Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

skkn tạo hứng thu trong giờ đọc văn bằng phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.88 KB, 21 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Xuân Thọ
Mã số: ................................

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ ĐỌC
VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHO HỌC
SINH SẮM VAI NHÂN VẬT

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ THANH TÂM
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục



Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn
Phương pháp giáo dục



Lĩnh vực khác: ......................................................... 
Có đính kèm:
 Mô hình
 Phần mềm

 Phim ảnh

Năm học: 2012 - 2013


0

 Hiện vật khác


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

BM02-LLKHSKKN

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: NGUYỄN THỊ THANH TÂM
2. Ngày tháng năm sinh: 02/12/1984
3. Nam, nữ: NỮ
4. Địa chỉ: ấp Thọ Hòa, xã Xuân Thọ, huyện Xuân lộc, tỉnh Đồng Nai.
5. Điện thoại: CQ: 0613731769
ĐTDĐ: 0944037101
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ: giáo viên trung học
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Xuân Thọ
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2007
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn văn.
- Số năm có kinh nghiệm: 5 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:

1



MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................... 3
II.THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI .. 4
1. Thuận lợi.......................................................................................................... 4
2. Khó khăn:......................................................................................................... 5
3. Số liệu thống kê: .............................................................................................. 6
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI ..................................................................................... 6
1. Cơ sở lý luận:................................................................................................... 6
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: ................................... 7
a. Nội dung: ......................................................................................................... 7
b. Biện pháp thực hiện các giải pháp: ............................................................... 10
c. Tổng kết đánh giá ưu, nhược điểm: ................................................................ 12
3. Thiết kế thực nghiệm: .................................................................................... 13
a. Tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao:.................................................................... 13
b. Tác phẩm Người trong bao của Shê-khốp: ..................................................... 14
IV. KẾT QUẢ :................................................................................................. 15
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM......................................................................... 16
1. Khâu chuẩn bị phải kĩ lưỡng: ......................................................................... 16
2. Khâu thực hiện trên lớp phải hiệu quả:.......................................................... 17
3. Khâu quan sát, hỗ trợ phải linh hoạt: ............................................................. 17
4. Khâu nhận xét đánh giá phải chính xác: ........................................................ 17
VI. KẾT LUẬN ................................................................................................ 17
VII.
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 18

2



BM03-TMSKKN

Tên sáng kiến kinh nghiệm:
TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ ĐỌC VĂN BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHO
HỌC SINH SẮM VAI NHÂN VẬT
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Trong những năm gần đây, cùng với một số môn học khác, thực trạng dạy học môn Văn được đề cập nhiều trên các phương tiện truyền thông, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh thực trạng học sinh lười học văn.
- Từ thực trạng đó, ngành giáo dục đã chú trọng việc đổi mới chương trình
giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy vai trò chủ động,
tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập ngày nay đang được triển khai
rầm rộ. Tuy nhiên hiệu quả của những phương pháp đổi mới này vẫn còn
gây nhiều băn khoăn, trăn trở vì mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và
khuyết điểm riêng.
- Mỗi đối tượng học sinh có một khả năng tiếp cận riêng và mỗi bộ môn lại
cần có một phương pháp dạy phù hợp. Vì vậy, để lựa chọn phương pháp thật
sự hiệu quả trong giờ dạy văn là điều mà tôi cũng như rất nhiều giáo viên
trăn trở. Đã có rất nhiều phương pháp đổi mới được áp dụng như: Thảo luận
nhóm, câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi gợi mở, sử dụng đồ dùng dạy học hay
dùng công nghệ thông tin, nhưng những phương pháp trên chủ yếu chú trọng
đến khâu giảng dạy trên lớp mà chưa nhấn mạnh được khâu chuẩn bị bài của
học sinh. Vậy phương pháp nào là tối ưu, phù hợp nhất?
- Môn văn hiện nay đã được tích hợp nhưng vẫn chia thành ba phân môn:
tiếng việt, làm văn, đọc văn. Riêng phân môn đọc văn cũng được chia làm
bốn mảng: văn học sử, lí luận văn học, thơ, và văn xuôi (truyện). Khi dạy
phân môn đọc văn, tôi luôn suy nghĩ về vấn đề lựa chọn phương pháp sao
cho thật sự hiệu quả phù hợp với từng mảng kiến thức.
 Ví dụ:
 Dạy văn học sử, tôi thường vận dụng phương pháp trực quan (sơ đồ).
 Dạy thơ, tôi thường đổi mới cách đọc bằng sự hỗ trợ của các bài ngâm từ các

nghệ nhân ngâm thơ mà tôi tải được trên mạng Internet.
 Riêng mảng văn xuôi (truyện), tôi cũng đã áp dụng phương pháp hỗ trợ từ
công nghệ thông tin để soạn giảng bằng giáo án điện tử và kết hợp cho hs
xem phim, kịch... Nhưng tôi nhận thấy một điều là khi xem phim hoặc kịch
xong các em chỉ thích thú lúc đó chứ không thật sự hiểu sâu sắc về nhân vật
và tác phẩm.
3


-

-

-

II.
1.
-

-

Năm học 2012-2013 này, khi được phân công dạy bộ môn văn lớp 11, nhận
thấy thực trạng học sinh rất lười học văn và thậm chí chán ghét môn văn,
đặc biệt là mảng văn xuôi (truyện).Tôi đã tìm hiểu và thấy rằng, nguyên
nhân mà các em không thích giờ đọc truyện vì theo các em tác phẩm truyện
thường dài nên nhiều em rất lười đọc tác phẩm và dù có đọc cũng chỉ rất sơ
sài. Với cách tiếp cận tác phẩm như thế của học sinh và thời gian hạn chế
trên lớp thì không thể có kết quả tốt cho giờ học được. Vậy, làm thế nào để
các em hào hứng với giờ đọc truyện và với cả phần chuẩn bị bài trước khi
lên lớp?

Để giải quyết khúc mắc trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp: “Tạo
hứng thú trong giờ đọc văn bằng phương pháp cho học sinh sắm vai
nhân vật”. Vì trong thời gian thử nghiệm nên tôi chỉ áp dụng phương pháp
này trong tiết đọc truyện của chương trình ngữ văn 11.
Phương pháp mà tôi lựa chọn không hoàn toàn mới lạ nhưng trong một
năm thực hiện tôi nhận thấy nó có nhiều ưu điểm và căn bản là tôi đã đưa ra
được một số giải pháp hợp lí và thiết thực. Trên hết, phương pháp này đã
góp phần cải thiện rất nhiều căn bệnh “lười học” của học trò tôi. Tuy nhiên,
vì phương pháp này chưa được áp dụng rộng rãi và trong giới hạn của đề tài
sẽ vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của quý đồng nghiệp.
THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA
ĐỀ TÀI
Thuận lợi
Tác phẩm truyện bao giờ cũng là một hệ thống động và do đó trong hoạt
động tiếp nhận tác phẩm, người đọc không phải là khách thể thụ động mà là
một chủ thể có ý thức, một chủ thể đồng sáng tạo. Người đọc là người cùng
tham gia vào tiến trình sáng tạo để xây dựng ý nghĩa của tác phẩm truyện.
Như vậy, có thể nói phương pháp cho học sinh nhập vai nhân vật là một
trong những phương pháp thích hợp vì đây là phương pháp tích cực, tạo hiệu
quả kép, kích thích để các em tìm tòi, khám phá, đồng cảm cùng nhân vật và
mở ra được sự giao tiếp đối thoại giữa nhà văn – học sinh.
Trình độ nhận thức và đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh là những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc thưởng thức, tiếp nhận tác phẩm.
Học sinh ở lứa tuổi này hoàn toàn có khả năng tư duy trừu tượng và tưởng
tượng tái hiện. Học sinh có thể nhìn nhận, đánh giá về sự vật, hiện tượng
một cách sâu sắc và độc lập. Ở lứa tuổi này, học sinh có nhu cầu ham hiểu
biết, khao khát tìm hiểu thế giới xung quanh. Khi tiếp cận tác phẩm, trước
những tình huống, sự kiện, số phận của các nhân vật trong tác phẩm, các em
sẽ băn khoăn, suy nghĩ, đòi hỏi một sự lý giải, phân tích. Đặc biệt, khi được
4



-

-

2.
-

-

-

chính mình thể nghiệm nhân vật, các em sẽ có cơ hội trải nghiệm tâm trạng,
cảm xúc của nhân vật, từ đó hiểu sâu hơn về nhân vật, về tác phẩm về những
nỗi niềm của nhà văn với số phận con người.
Trên thực tế, chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 đã thực hiện sự đổi
mới. Vấn đề tích hợp ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Làm Văn ở bộ
SGK Ngữ Văn 11 - Cơ bản rất hợp lí theo thứ tự số tiết/tuần và số tuần học
theo phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong đó, thời
lượng dành cho mảng giảng dạy tác phẩm truyện là tương đối lớn. Tác phẩm
truyện trong chương trình văn 11 đều là tác phẩm của các nhà văn tên tuổi
và chủ yếu đặt ra những vấn đề hiện thực của xã hội nên cũng gần gũi với
học sinh. Đây cũng là điều kiện thuận lợi giúp các em tiếp cận tác phẩm dễ
dàng hơn và giúp tôi thực hiện phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật
hiệu quả hơn.
Đồng thời, hiện nay công nghệ thông tin ngày càng phát triển, cơ sở vật chất
đầy đủ, sự quan tâm của các cấp ban ngành cũng góp phần tích cực lớn cho
phương pháp giảng dạy trong đó có phương pháp cho học sinh sắm vai nhân
vật mà tôi đang nghiên cứu.

Khó khăn:
Hiện nay, môn văn không phải là môn học được học sinh quan tâm và đầu tư
nhiều, thậm chí có em còn tỏ ra chán ghét và chống đối khi phải học văn.
Thực tế học sinh không cảm thấy học văn tốt sẽ có “tương lai tươi sáng” nên
chủ yếu các em chỉ học theo kiểu đối phó, thời gian chủ yếu là các em đầu tư
cho các môn khối A,B,A1. Rất ít học sinh chọn thi khối C (vì ít ngành đào
tạo và khó xin việc), khối D (vì hs nông thôn rất yếu môn ngoại ngữ), nên hs
yêu văn và quan tâm đến văn rất ít. Thậm chí, nhiều học sinh còn tận dụng
giờ văn để “ngủ dưỡng sức”, làm việc riêng hoặc học bài môn khác... nếu gv
dễ: hoặc ngáp dài, ngáp ngắn, chán nản, mệt mỏi... vì giờ học không có gì
hay và hứng thú, mặc dù giáo viên giảng hay, còn tồn tại rất nhiều.
Đặc biệt là học sinh 11, vì đây là khối lớp mà các em đã quen thầy cô, bạn
bè không còn sự nhút nhát bỡ ngỡ của lớp 10 nhưng cũng chưa phải học để
thi tốt nghiệp và đại học như học sinh 12.
Nhu cầu xã hội không cao, gia đình không khuyến khích hs học văn, các tiết
học văn đôi khi còn bị cắt xén giảm tải đến tối đa... cũng là một trong những
nguyên nhân khiến hs không hứng thú với môn văn. Từ thực trạng ấy, giáo
viên đôi khi cũng chán nản không muốn đầu tư công sức cho việc giảng dạy
cũng như đổi mới phương pháp và đôi khi thấy chạnh lòng vì công lao mình
bỏ ra cũng không được đền đáp.
5


- Mặt khác, để sắm vai nhân vật thành công còn đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo
của cả học sinh lẫn giáo viên và sự hỗ trợ của các yếu tố khác. Trong khi đó:
Không phải tác phẩm truyện nào cũng có thể dễ dàng để phân vai cho học
sinh vì quá khó (Chữ người tử tù) hoặc vì bối cảnh rộng, nhiều nhân vật
(Hạnh phúc của một tang gia)...
- Trường THPT Xuân Thọ là trường mới thành lập, lại ở vùng sâu nên mặt
bằng học sinh thấp, việc lĩnh hội kiến thức của các em ngay trong lớp có tiết

đọc truyện cũng không đồng đều; chính vì thế, khi triển khai phân vai cho hs
giáo viên cũng khá vất vả. Các em đều thấy rất hào hứng khi được xem bạn
bè diễn kịch nhưng khi được phân công đảm nhận vai nhân vật thì đa phần
các em đều từ chối vì: sợ không thực hiện được, sợ quê...
- Mỗi tiết học 45 phút nên với những tác phẩm hay đoạn trích chỉ học 2 tiết
thường không đủ thời gian để các em vừa thực hiện việc sắm vai lại vừa đảm
bảo đọc – hiểu nội dung và nghệ thuật.
- Điều kiện trang phục, âm thanh, ánh sáng và các điều kiện hỗ trợ khác còn
thiếu thốn nên khi triển khai còn rất nhiều khó khăn, nếu tiết đọc truyện nào
cũng thực hiện thì dễ dẫn đến nhàm chán vì đơn điệu.
3. Số liệu thống kê:
- Theo phiếu khảo sát câu hỏi: “Em muốn có giờ học văn như thế nào?” đối
với các lớp 11B8, 11B9, 11B10 thì câu trả lời của các em chủ yếu là:
 Giáo viên vui vẻ, không gây áp lực cho học sinh, kết hợp giữa chơi và học.
 Cần kết hợp phương tiện hiện đại với đổi mới phương pháp giảng dạy, cho
học sinh xem phim, hoạt động ngoại khóa...
 Đối với những tiết đọc truyện, giáo viên cần cho hs diễn kịch hoặc tái hiện
nhân vật để khắc sâu hình tượng nhân vật và nội dung bài học.
- Như vậy, đa phần các em đều muốn áp dụng phương pháp sắm vai nhân vật
trong tiết đọc truyện nhưng trong quá trình dạy, vì điều kiện chủ quan từ
phía học sinh mà tôi chỉ có thể áp dụng phương pháp này cho lớp 11B8,
11B10 còn lớp 11B9 sẽ là lớp đối chứng.
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
- Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn học.
Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ
rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn
học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức

6


-

-

-

-

-

2.
a.

-

vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên
trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.Từ nhiều năm nay, phương pháp
dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một
trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ,
giáo dục nhân cách cho học sinh.
Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 11 tôi nhận thấy, muốn giờ dạy
đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần
phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng,
sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng
ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học
sinh.

Ở THCS và lớp 10, các em đã được học rất nhiều tác phẩm truyện nhưng khi
gv nhắc lại các tác phẩm đó hs chỉ nhớ một cách mơ hồ thậm chí có nhiều
em cũng không biết mình đã học hay chưa. Nguyên nhân chủ yếu là trong
những tiết học truyện giáo viên thường dạy theo phương pháp truyền thống
nên học sinh không có ấn tượng về tác phẩm, về nhân vật.
Ngay bản thân tôi cũng có một kỉ niệm không thể quên về giờ đọc văn năm
lớp 8, khi đó, tôi được cô phân công đọc vai nhân vật bà Nghị Quế. Thay vì
đọc là “cho thêm chị Dậu hai hào” thì tôi lại đọc thành “một hào hai”. Thời
gian trôi qua đã lâu, và lời giảng của cô cũng phai nhòa theo năm tháng
nhưng kỉ niệm về nhân vật thì không bao giờ phai nhòa trong tôi, và cũng vì
thế mà nội dung bài học cũng được khắc họa sâu hơn. Mà điều quan trọng
nhất là buổi học hôm ấy của chúng tôi cũng thật thú vị...
Từ thực tế ấy, với mong muốn tổ chức tiết đọc truyện có hiệu quả, tôi mạnh
dạn đóng góp phương pháp: “Tạo hứng thú trong giờ đọc văn bằng
phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật”.
Phương pháp mà tôi đưa ra mang tính kế thừa nhưng vẫn rất cấp thiết trong
tình hình thực tế hiện nay. Trong một năm nghiên cứu và ứng dụng tôi cũng
đã tìm ra được một số biện pháp thực hiện đề tài cụ thể mang tính thực tiễn
cao và có thể áp dụng cả trong chương trình Ngữ văn 10 và 12.
Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Nội dung:
Thể loại truyện:
Khái lược về truyện:
Cũng như thơ, truyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật (thuộc
phạm trù tự sự ) nhằm đáp ứng các nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ và
giải trí của con người bằng cách kể chuyện. Truyện hấp dẫn người
7


-





-

-

đọc bởi cái cõi đời sống vừa quen thuộc vừa lạ lẫm với hàng loạt
những tình tiết, sự kiện, biến cố liên tiếp xảy gây cảm giác hồi hộp,
căng thẳng, bất ngờ. Truyện lôi cuốn người đọc theo dõi diễn biến
cuộc đời của một hay nhiều nhân vật có tính cách và số phận giống
mình hoặc ngược lại với mình trong mối quan hệ chặt chẽ với hoàn
cảnh với môi trường xung quanh từ đó hiểu sâu hơn về tính cách và
số phận của chúng. Truyện có khi đi vào phản ánh đời sống tâm tư bí
ẩn và tế nhị của con người, thí dụ Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Có
khi gây ám ảnh về một số phận, một cuộc đời bi thảm, thí dụ Chí
Phèo của Nam Cao. Nhưng cũng có thể tái hiện những bức tranh xã
hội rộng lớn trên một chiều dài của lịch sử chẳng hạn Tấn trò đời
của Banzăc, Chiến tranh và hoà bình của L.Tônxtôi...Truyện sử dụng
nhiều hình thức ngôn ngữ như ngôn ngữ của người kể chuyện, ngôn
ngữ nhân vật (trong ngôn ngữ nhân vật có lời đối thoại, lời độc thoại
nội tâm).
Ngôn ngữ của người kể chuyện cũng được sử dụng khá linh hoạt, có
khi ở bên ngoài đóng vai trò dẫn dắt tình tiết, hành động, miêu tả sự
kiện, biến cố; có khi nhập vào lời nhân vật. Ngôn ngữ truyện và
ngôn ngữ đời sống cũng có mối quan hệ gắn bó được vận dụng uyển
chuyển tạo nên sức hấp dẫn của sự sống động và chân thực.
Các kiểu truyện
Xét theo kiểu truyện có thể chia thành 3 loại:

Kiểu tự sự dân gian
Kiểu tự sự trung đại
Kiểu tự sự hiện đại
Trong tự sự dân gian (truyện dân gian) có: thần thoại, truyền thuyết,
cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.
Trong tự sự trung đại có truyện viết bằng chữ Hán ( Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ; Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn
phái...) truyện viết bằng chữ Nôm có Truyện Kiều của Nguyễn Du,
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu...)
Trong tự sự hiện đại: có truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài...
Những lưu ý khi đọc truyện
Cần tìm hiểu bối cảnh xã hội và hoàn cảnh sáng tác để hiểu sâu hơn
nội dung và các tầng ý nghĩa của truyện.
Chú ý các yếu tố thuộc về nội dung của truyện: cốt truyện, nhân vật,
tình tiết; các yếu tố thuộc về hình thức của truyện: điểm nhìn trần
8









-



thuật, giọng điệu, ngôn ngữ.

Về cốt truyện: Nắm được cốt truyện là yêu cầu thông thường khi
đọc truyện. Nhưng vì cốt truyện là hệ thống sự kiện, biến cố xảy ra
trong đời các nhân vật có tác dụng làm bộc lộ tính cách và số phận
nhân vật cho nên nắm được cốt truyện còn có nghĩa là phải hiểu
được các sự kiện và biến cố trong truyện có một ý nghĩa như thế nào
trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật và chuyển tải thông điệp của
tác phẩm. Ví dụ: Với tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, nếu tiếp cận
ở góc độ quan hệ giữa Chí Phèo với thị Nở thì hành trình cuộc đời
Chí Phèo sẽ được chia thành hai chặng: Chặng trước khi gặp thị Nở
và chặng sau khi có thị Nở.
Về nhân vật: Là yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm văn học, nhân
vật được biểu hiện qua các phương diện: ngoại hình, hành động,
ngôn ngữ và thế giới nội tâm. Mỗi phương diện đều góp phần bộc lộ
những nét riêng trong tính cách và số phận của nhân vật. Các cây
bút tài năng thường không chỉ để dấu ấn riêng trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật khiến các nhân vật có thể trở thành những hình tượng
nghệ thuật bất hủ, có sức sống lâu bền trong ký ức của nhiều thế hệ
người đọc mà còn khơi gợi ta suy ngẫm về những chiều sâu khác nữa
của ý nghĩa nhân sinh. Thí dụ: Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Sở
Khanh của Nguyễn Du; Xuân Tóc Đỏ, Nghị Hách của Vũ Trọng
Phụng; Chí Phèo, Thị Nở của Nam Cao...
Cũng thế, các yếu tố như tình tiết, điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ
đều là nơi bộc lộ sức hấp dẫn của truyện nếu ta biết cách tìm hiểu
đúng hướng và kỹ lưỡng.
Thực tế giảng dạy giờ đọc thể loại truyện:
Để giờ dạy đọc thể loại truyện đạt hiệu quả cao luôn cần phải đảm bảo thực
hiện tốt hai khâu: soạn bài của học sinh và thực hiện giờ dạy tốt của giáo
viên.
Với khâu soạn bài: giáo viên thường dặn dò học sinh tìm hiểu phần tác giả,
đọc trước tác phẩm và tóm tắt, trả lời câu hỏi theo phần hướng dẫn học bài

có trong sách giáo khoa. Nhưng thông thường với những yêu cầu ấy của
giáo viên, học sinh chỉ soạn sơ sài theo kiểu đối phó bằng cách chép lại phần
trả lời trong sách học tốt hoặc chép lại phần soạn bài của bạn. Nếu giáo viên
kiểm tra phần đọc tác phẩm của học sinh bằng cách yêu cầu tóm tắt tác
phẩm thì các em cũng sẽ đối phó bằng cách đọc thuộc phần tóm tắt có sẵn
trong sách hoặc chép từ sách học tốt. Tóm lại, học sinh sẽ không đọc cũng
9




-




b.


-

-

-



như tìm hiểu tác phẩm trước ở nhà một cách nghiêm túc dẫn đến kết quả giờ
dạy không cao.
Với khâu giảng dạy trên lớp: giáo viên thường phải cho học sinh đọc tác

phẩm vì nếu không thì sẽ không thể có giờ học tốt. Nhưng đọc tác phẩm tại
lớp sẽ rất mất thời gian vì tác phẩm truyện thường rất dài mà chỉ đọc thông
thường sẽ không thể gây được hứng thú để học sinh có thể tập trung vào bài
học và cũng không nắm được tác phẩm.
Như vậy, học sinh chuẩn bị bài tốt thì sẽ góp phần lớn cho giờ học ở trên lớp
được thành công. Làm thế nào để cho học sinh nghiêm túc chuẩn bị bài và
hứng thú khi học giờ đọc truyện mà chủ động chiếm lĩnh kiến thức? “Tạo
hứng thú trong giờ đọc văn bằng phương pháp cho học sinh sắm vai nhân
vật” là giải pháp mà tôi lựa chọn để giải quyết vấn đề đã đặt ra.
Và các giải pháp để vận dụng phương pháp cho học sinh sắm vai là:
Xác định mục đích của phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật.
Xác định nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ đọc truyện.
Các bước tiến hành cho học sinh sắm vai nhân vật.
Biện pháp thực hiện các giải pháp:
Để các tiết đọc truyện được thành công, đặc biệt tạo được sự hứng thú cho
giờ học, người giáo viên và học sinh cần tuân thủ theo các trình tự như sau:
Xác định mục đích của phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật:
Phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh: khi sắm vai nhân vật
học sinh phải tự đọc tác phẩm, tự tìm tòi, khám phá nhân vật để có thể sắm
vai và tái hiện lại nhân vật một cách chính xác, sinh động nhất. Như vậy,
phương pháp này cũng là một giải pháp tích cực giúp giải quyết khâu chuẩn
bị bài của học sinh.
Giúp cho học sinh có sự tự tin trong học tập, và đặc biệt là tự tin trước đám
đông, đồng thời có điều kiện tự nhìn nhận, khám phá năng khiếu của bản
thân.
Tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: qua việc sắm vai nhân vật, học
sinh có thể nắm bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo thông
qua sự tự tư thể nghiệm của bản thân . Áp dụng phương pháp này sẽ khích
thích học sinh tìm kiếm những nguồn tri thức có liên quan đến nhân vật, tác
phẩm. Trên cơ sở đó, các em sẽ thu lượm những kiến thức cho bản thân

thông qua quá trình tìm kiếm tri thức; đồng thời, giúp học sinh rèn luyện kĩ
năng sống cần thiết.
Xác định nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ đọc truyện:
Nhiệm vụ của giáo viên:
10


 Khâu chuẩn bị: Thường được thực hiện ở tiết trước:
- Trước khi tiến hành cho học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên trước hết cần
phác thảo trước kịch bản cho từng tác phẩm truyện. Tùy vào dụng ý của
từng tiết dạy mà giáo viên sẽ định hướng cho cho học sinh sẽ sắm vai nhân
vật như thế nào.
- Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm và đọc tài liệu liên quan đến tác
phẩm: sách giáo khoa và các tài liệu khác như sách tham khảo, phim ảnh,
kịch…
- Sau cùng, giáo viên tiến hành phân vai cho từng học sinh. Việc phân vai
trước hết là theo sự tình nguyện và khả năng của học sinh.
 Khâu thực hiện: Ở tiết dạy trên lớp, sau phần tiểu dẫn thay cho phần
đọc hoặc tóm tắt tác phẩm:
- Khi học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên cần tập trung theo dõi. Khi học
sinh gặp khó khăn, lúng túng trong thể hiện lời thoại hoặc thể hiện chưa
đúng tính cách nhân vật giáo viên cần kịp thời can thiệp, hướng dẫn học
sinh thể hiện nhân vật thật tự nhiên hoặc quay lại với tác phẩm nếu học sinh
diễn quá đà. Cần lưu ý là phần sắm vai là để phục vụ cho bài học nên giáo
viên cần quản lí lớp thật tốt để các em thật tập trung.
- Cuối phần thể hiện của học sinh, nhiệm vụ của giáo viên là nhận xét, đánh
giá, ghi nhận đóng góp của học sinh, cho điểm.
Nhiệm vụ của học sinh
 Khâu chuẩn bị: Thường được thực hiện ở nhà:
- Đối với tất cả học sinh, cần đọc kĩ tác phẩm, tóm tắt, soạn bài trước ở nhà để

trong tiết học trên lớp phải nhận xét, đánh giá được phần thể hiện vai diễn
của bạn.
- Đối với học sinh được phân vai, ngoài phần chuẩn bị bài thông thường còn
cần phải tập thể hiện vai nhân vật thật kĩ ở nhà (có thể có cả trang phục,
dụng cụ hỗ trợ).
 Khâu thực hiện: Ở tiết dạy trên lớp, thực hiên sau phần giới thiệu về tác
giả, tác phẩm thay cho phần đọc hoặc tóm tắt tác phẩm:
- Khi sắm vai nhân vật, học sinh cần thể hiện thật tự nhiên, linh hoạt ở từng
tình huống sao cho lời thoại rõ ràng, chính xác, cảm xúc nhất.
- Với học sinh theo dõi cần trật tự, nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá phần thể
hiện nhân vật.
- Cuối phần thể hiện nhân vật, học sinh cần tự nhận xét, đánh giá và rút kinh
nghiệm phần thể hiện nhân vật.
 Các bước tiến hành cho học sinh sắm vai nhân vật:
11


- Bước 1: Sau khi giới thiệu về tác giả, học sinh sẽ giới thiệu về tác phẩm và
nhân vật sẽ tiến hành sắm vai.
- Bước 2: Học sinh sẽ thể hiện vai nhân vật trước lớp (có thể là một hoặc
nhiều học sinh).
- Bước 3: Lớp nhận xét, đánh giá phần trình bày của học sinh và cảm nhận
ban đầu về nhân vật.
- Bước 4: Giáo viên đưa ra nhận định ban đầu về nhân vật, cho điểm học sinh
và chuyển sang phần tìm hiểu tác phẩm.
c. Tổng kết đánh giá ưu, nhược điểm:
Ưu điểm
- Phát huy tính chủ động, tích của học sinh trong việc soạn bài ở nhà: Chuẩn
bị bài là một khâu quan trọng để học sinh trở thành chủ thể tiếp nhận văn
bản. Nếu trước đây học sinh chỉ soạn bài theo kiểu đối phó, thì nay với

phương pháp này, các em chủ động và kĩ lưỡng hơn.
- Giúp học sinh khắc sâu kiến thức, cảm nhận về tác phẩm, về nhân vật tốt
hơn.
- Sắm vai nhân vật là cơ hội tốt cho các em thể hiện năng khiếu, bản lĩnh của
mình và mạnh dạn hơn trước đám đông (đặc biệt với những học sinh nhút
nhát).
- Và ưu điểm lớn nhất là tiết học sẽ thật sự sinh động, lôi cuốn và tạo được
hứng thú cho học sinh khi đọc – hiểu tác phẩm.
Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm, phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật cũng
có những nhược điểm cần phải khắc phục.
- Khi vận dụng phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên còn
lúng túng ở một số thao tác sau:
 Thao tác lựa chọn tác phẩm, nhân vật: Tác phẩm hay, nhân vật đặc sắc
nhưng lại không phù hợp để học sinh sắm vai như tác phẩm “Chữ người tử
tù” vì học sinh rất khó thể hiện được đúng tính cách, phẩm chất nhân vật.
 Thao tác phân vai: có trường hợp không thể phân vai vì các em cảm thấy
không thể hiện được nhân vật. Cũng có trường hợp, các em miễn cưỡng
chấp nhận nhưng sau đó thể hiện không tốt vì không chuẩn bị hoặc chuẩn bị
không kịp. Thường là giáo viên sẽ phân vai theo tổ nhóm nên chỉ có một số
thành viên trong lớp là thực hiện việc nhập vai chủ động còn đa phần các em
chỉ thụ động theo dõi. Điều này dẫn đến học sinh sẽ không có cơ hội thể
nghiệm như nhau, vì vậy, việc tiếp thu kiến thức cũng không đồng đều.
12


 Thao tác quan sát, hỗ trợ học sinh khi thực hiện: mục đích của phương pháp
là gây hứng thú cho học sinh nên đôi khi lớp quá phấn khích mà ảnh hưởng
đến phần thể hiện nhân vật của bạn và làm mất trật tự ảnh hưởng đến lớp
bên cạnh và mất thời gian vì giáo viên cần dừng lại để điều chỉnh. Khi học

sinh thực hiện xong, giáo viên cũng khó đi ngay vào phần phân tích vì còn
tốn thời gian ổn định lớp.
 Thao tác tổng kết: đôi khi chưa thật chính xác, kĩ lưỡng vì sợ mất thời gian
của tiết học.
- Học sinh chưa thật sự nghiêm túc sắm vai nên vẫn còn ồn ào, mất trật tự...
3. Thiết kế thực nghiệm:
Sau đây tôi xin giới thiệu hai thiết kế thể nghiệm về phương pháp: “cho học
sinh sắm vai nhân vật”
a. Tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao:
 Tiết 50: Sau phần tìm hiểu về tác giả:
GV phân công chuẩn bị viết lời thoại kịch bản, chuẩn bị trang phục và
phân công vai nhân vật cho từng học sinh với yêu cầu cơ bản:
 Vai nhân vật: Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, bà cô Thị Nở.
 Nội dung cần thực hiện:
- HS tái hiện lại hình tượng nhân vật trong phân đoạn “Chí Phèo vừa đi vừa
chửi” với phần hóa trang, trang phục và lời thoại phù hợp.
- Làm nổi bật quá trình hồi sinh và bi kịch bị từ chối quyền làm người, GV
lưu ý HS tái hiện phân đoạn “CP gặp Thị Nở và CP đau khổ, tuyệt vọng khi
bị TN từ chối rồi xách dao đến nhà BK”
HS chuẩn bị ở nhà: Học lời thoại, nắm bắt cảm xúc của nhân vật và tập
luyện trước vai nhân vật:
- HS tái hiện lại hình tượng nhân vật trong phân đoạn “Chí Phèo vừa đi vừa
chửi” với phần hóa trang, trang phục và lời thoại phù hợp do chính mình
biên soạn.
- Làm nổi bật quá trình hồi sinh và bi kịch bị từ chối quyền làm người, hs tái
hiện phân đoạn “CP gặp Thị Nở và CP đau khổ, tuyệt vọng khi bị TN từ chối
rồi xách dao đến nhà BK” cần thể hiện được sự chuyển biến tâm trạng của
nhân vật: xúc động -> tỉnh rượu-> tỉnh ngộ-> ăn năn-> muốn lương thiện->
đau khổ-> tuyệt vọng... bằng lời thoại và đặc biệt bằng nét mặt.
 Tiết 53 (có kèm theo video)

Khâu thực hiện trên lớp :
- Chuẩn bị bối cảnh.
- Giới thiệu nhân vật.
13


- Thực hiện sắm vai nhân vật:

Uống rượu từ sáng đến chiều

b.





Chí Phèo vừa đi vừa chửi:

Chí phèo gặp Thị Nở
Chí Phèo giết BK rồi tự sát.
Khâu nhận xét đánh giá, rút kinh nghiệm và cho điểm của giáo viên:
Phần chuẩn bị chưa tốt: chưa có trang phục.
Phần thể hiện chưa thật tự nhiên, chưa phù hợp với tâm trạng nhân vật (còn
cười giỡn nhiều)
Tác phẩm Người trong bao của Shê-khốp:
Tiết 92: Sau tiết đọc thêm “bài thơ số 28 – Ta-go”:
GV phân công chuẩn bị viết lời thoại kịch bản, chuẩn bị trang phục và
phân công vai nhân vật cho từng học sinh với yêu cầu cơ bản:
Vai nhân vật: Bê-li-cốp.
Nội dung cần thực hiện:

Với tác phẩm Người trong bao (shê-khốp), để khắc họa tính cách và lối sống
trong bao của Bêlicôp, giáo viên cần lưu ý hình dạng xuất hiện của nhân vật
phải ấn tượng ngay từ lúc đầu.
HS chuẩn bị ở nhà: Học lời thoại, nắm bắt cảm xúc của nhân vật và tập
luyện trước vai nhân vật:
14


- Chuẩn bị trang phục: áo khoác, mũ, dù, giày, túi, kính...
- Tập thể hiện vai nhân vật trước ở nhà.
 Tiết 94: (có kèm theo video)
Khâu thực hiện trên lớp :
- Chuẩn bị bối cảnh.
- Giới thiệu nhân vật.
- Thực hiện sắm vai nhân vật:

Bêlicôp xuất hiện kì quái.
Đến nhà đồng nghiệp, ngồi trên ghế...
Khâu nhận xét đánh giá, rút kinh nghiệm và cho điểm của giáo viên: Đã
chuẩn bị được trang phục nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu.
IV. KẾT QUẢ :
- Học sinh đã thật sự quan tâm đến việc chuẩn bị bài ở nhà và hứng thú hơn
với giờ học ở lớp. Học sinh chủ động tìm tòi kiến thức trong không khí sôi
nổi, khắc sâu kiến thức và tăng dần khả năng cảm thụ tác phẩm. Giờ văn đối
với học sinh cũng trở nên nhẹ nhàng hơn, sinh động hơn. Học sinh cũng
năng động hơn, mạnh dạn hơn và tự tin hơn khi đứng trước đông người. Đây
cũng là cơ sở giúp giáo viên phát hiện được đầy đủ hơn năng lực của học
sinh để kịp thời uốn nắn, sửa chữa để tạo môi trường học tập tích cực, thân
thiện.
Giáo viên cảm thấy nhẹ nhàng hơn, chủ động hơn trong giờ lên lớp vì

trong giờ học các em đã thực sự trở thành trung tâm và cũng hăng hái phát
biểu hơn. Và điều khiến người dạy vui nhất đó chính là kiến thức mà các em
tiếp thu được rất chắc chắn vì thế kết quả học tập cũng được cải thiện rất
nhiều. Đặc biệt với các hình tượng nhân vật đã được thể hiện bằng phương
pháp nhập vai, học sinh luôn có ấn tượng sâu sắc. Điều này góp phần rất lớn
vào việc đảm bảo kiến thức cho phân môn làm văn ở dạng nghị luận về một
tác phẩm, đoạn trích văn xuôi, cụ thể là dạng đề phân tích hình tượng nhân
vật.
15


- Kết quả thi cuối học kì I năm học 2012-2013:

Lớp 11b8: Có áp dụng SKKN.
Tổng số HS
42

Giỏi
SL
2

Tỉ lệ
4.8%

Khá
SL
10

Tỉ lệ
23.8%


Trung bình
SL
26

Tỉ lệ
61.9%

Yếu
SL
4

Tỉ lệ
9.5%

 Lớp 11b10: Có áp dụng SKKN.
Tổng số HS
39

Giỏi
SL
5

Tỉ lệ
12.8%

Khá
SL
7


Tỉ lệ
17.9%

Trung bình
SL
23

Tỉ lệ
60%

Yếu
SL
4

Tỉ lệ
10.3%

 Lớp 11b9: Không áp dụng SKKN.
Tổng số HS
40

Giỏi
SL
2

Tỉ lệ
5%

Khá
SL

2

Tỉ lệ
5%

Trung bình
SL
27

Tỉ lệ
67.5%

Yếu
SL
9

Tỉ lệ
22.5%

Từ kết quả thực nghiệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng đa số học sinh
thích giờ học có vận dụng phương pháp sắm vai nhân vật. Phương pháp
này phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh và góp phần cải
thiện đáng kể số điểm dưới trung bình của các em, đồng thời nâng cao tỉ lệ
điểm khá.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sắm vai nhân vật không phải là một phương pháp độc tôn. Nó cũng có
những hạn chế nhất định, nếu tổ chức không khéo dễ gây nên tình trạng ồn
ào, mất tập trung vào tiết học dẫn đến gián đoạn bài học, đôi khi không đảm
bảo thời lượng chương trình. Nên khi vận dụng, chúng ta cần đảm bảo một
số nguyên tắc như sau:

1. Khâu chuẩn bị phải kĩ lưỡng:
- Để có thể thực hiện nhập vai nhân vật thành công và đảm bảo được tiến trình
tổ chức bài dạy, Gv cần phải yêu cầu học sinh chuẩn bị bài thật tốt. Đặc biệt
là những học sinh được chọn để sắm vai cần phải nắm được lời thoại theo
kịch bản đã soạn sẵn để thể hiện được nhân vật một cách tự nhiên, linh hoạt
nhất
- Ngoài ra, trong quá trình chuẩn bị, đôi khi học sinh lúng túng ở khâu viết lời
thoại, phân đoạn, bối cảnh thì gv cần trực tiếp hướng dẫn và lưu ý phần sắm
16


vai là để phục vụ cho bài dạy. Giáo viên có thể khuyến khích sự sáng tạo của
các em nhưng cũng cần đinh hướng để học sinh thể hiện chân thực vai nhân
vật. Bước chuẩn bị càng chu đáo bao nhiêu thì bước thể hiện càng thành
công bấy nhiêu, càng thu hút được học sinh bấy nhiêu và càng làm cho tiết
học sinh động cũng như khắc sâu kiến thức bấy nhiêu.
2. Khâu thực hiện trên lớp phải hiệu quả:
- Thứ nhất, giáo viên cần tạo được không khí vừa thoải mái lại vừa nghiêm
túc để học sinh thực hiện việc sắm vai thành công.
- Thứ hai, Gv cần động viên khuyến khích hoặc điều chỉnh kịp thời nếu học
sinh lúng túng hay thiếu nghiêm túc.
- Thứ ba, giáo viên và học sinh phải luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau để
phần thể hiện của học sinh được tốt nhất.
3. Khâu quan sát, hỗ trợ phải linh hoạt:
- Trong khi học sinh sắm vai nhân vật, giáo viên cần quan sát và điều chỉnh
sao cho:
 Bối cảnh phù hợp
 Lời thoại chính xác
 Cử chỉ điệu bộ hợp lí
 Nét mặt biểu cảm

Để học sinh thể hiện đúng tâm trạng, tính cách ... của nhân vật vừa tạo được sự
hứng thú cho giờ học lại vừa nâng cao hiệu quả bài dạy.
4. Khâu nhận xét đánh giá phải chính xác:
- Với từng phân vai, giáo viên cần nhận xét thật chính xác những ưu và nhược
điểm của học sinh.
- Đánh giá và cho điểm công bằng để tạo được sự động viên khuyến khích
cho học sinh.
VI. KẾT LUẬN
- Khổng Tử đã từng nói” Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học
không bằng vui mà học”. Từ nội dung của câu nói và thực tế giảng dạy, ta
thấy niềm vui và sự ham thích sẽ là một động lực lớn giúp học sinh vượt qua
khó khăn để vươn lên trong học tập.
- Phương pháp cho học sinh sắm vai nhân vật là một phương pháp dạy học hiện
đại, phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh, là một trong
những phương pháp thích hợp để vận dụng vào dạy tác phẩm truyện.
Phương pháp này có thể giúp học sinh tự giác, hứng thú tìm hiểu tác phẩm,
bằng thực nghiệm chính nhân vật, để phân tích, khái quát theo con đường
cảm xúc hóa phù hợp với quy luật cảm thụ văn chương.
17


- Việc đưa ra phương pháp trên chỉ là kinh nghiệm có tính chất cá nhân được
rút ra trong quá trình giảng dạy của bản thân. Vì thế, phương pháp này khó
tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến chân tình từ phía thầy cô và các bạn đồng nghiệp trong tỉnh.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp
dạy học ở trường trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn trường phổ thông, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, 2000.

3. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh (2003), Phương pháp dạy văn, tập 1, Nxb
Giáo dục.
4. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt
(2005), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
5. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội
6. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11, tập 1 và tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Một số tài liệu tham khảo từ Internet.

Người thực hiện
(Ký Tên Và Ghi Rõ Họ Tên)

Nguyễn Thị Thanh Tâm

18


SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Trường THPH Xuân Thọ

BM04-NXĐGSKKN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Xuân Thọ, ngày 14

tháng 5

năm 2013


PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012-2013
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ ĐỌC TRUYỆN
BẰNG PHƯƠNG PHÁP CHO HỌC SINH NHẬP VAI NHÂN VẬT
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm Đơn vị (Tổ): Văn
Lĩnh vực: Phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn
Quản lý giáo dục

Phương pháp dạy học bộ môn: ........................... 
Phương pháp giáo dục 
Lĩnh vực khác: .................................................... 
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới

- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng tại đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực

hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt
hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt 
Khá 
Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

19

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)


Sở GD và ĐT Đồng Nai
Trường THPT Xuân Thọ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do – Hạnh phúc

BÁO CÁO THÀNH TÍCH
BÀ NGUYỄN THỊ THANH TÂM ĐỀ NGHỊ DANH HIỆU
CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP CƠ SỞ
I. Sơ yếu lí lịch bản thân và chức năng nhiệm vụ được giao:
1. Sơ yếu lí lịch :
- Họ và tên : NGUYỄN THỊ THANH TÂM
- Sinh năm: 1984, tại Quảng Ninh
- Chức danh và thời gian giữ chức vụ: Là giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn từ

năm 2008 đến nay.
2. Nêu chức năng, nhiệm vụ được giao :
- Là giáo viên dạy môn Ngữ Văn, giảng dạy các lớp: 11B5 (kì I), 11B8, 11B9,
11B10, 12C3, 12C8.
- Chủ nhiệm lớp 11B10 từ học kì II.
II. Thành tích đạt được trong năm qua :
1. Công tác chuyên môn :
- Tham gia hội giảng , đạt danh hiệu Giáo viên dạy giỏi cấp trường.
- Tổ trưởng bộ môn kiểm tra toàn diện: xếp loại giỏi, hồ sơ tốt.
2. Công tác chủ nhiệm:
- Lớp chủ nhiệm 11B10 có tiến bộ nhiều so với học kì I:
+ Về học tập: có 5 HS vào đội tuyển HS giỏi của trường; 1 HS Giỏi toàn diện
(tăng 1HS), 10HS tiên tiến (tăng 5HS), 18 HS xếp loại học lực trung bình và 8 HS
xếp loại học lực yếu, kém (giảm 5HS).
+ Về thi đua, hoạt động phong trào: Lớp tích cực hưởng ứng, tham gia các hoạt
động, cuộc thi do đoàn trường tổ chức.
+ Về xếp loại hạnh kiểm: Học sinh xếp loại hạnh kiểm tốt 32 em, HS xếp loại
hạnh kiểm khá 5, không có HS xếp loại hạnh kiểm Trung bình, yếu, kém.
3. Tích cực tự học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt.
4. Chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
III. Kết quả khen thưởng :
- Đạt danh hiệu LĐTT trong bốn năm liên tục.
- Đạt danh hiệu “Phụ nữ hai giỏi”
Thủ trưởng đơn vị cấp trên
trực tiếp nhận xét và xác nhận.

Tỉnh Đồng Nai, ngày 14 tháng 5 năm 2013
Người báo cáo

Nguyễn Thị Thanh Tâm

20



×