vốn, điểm mà doanh
thu không mang lại lợi nhuận
[ ]
5
. Tuy nhiên không một công ty nào hoạt động mà
không muốn công ty mình mang lại lợi nhuận. Vì vậy, phân tích điểm hòa vốn có vai trò
là điểm khởi đầu để xác định số sản phẩm cần để đạt được lợi nhuận mong muốn nhằm
lập kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
11
- Khái niệm hòa vốn: Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó tổng doanh thu bằng với
tổng chi phí hoặc số dư định phí sản xuất kinh doanh. Tại điểm này doanh nghiệp không
có lãi mà cũng không bị lỗ, đó là sự hòa vốn
[ ]
5
.
- Các thước đo tiêu chuẩn hòa vốn:
+ Sản lượng hòa vốn: Là khối lượng sản phẩm hàng hóa (biểu hiện bằng hiện
vật) sản xuất và tiêu thụ có thể bù đắp được toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong 1 kỳ nhất định ( thường là 1 năm)
[ ]
7
.
+ Doanh thu hòa vốn: là doanh thu của mức tiêu thụ hòa vốn, là tích của sản
lượng hòa vốn nhân với giá bán.
+ Thời gian hòa vốn: Là số ngày cần thiết để đạt được doanh thu hòa vốn trong 1
kỳ kinh doanh ( thường là 1 năm).

+ Doanh thu an toàn: Doanh thu an toàn còn gọi là số dư an toàn, được xác định như
phần chênh lệch giữa doanh thu hoạt động trong kỳ so với doanh thu hòa vốn
[ ]
5
.
Doanh thu an toàn phản ánh mức doanh thu thực hiện đã vượt qua mức doanh thu
hòa vốn. Chỉ tiêu này có giá trị càng lớn thì càng thể hiện tính an toàn cao của hoạt động
sản xuất kinh doanh hoặc tính rủi ro trong kinh doanh càng thấp và ngược lại.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình sản xuất – tiêu thụ cao su của trên thế giới và Việt Nam.
2.2.1.1 Tình hình sản xuất – tiêu thụ cao su một số nước trên thế giới
Thị trường cao su thế giới năm 2007 khá cân đối giữa cung và cầu. Nhu cầu cao su
khá mạnh. Khách hàng Mỹ, Châu Âu và Trung Quốc đều tích cực mua, song hầu hết chỉ
mua ít, mặc dù lượng dự trữ trong kho của các nhà sản xuất lốp xe còn rất ít, bởi giá
cao. Trong khi đó ở nhiều thời điểm người bán không thể ký hợp đồng bán bởi lo ngại
không đảm bảo được nguồn cung. Bên cạnh Trung Quốc, người tiêu dùng Mỹ cũng tìm
mua cao su SIR20, còn các hãng sản xuất lốp xe lớn nhất thế giới tìm kiếm hàng để làm
đầy kho dự trữ hiện đang còn rất ít của mình. Trung Quốc – nước tiêu thụ cao su lớn
nhất thế giới – đã nhập khẩu 1.350.000 tấn cao su từ tháng 1 đến hết tháng 10/2007,
tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2006.
Ước tính tiêu thụ cao su thế giới tăng tới 9,7 triệu tấn năm 2007, tức là tăng
khoảng 4% so với năm 2006. Kinh tế tăng trưởng sẽ kéo theo các ngành hàng đều phát
triển, kể cả hoạt động khai thác mỏ, đẩy nhu cầu lốp xe tăng lên. Do tiêu thụ tăng, cung
12
sẽ trở thành vấn đề khó giải quyết. Cao su tổng hợp vẫn đắt vì nó được sản xuất từ dầu
thô.
Về nguồn cung, sản lượng cao su thế giới năm 2006 đạt 9,7 triệu tấn, song sản
lượng năm 2007 vẫn chỉ ở mức đó. Sản lượng của Thái Lan, nước sản xuất cao su lớn
nhất thế giới, có thể giảm 1,5 % xuống khoảng 3 triệu tấn trong năm 2007 do mưa nhiều
làm gián đoạn việc thu hoạch mủ. Sản lượng cao su Thái Lan còn bị ảnh hưởng bởi tình

trạng bạo lực ở các tỉnh miền Nam Thái Lan, nơi chiếm khoảng 10% sản lượng cao su
quốc gia. Năm 2007, nguồn cung ở Indonesia khả quan hơn cả so với 2 nước kia, cộng
với giá rẻ hơn, nên hấp dẫn được nhiều khách hàng. Song nhiều lúc các nhà xuất khẩu
Indonesia cũng bất lực vì không có hàng để bán.
Nhu cầu cao su ở Trung Quốc và Ấn độ đang bùng nổ. Nền kinh tế Ấn độ đã tăng
trưởng trung bình 8,6 % mỗi năm trong 4 năm qua. Diện tích và sản lượng cao su của
nước này tăng liên lục, song vẫn phải nhập khẩu từ Đông Nam Á mới đủ đáp ứng nhu
cầu. Trong khi đó ở Trung Quốc, kinh tế bùng nổ đang hỗ trợ giá cao su phục hồi và nhu
cầu tăng. Ngành lốp xe chiếm khoảng 60% tổng tiêu thụ cao su của nước này. Có mối
quan hệ rất chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và tiêu thụ nội địa. Là nước tiêu thụ cao su
lớn nhất thế giới, nhập khẩu cao su thiên nhiên của Trung Quốc năm 2007 ước đạt 1,8
triệu tấn, tăng so với 1,6 triệu tấn năm 2006, để làm nguyên liệu sản xuất mọi thứ, từ lốp
xe tới giày thể thao. Tiêu thụ cao su của Trung Quốc năm 2007 ước tăng khoảng 12% so
với 2,1 triệu tấn năm 2006. Trung Quốc đang nổi lên thành nước xuất khẩu xe hơi lớn
và sản lượng lốp xe đã tăng trên 20% mỗi năm trong mấy năm qua. Năm 2006, Trung
Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành thị trường tiêu thụ ô tô lớn thứ 2 thế giới, lượng tiêu
thụ ô tô đạt 7,2 triệu chiếc, còn sản lượng đạt 7,3 triệu chiếc, từ năm 2007 đến 2010, dự
báo nhu cầu cao su thiên nhiên của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 7 – 10% mỗi năm.
Triển vọng thị trường cao su thiên nhiên năm 2008 sẽ tiếp tục khả quan bởi 3 yếu tố:
giá dầu mỏ cao, nhu cầu của các nước tiêu thụ tiếp tục tăng mạnh và nguồn dự trữ ở cả các
nước sản xuất và các nhà nhập khẩu, nhất là các hãng sản xuất lốp xe, đều eo hẹp, do giá
quá cao vào năm 2007 khiến cho người mua không dám mua nhiều nên không củng cố
được kho dự trữ. Tiêu thụ cao su thiên nhiên thế giới năm 2008 sẽ đạt khoảng 10,1 triệu
tấn, trong khi đó sản lượng chỉ khoảng 9,7 – 9,8 triệu tấn.
13

×