Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN dạy lí LUẬN văn học ở lớp 11 CHƯƠNG TRÌNH cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.61 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

DẠY LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở LỚP 11
CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Kiều Giang
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: Văn 
(Ghi rõ tên bộ môn)

- Lĩnh vực khác: ....................................................... 
(Ghi rõ tên lĩnh vực)

Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
 Mô hình
 Phần mềm
 Phim ảnh
 Hiện vật khác

Năm học: 2012 - 2013



2


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Kiều Giang
2. Ngày tháng năm sinh: 12 – 09 – 1978
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Phường Trảng Dài, Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại:
(CQ)/
(NR); ĐTDĐ: 0923 158968
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2006
- Chuyên ngành đào tạo: Lí luận văn học
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Ngữ văn
Số năm có kinh nghiệm: 11 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
1. Dạy lí luận văn học ở lớp 10 chương trình cơ bản

3


Tên SKKN: DẠY LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở LỚP 11 CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Xung quanh một tác phẩm văn học, bao giờ cũng có nhiều hướng phân tích, tiếp
cận nhưng được đánh giá là “khoa học nhất, hiệu quả nhất, vừa ý nghĩa về khoa học cơ
bản, vừa thiết thực về khoa học sư phạm” (PGS.TS Lã Nhâm Thìn), vẫn thuộc về hướng
phân tích từ góc nhìn thể loại.
Thể loại vốn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong văn học. Nhà nghiên cứu
văn học Nga M.Bakhtin từng khẳng định: “Đằng sau cái mặt ngoài vô cùng sặc sỡ và
đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy một vận mệnh to lớn
và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết là các
thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì hoặc hạng ba”.
Hẳn vì nhận ra tính chất quyết định của hướng phân tích theo thể loại nên các
thành viên trong ban Biên soạn Sách giáo khoa cấp THCS và THPT sắp xếp hệ thống tác
phẩm văn học có cấu trúc theo hệ thống thể loại, theo kiểu văn bản. Tác phẩm văn học
trong sách giáo khoa cấp THCS hoàn toàn được sắp xếp theo thể loại, kiểu văn bản. Cấu
trúc phần văn học trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT có sự kết hợp giữa tiến trình lịch
sử văn học với hệ thống thể loại. Đặc biệt hơn khi Bộ giáo dục ban hành Hướng dẫn thực
hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn thì ở mục Trọng tâm kiến thức, kĩ năng, bao
giờ cũng là định hướng đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
Từ thực tiễn giảng dạy, người viết nhận ra muốn dạy tốt, người giáo viên không
chỉ định được hướng đi mà quan trọng còn phải nắm được bản chất vấn đề. Bản chất đó
một phần nằm ở các kiến thức lí luận, những chiếc chìa khóa giúp học sinh mở được kho
tàng văn học vốn vô cùng đa dạng, phong phú thông qua việc mã hóa tác phẩm văn học.
Suốt cả chương trình THCS và năm đầu của bậc THPT, dù dạy và học tác phẩm
văn học chủ yếu từ khía cạnh thể loại, thế nhưng mãi đến cuối học kì I của lớp 11, học
sinh mới được học bài “Một số thể loại văn học: thơ, truyện” và cuối học kì II sẽ học
bài “Một số thể loại văn học: kịch, nghị luận”. Theo phân phối chương trình, cả hai
thời điểm này, học sinh đều vừa thi học kì xong. Điều này ảnh hưởng ít nhiều đến chất
lượng tiếp thu kiến thức của các em. Trong hoàn cảnh không thể thay thế được chương
4



trình, người dạy chỉ còn cách thông qua các đơn vị tiết học vô cùng khiêm tốn sẽ kịp thời
cung cấp những vấn đề lí luận vô cùng quan trọng đó một cách dễ dàng và hiệu quả nhất.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số vấn đề về loại thể và thể loại văn học
Trong quá trình phát triển lâu dài của văn học, loại thể là một yếu tố mà bên cạnh
một mặt biến động đổi thay lại có những yếu tố tương đối ổn định. Chẳng thế mà đọc tác
phẩm của các nhà văn thơ dù khác nhau về thời đại, nét văn hóa, ngôn ngữ, nội dung
nhưng có sự gần gũi về cảm xúc, về ý thức biểu hiện thế giới nội cảm. Những yếu tố
tương đồng và tương đối ổn định đó trong văn học biểu hiện nhiều mặt và thể loại văn
học là một yếu tố quan trọng. Bởi một tác phẩm văn học bao giờ cũng tồn tại trong
những hình thức của các thể loại văn học. Không có tác phẩm nào tồn tại ngoài hình thức
quen thuộc của thể loại. Nói cách khác sự hình thành và phát triển của thể loại cũng là sự
hình thành và phát triển của văn học qua các giai đoạn. Nguồn gốc của thể loại bắt nguồn
từ những nhu cầu xã hội, văn hóa, giao lưu văn hóa, sự thể nghiệm trong sáng tác của
người nghệ sĩ. Cuối cùng hình thành những thể loại tương đối ổn định, có một khả năng
phản ánh hiện thực nhất định. Từ đó thể loại ấy được kế thừa, vận dụng và biến đổi cho
phù hợp với điều kiện xã hội mới. Cũng có khi một thể loại sẽ đi đến chỗ suy tàn, hóa
thân vào các thể loại khác, còn nó thì chấm dứt sự tồn tại. Thể loại văn học mang tính
thời đại và dân tộc sâu sắc, gắn liền với ngôn ngữ, tâm lí, truyền thống văn hóa dân tộc.
Phân tích một tác phẩm văn học không thể xem nhẹ đặc trưng thể loại.
Loại thể văn học là phạm trù phân loại các tác phẩm văn học vốn đa dạng. Loại thể
văn học thuộc về ý thức, về cách thể hiện cuộc sống trong văn học cũng như cách cấu tạo
và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ thể. Từ thời cổ xưa đến nay có khá ý
kiến, nhưng trải qua thời gian dài, thế hệ sau vẫn kế thừa lại những kết quả của thế hệ đi
trước. Một số nhà nghiên cứu có đưa ra cách phân loại mới như giáo sư Trần Đình Sử.
Ông chia văn học thành năm loại: tự sự, trữ tình, kịch, nghị luận, kí, bên cạnh cách chia
truyền thống có sự thống nhất cao như cách chia ba và cách chia bốn.
Vấn đề thể loại văn học lại càng phức tạp hơn. Bởi lẽ, các thể loại văn học đã

nhiều lại luôn ở trong sự vận động, thay đổi, pha trộn vào nhau. Tiêu chí phân loại cũng
5


rất nhiều. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, người giáo viên sẽ phải hết sức lưu ý những
trường hợp trung gian. Qua đó, người dạy sẽ định hướng cho học sinh những điều cần
thiết trong phân tích, tiếp cận tác phẩm.
1.2. Sơ lược về quá trình phát triển thể loại văn học trong Văn học viết Việt
Nam
Trải qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, xã hội, nền văn học có sự hình
thành và phát triển rất khác nhau. Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tồn tại, phát
triển cho đến ngày nay với những hệ thống thể loại được hình thành và bổ sung trong quá
trình lịch sử lâu dài. Văn học viết ra đời từ thế kỉ X, trải qua hai lần định danh: văn học
trung đại và văn học hiện đại.
Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, do tồn tại trong môi trường xã hội phong kiến
trung đại nên văn học thời kì này được gọi là văn học trung đại. Văn học trung đại hình
thành một hệ thống khá hoàn chỉnh và chậm biến đổi. Xét về góc độ thể loại, nền văn
học thời kì này có hai bộ phận chính: các thể loại được tiếp nhận từ văn học Trung Hoa
và các thể loại có nguồn gốc dân tộc. Ở vị trí trung tâm là các thể loại có tính chất công
cụ - hành chính như: chiếu, cáo, biểu, hịch…, rồi mới đến các thể loại văn chương nghệ
thuật: truyện, kí, thơ, phú. Bên cạnh các thể loại tiếp thu, văn học trung đại cũng có
những sáng tạo ra những thể loại đặc thù, mang nguồn cội truyền thống: truyện thơ,
ngâm khúc, hát nói, tuồng. Thể loại vốn giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Thể loại
được đánh giá là nhân vật chính, nhân vật số một của tiến trình văn học, điều này càng
đúng hơn với văn học trung đại vì tên thể loại đã xác định tính quy phạm về chức năng
và hình thức thể loại của tác phẩm. Bằng chứng là rất nhiều tác phẩm có tên tác phẩm
gắn liền với tên thể loại: Thiên đô chiếu, Đại cáo bình Ngô, Bạch Đằng giang phú,
Truyền kì mạn lục… Ngoài ra, phong cách thể loại cũng được đặt ra và đánh dấu vai trò,
vị trí không thể thiếu của thể loại.
Từ đầu thế kỷ XX, đất nước có nhiều biến chuyển lớn lao trong đời sống xã hội và

tinh thần. Hoàn cảnh tạo cơ sở làm nảy sinh yêu cầu nền văn học phải có sự đổi mới theo
hướng hiện đại hóa. Và một trong những vấn đề quan trọng của hiện đại hóa văn học là
biến đổi các thể loại văn học theo hướng hiện đại. Trong giai đoạn giao thời, các thể loại
xưa cũ vẫn còn được các tác giả xuất thân Nho học sử dụng nhưng cũng có ít nhiều biến
6


đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. Một số thể loại theo vòng xoáy của thời đại đành chấp
nhận lui vào dĩ vãng để nhường chỗ cho những sự tiếp thu từ nền văn hóa, văn học
phương Tây. Kịch được du nhập từ phương Tây đã trở thành một thể loại sân khấu hiện
đại bên cạnh các thể kịch hát truyền thống. Báo chí phát triển dẫn đến sự ra đời của thể
phóng sự. Phê bình văn học cũng có cơ sở phát sinh và tồn tại, dần trở thành một hoạt
động chuyên biệt, tham gia tích cực vào đời sống văn học. Các thể loại văn xuôi tự sự
cũng có sự biến đổi nhanh chóng và sâu rộng. Đáng kể nhất là sự góp mặt của văn xuôi
quốc ngữ với nhiều yếu tố thuộc cả nội dung lẫn hình thức. Công cuộc hiện đại hóa thơ
tuy diễn ra có phần muộn màng nhưng lại có nhiều sự bứt phá, bùng nổ dữ dội, đặc biệt ở
những năm 30 với phong trào thơ Mới. Từ sau năm 1945, với cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng tháng Tám thành công, văn học hiện đại Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mới.
Thơ có nhiều nguồn cảm hứng mới làm thay đổi cả diện mạo và đặc điểm của nền thơ.
Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, thơ là thể loại nổi trội và phong phú hơn
cả, với những khuynh hướng khá đa dạng. Sau kháng chiến chống Pháp, thơ có điều kiện
mở rộng đề tài, chủ đề, cảm hứng. Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, thơ có sự kết hợp
giữa cảm hứng sử thi và chất trữ tình. Về văn xuôi, có những biến đổi mạnh mẽ và toàn
diện từ đề tài, chủ đề đến nhân vật và nghệ thuật trần thuật ngôn ngữ, giọng điệu. Từ sau
1975, văn xuôi đổi mới trong việc mở rộng quan niệm và cách nhìn về hiện thực. Từ bỏ
sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng,
ngày nay người viết đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Các tác giả đã không còn thể
hiện suy nghĩ của mình mà để cho các nhân vật tự nói lên quan điểm, thái độ của mình
và để cho ý thức có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Càng tiếp cận gần với cuộc sống,
văn xuôi tự sự càng có nhiều sự cách tân rõ rệt, nhất là về phương diện nội dung.

Điểm sơ qua sự phát triển của thể loại theo chiều dài lịch sử của dân tộc để thấy
rằng sự phát triển của văn học gắn liền với sự phát triển của thể loại. Thể loại có vị trí vô
cùng quan trọng trong tiến trình phát triển của một nền văn học, vì vậy đọc hiểu tác
phẩm văn học theo thể loại cũng là điều vô cùng cần thiết.
1.3. Vấn đề dạy học tác phẩm văn học theo loại thể

7


Không ai có thể phủ nhận được tác dụng to lớn của việc phân tích tác phẩm theo
thể loại. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, chắc chắn xuất hiện những tồn tại khó giải
quyết, nếu người giáo viên không chú ý và cố gắng khắc phục.
Như chúng ta đã biết, “thể loại văn học là một hiện tượng loại hình của sáng tác
và giao tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố tác
phẩm … Nhưng thể loại tác phẩm không giản đơn chỉ là loại hình và lặp lại” (Trần Đình
Sử) Bản chất của sáng tạo nghệ thuật là tính độc đáo không lặp lại, thực tế các thể loại và
loại văn học không ngừng xâm nhập vào nhau, tạo thành các loại trung gian. Hiện tượng
này dẫn đến hệ quả là sự tồn tại vấn đề “chất của loại” trong thể. Nghĩa là có rất nhiều
tác phẩm văn học tuy thuộc về thể loại này nhưng lại mang tính chất của loại khác. Với
suy nghĩ dù tác phẩm có mang trong mình những đặc điểm trung gian thì nó vẫn thuộc về
một thể loại chủ đạo nào đó, vì vậy người dạy có thể bỏ qua “chất của loại”. Vả lại, đối
với chương trình cơ bản, không chuyên, trong một dung lượng của các bài học hạn chế,
người dạy cũng không thể triển khai những nội dung quá sâu và rộng. Việc xa rời bản
chất loại thể của tác phẩm dẫn đến tình trạng phân tích, nhận xét, đánh giá tác phẩm
mang tính rập khuôn, cứng nhắc. Vì vậy, hồn cốt của tác phẩm cũng không được khai
thác đúng mực.
Thực tại này đòi hỏi mỗi người dạy phải chú ý rất nhiều trước khi xây dựng giáo
án cho một bài học về tác phẩm văn học.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1. Những lưu ý trước khi phân tích tác phẩm theo thể loại

Người viết đã có dịp đề cập đến những nguyên tắc, biện pháp dạy một bài Lí luận
văn học ở một chuyên đề sáng kiến kinh nghiệm trước đó. Trong chuyên đề sáng kiến
kinh nghiệm kì này, người viết tiếp tục đưa ra các phương hướng giảng dạy chương trình
Lí luận văn học lớp 11 cơ bản sao cho hiệu quả nhất. Tuy nhiên, trước khi đưa ra những
giải pháp, người viết xin được lưu ý một số vấn đề trước khi phân tích tác phẩm theo thể
loại
2.1.1. Cần xác định loại thể, xác định “chất của loại” trong thể. Nó sẽ giúp ta tiếp
nhận “đúng” và “trúng” với tác phẩm cụ thể. Nếu chỉ chú ý đến thể mà quên loại trong

8


tác phẩm, ta dễ sa vào tình huống chưa tiếp cận được hết những cái hay, cái đẹp làm nên
giá trị tác phẩm.
2.1.2. Nắm bắt đặc điểm của loại để có thể phân định cụ thể “chất của loại”.
Riêng vấn đề về nguyên tắc phân chia các thể loại văn học, giáo viên cũng cần hết sức
thận trọng. Thể loại với tư cách là hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học, là một hiện
tượng mang tính thời đại rõ nét và phải được xét trên nhiều tiêu chí khác nhau. Cách
phân chia truyền thống chủ yếu dựa trên phương thức phản ánh hiện thực với ba loại lớn
là: tự sự, trữ tình, kịch. Ngày nay, cách chia ấy đã không còn đáp ứng được tính chất vận
động của các thể loại văn học. Người dạy có thể tham khảo cách phân chia tác phẩm văn
học thành năm loại trên cơ sở cấu tạo văn bản: tự sự, trữ tình, kịch, kí, văn chính luận.
Cách phân chia này, theo Giáo sư Trần Đình Sử “có ưu điểm là kết hợp truyền thống
phân loại phương Tây với đặc điểm dân tộc cổ xưa và hiện đại”. Cách phân loại này gần
với cấu trúc chương trình Ngữ văn cấp phổ thông, sẽ là một thuận lợi cho giáo viên.
2.1.3. Do định hướng đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại nên người dạy phải
nắm chắc các đặc điểm của thể loại văn học. Đây cũng là mục đích hướng đến của bài Lí
luận văn học trong chương trình lớp 11.
2.2. Nội dung, biện pháp thực hiện bài Lí luận văn học, chương trình lớp 11
cơ bản

2.2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà
- Đọc SGK bài “Một số thể loại văn học: thơ và truyện”, “Một số thể loại văn học:
kịch và nghị luận” và trả lời các câu hỏi phần Hướng dẫn học bài trong SGK
- Tìm đọc một số tài liệu tham khảo, như:
+ Lí luận văn học. Hà Minh Đức (chủ biên). NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005
+ Lí luận văn học. Phương Lựu (chủ biên). NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006
+ Một số tác phẩm thơ, truyện, kịch, nghị luận đã học
2.2.2. Hướng dẫn học sinh đọc tài liệu
- Đọc và ghi lại những kiến thức cần thiết liên quan đến bài học. Ở các tài liệu Lí
luận văn học, đọc tập trung vào các chương viết về thể loại văn học.
- Đọc kĩ các bài “Một số thể loại văn học: thơ và truyện”, “Một số thể loại văn học:
kịch và nghị luận” trong SGK Ngữ văn 11.
9


2.2.3. Lên lớp
- Có thể kết hợp nhiều phương pháp nhưng thích hợp với bài Lí luận văn học vẫn là
phương pháp diễn giảng, nêu vấn đề, trực quan. Tuy nhiên, ở mỗi tiết học, tùy theo kiến
thức mà quyết định phương pháp, cách thức phù hợp.
- Khi dạy, giáo viên cần phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Cụ
thể ở mỗi tiết học như sau:
2.2.3.1. Một số vấn đề về loại thể và thể loại văn học
Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu rõ khái niệm và nhận biết về loại và thể văn học.
Đây đều là kiến thức lí thuyết với nhiều khái niệm khó hiểu đối với học sinh. Dù các em
đã được tiếp xúc nhiều nhưng để hiểu được nội hàm bản chất của nó thì giáo viên phải
diễn giải một cách cụ thể. Do thời gian giành cho nội dung này không nhiều nên giáo
viên phải hết sức cô gọn kiến thức, tránh lan man, sa vào những vấn đề phức tạp khác sẽ
làm bài học thêm nặng nề mà học sinh cũng không thể tiếp thu.
- Đầu tiên giáo viên nên giải thích cho học sinh hiểu người ta dựa vào cơ sở chung
là phương thức (cách thức phản ánh hiện thực) để phân chia thể loại tác phẩm. Tiếp theo,

giảng giải các khái niệm như: loại, thể, đồng thời khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng
hệ thống các tác phẩm tiêu biểu cho loại, thể. Giáo viên nhắc lại những đặc trưng lớn của
từng loại.
-

Trong quá trình giảng, giáo viên nên cung cấp cho học sinh những kiến thức có

liên quan đến cách phân loại tác phẩm văn học theo một số quan niệm phổ biến mà phần
1.1 đã trình bày. Giáo viên cũng lưu ý là những cách phân chia trên chỉ mang tính chất
tương đối, vì trong thực tế có những tác phẩm thật khó có thể xếp vào một loại hay thể
văn học cụ thể nào. Trong phạm vi các thể loại văn học thường học ở phổ thông, bốn thể
loại phổ biến là: thơ, truyện, kịch và nghị luận.
2.2.3.2. Thơ
Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu rõ khái niệm, nguồn gốc, kiểu loại, đặc điểm, cách
đọc thơ và vận dụng kiến thức vào bài tập. Ở đơn vị kiến thức này, cái khó đối với học
sinh là trước một thể loại đã có từ rất lâu cùng nhiều thuật ngữ khá trừu tượng nhưng
kiến thức trong SGK cung cấp lại quá chung chung, đại thể, thậm chí sơ sài. Nếu giáo
viên chỉ nói lại những gì SGK đã viết, chắc chắn không có chút gì đọng lại trong tâm trí
10


học sinh, dù rằng học sinh được tiếp xúc với rất nhiều tác phẩm thơ. Dạy tốt bài học này,
giáo viên nên kết hợp các phương pháp: diễn giảng, nêu vấn đề, trực quan. Giả sử học
sinh rất am tường cách đọc thơ nhưng trong quá trình viết lại không được trang bị đến
nơi đến chốn những kiến thức lí luận, bài viết có lẽ cũng sẽ thiếu đi sự sắc sảo, soi sáng.
- Đầu tiên giáo viên yêu cầu học sinh liệt kê một số tác phẩm thơ đã học. Cứ tưởng
đây là những gì cơ bản nhất và học sinh trả lời sẽ không có gì sai sót nhưng thực tế vẫn
khá nhiều trường hợp ngoại lệ chưa phân biệt được tác phẩm thơ với các thể loại khác.
Sự sai sót này không phải là sơ sẩy mà xuất phát từ kiến thức mơ hồ. Trên cơ sở liệt kê
tác phẩm, giáo viên yêu cầu học sinh thử đưa ra định nghĩa về thơ.

-

Giáo viên nên trân trọng suy nghĩ của học sinh khi đưa ra định nghĩa, đồng thời

nhấn mạnh việc xác định một quan niệm về thơ là vô cùng khó khăn. Từ xưa đến nay,
người ta đã đưa ra hàng ngàn định nghĩa về thơ mà vẫn chưa có sự thống nhất. Chúng ta
chỉ có thể tìm ra những đặc trưng cơ bản của thơ, để làm điểm tựa cho việc tìm hiểu,
phân tích tác phẩm mà thôi.
- Sau đó, lần lượt tìm hiểu vấn đề bằng cách trả lời các câu hỏi.
+ Nêu và phân tích đặc điểm thơ?
+ Ngôn ngữ thơ có gì khác biệt với ngôn ngữ các loại văn bản nghệ thuật khác?
+ Thế nào là ý thơ, tứ thơ.
+ Cơ sở phân loại thơ?
+ Từ kinh nghiệm bản thân, hãy đưa ra cách đọc thơ mà em cho là khoa học?
- Trong những câu hỏi trên, giáo viên vẫn đóng vai trò chủ chốt phân tích và lí giải.
Để học sinh nắm nhanh nhất các khái niệm lí thuyết, giáo viên cần đưa các minh chứng
là những tác phẩm thơ đã học. Khó nhất với học sinh vẫn là đặc điểm về ngôn ngữ thơ,
tứ thơ và thống nhất cách đọc thơ. Giáo viên có thể định hướng như sau
+ Theo M.Gorki: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Mọi khả năng biểu đạt,
sức mạnh và vẻ đẹp của ngôn ngữ càng được thể hiện đầy đủ hơn trong thơ. Về mặt ngôn
ngữ, thơ có sự phân biệt rõ rệt với ngôn ngữ các loại văn bản nghệ thuật khác ở sự tổ
chức đặc biệt của nó. Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc, cô đọng, giàu nhạc điệu và hình
ảnh. Nhà thơ Pháp Pôn Valêry từng cho rằng: “Thơ là sự ngập ngừng vĩnh viễn giữa âm

11


thanh và ý nghĩa”, hay Phan Ngọc, nhà ngôn ngữ học lại định nghĩa: “Thơ là sự tổ chức
ngôn từ một cách quái đản”.
+ Tứ thơ và cấu tứ thơ là những thuật ngữ đã được nói đến từ lâu trong thi pháp học,

nhưng để nêu định nghĩa cho rõ ràng và chính xác lại không dễ. Giáo viên chỉ cần giúp
học sinh hiểu một cách đơn giản và ngắn gọn như sau: Tứ thơ là sự hiện thực hóa, hữu
hình hóa của ý tưởng và cảm xúc. Sách Ngữ văn 11 nâng cao có định nghĩa: “Tứ thơ là
hình thức đặc biệt để thể hiện ý thơ”. Còn cấu tứ là cách tổ chức tứ thơ, tạo mạch vận
động và những tương quan của tư tưởng, cảm xúc, hình tượng trong bài thơ. Mỗi bài thơ
đều được xây dựng trên một tứ thơ. Nhưng tứ có thể hiện rõ hoặc ẩn chìm, không dễ
nhận ra, thậm chí là rất mờ nhạt tưởng chứng không có. Từ cách hiểu về tứ thơ như thế,
ta có thể kết luận, một tứ thơ hay phải tạo được sự mới lạ, độc đáo, tự nhiên. Giáo viên
lấy ví dụ từ bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy hay Sóng của Xuân Quỳnh để minh họa.
+ Trong thực tế, bất cứ cách rập khuôn nào cũng đem lại sự cứng nhắc và kém hiệu
quả. Ngay cả cách đọc thơ cũng vậy. Mặc dù SGK có đưa ra yêu cầu về đọc thơ nhưng
đó chỉ là phần cứng. Một bài tiếp nhận về thơ hay, không bao giờ người viết tuân thủ
đúng những trình tự như thế mà có những ý tưởng riêng. Chẳng thế, người đọc cũng là
người đồng sáng tạo với tác giả. Để đạt đến trình độ sáng tạo cùng tác giả, mỗi người đọc
cần chú ý tìm hiểu hình tượng cái tôi trữ tình, kết cấu và ngôn ngữ trong một bài thơ.
- Cuối cùng, giáo viên lưu ý học sinh một số trường hợp tác phẩm văn học tuy có
dạng hình bên ngoài không giống thơ nhưng bản chất lại thuộc loại trữ tình nên khi phân
tích, tiếp cận, cần quan tâm đến “chất của loại” mà phần 2.1 đã trình bày. Tác phẩm
“Người lái đò sông Đà” là một ví dụ điển hình. Tùy bút là thể loại văn xuôi phóng
khoáng. Tất cả những sự vật, hiện tượng, sự việc được đề cập đến trong tác phẩm là cơ
sở, nguyên cớ, khêu gợi một cái “tôi” suy nghĩ và trữ tình. Hay các tác phẩm thơ văn
xuôi cũng rơi vào trường hợp tương tự.
2.2.3.3. Truyện
Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu rõ khái niệm, nguồn gốc, kiểu loại, đặc điểm, cách
đọc truyện và vận dụng kiến thức vào bài tập. Ở đơn vị kiến thức này, cái khó đối với
học sinh vẫn là kiến thức trong SGK cung cấp quá chung chung, đại thể, thậm chí chưa
thể giúp học sinh nhận ra được thể truyện thuộc loại hình văn học gì và có đặc điểm ra
12



sao. Dù là khái lược thì SGK cũng phải thể hiện tính cụ thể, hàm súc nhưng dễ hiểu, nhất
là đối với học sinh theo học chương trình cơ bản. Thời lượng ít, kiến thức dồn nén, thử
hỏi làm sao học sinh có thể giải mã được. Trong trường hợp này, giáo viên buộc phải hệ
thống hóa lại kiến thức.
-

Đầu tiên giáo viên yêu cầu học sinh liệt kê một số tác phẩm truyện đã học, nêu và

phân tích đặc điểm truyện. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét, đưa ra kết luận và
chuẩn xác kiến thức
- Trong những câu hỏi trên, giáo viên dừng lâu ở kiến thức nói về đặc điểm của
truyện, tập trung vào các yếu tố cơ bản của truyện như: cốt truyện, nhân vật, trần thuật,
thời gian và không gian, lời văn của truyện. Ngoài những gì SGK đã viết, giáo viên cung
cấp thêm các nội dung:
+ Cần phân biệt truyện với chuyện. Chuyện là sự việc diễn ra một cách tự nhiên trong
cuộc sống. Truyện là sự việc được tổ chức một cách nghệ thuật trong văn học. Truyện
phản ánh diễn biến đời sống qua cốt truyện
+ Cũng cần phân biệt cốt truyện với văn bản tự sự. Văn bản tự sự là cách triển khai,
trình bày cốt truyện trong tác phẩm của nhà văn. Còn cốt truyện là hệ thống các sự kiện,
biến cố, người đọc có thể “phục nguyên”, kể lại theo trình tự. Cùng một cốt truyện,
người ta có thể kể bằng nhiều cách khác nhau, trong những đề tài khác nhau, tạo nên
những văn bản nghệ thuật khác nhau. Nhiều khi cách kể quyết định chất lượng văn bản
tự sự.
+ Nhấn mạnh nhân vật trong truyện là một hình tượng nghệ thuật được tác giả sáng
tạo ra, mang tính ước lệ, đồng thời qua nhân vật, nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật
về con người của chính bản thân hoặc của mỗi thời đại văn học. Ngoài ra, khi đánh giá
về tác phẩm, cũng cần lưu ý đến nhân vật người kể chuyện. Người kể chuyện có thể ở
ngôi thứ nhất, có thể ngôi thứ ba có vai trò dẫn dắt, miêu tả, phân tích, bình luận, làm
sáng tỏ những gì cần thiết để người đọc cảm nhận rõ ràng, sâu sắc và đầy đủ nội dung
của tác phẩm

+ Về phương diện lời văn, giáo viên nên phân biệt sự khác nhau trong lời văn của
truyện hiện đại và truyện thời trung đại. Truyện trung đại thường nặng về tính ước lệ,
dùng nhiểu điển tích, điển cố, theo khuôn mẫu của từ chương, sách vở. Lời văn trong
13


truyện hiện tại lại gần với lời nói hàng ngày hơn. Cũng cần phân biệt, tuy sử dụng lời ăn
tiếng nói hàng ngày nhưng nhà văn vẫn có sự cân nhắc, chọn lựa một cách kĩ càng. Việc
sự dụng ngôn từ hàng ngày không làm tầm thường hóa tác phẩm mà góp phần làm rõ
tính cách nhân vật đồng thời tạo dựng phong cách nghệ thuật cho nhà văn.
+ Trong quá trình đọc truyện, người đọc cũng nên chú ý đến tính chất của dạng, vì thể
truyện còn có nhiều dạng nhỏ, mỗi dạng lại có những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn,
phân loại theo quy mô văn bản và dung lượng hiện thực, truyện gồm truyện ngắn, truyện
vừa, truyện dài. Điều này dẫn đến một hệ quả là khi ta phân tích truyện ngắn, phải chú ý
đến tình huống truyện, chi tiết nghệ thuật, trong khi tiếp cận tiểu thuyết ta lại có cách
khác.
- Cuối cùng, giáo viên lưu ý học sinh một số trường hợp tác phẩm văn học tuy là
truyện nhưng lại mang đậm chất thơ hay kịch. Chẳng hạn “Hai đứa trẻ”, “Vợ chồng A
Phủ”, “Vợ nhặt”, “Chữ người tử tù” rất đậm đà chất thơ. “Chí phèo” lại tồn tại tính
kịch… Những trường hợp này, giáo viên cần định hướng cách phân tích đúng đắn để
tránh trường hợp xem xét tác phẩm phiến diện, một chiều, sẽ không thấy hết cái hay, cái
đẹp làm nên giá trị lâu dài của tác phẩm.
2.2.3.4. Kịch
Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu rõ khái niệm, nguồn gốc, kiểu loại, đặc điểm và
cách đọc kịch, vận dụng kiến thức vào bài tập. Đây là những kiến thức tương đối khó với
học sinh, bởi lẽ trong thực tế học sinh không được tiếp xúc nhiều với kịch, từ THCS đến
THPT, học sinh chỉ được tiếp cận 6 trích đoạn kịch. Mặt khác đòi hỏi học sinh phải nắm
được bản chất kịch chỉ thông qua một số trích đoạn ngắn ngủi sẽ là một ảo tưởng. Kiến
thức mới, khó, khô, tốt nhất giáo viên nên dùng phương pháp trực quan khi giảng về
những vấn đề này. Khi thực hiện phương pháp này, giáo viên đưa ra những dẫn chứng,

hình ảnh, sơ đồ cụ thể để giải thích minh họa cho các khái niệm lí luận phải thật chính
xác và khoa học, đồng thời tập trung cao độ được sự chú ý của học sinh.
- Đầu tiên giáo viên phát vấn. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét, đưa ra kết
luận và chuẩn xác kiến thức
+ Em đã được học những vở kịch nào? Kịch được du nhập vào Việt Nam vào thời gian
nào?
14


+ Từ hiểu biết của em, hãy thử đưa ra định nghĩa về kịch. Tại sao nói kịch là một loại
hình nghệ thuật tổng hợp? Yếu tố nào của kịch thuộc lĩnh vực văn học?
-

Giáo viên cho học sinh xem một đoạn kịch trong vở “Romeo – Juliet” hay “Vũ

Như Tô”, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” để tạo không khí .
-

Giáo viên chia nhóm thảo luận. Sau khi thảo luận, đại diện từng nhóm sẽ lên trình

bày. Giáo viên nhận xét, tổng kết và chuẩn xác kiến thức.
+ Đối tượng mô tả của kịch là gì? Giải thích câu nói của Bê-lin-xki: “Xung đột tạo
nên tính kịch”.
+ Hành động kịch là gì? Hành động kịch được thực hiện bởi đối tượng nào?
+ Nhân vật kịch có gì khác so với nhân vật truyện?
+ Đặc điểm của ngôn ngữ kịch? Ngôn ngữ kịch có gì khác so với ngôn ngữ của nhân
vật trong truyện không?
- Do độ khó, khái quát và mới của lí thuyết về kịch nên sau khi đặt ra các câu hỏi để
các nhóm thảo luận, giáo viên giành thời gian diễn giảng xoay quanh một số nội dung
như: xung đột kịch, hảnh động kịch, nhân vật kịch và ngôn ngữ kịch. Trong 1 tiết lên lớp,

giáo viên sẽ phải lí giải và cung cấp thêm một số kiến thức sau, ở mỗi nội dung, giáo
viên có thể vừa phát vấn vừa định hướng các ví dụ minh họa, học sinh sẽ dễ nhớ hơn.
+ Xung đột kịch là những mâu thuẫn trong đời sống đòi hỏi phải giải quyết bằng cách
này hay cách khác. Xung đột kịch có thể diễn ra giữa các mặt khác nhau trong một con
người, giữa cá nhân với nhau, giữa các nhóm người, tập đoàn người, giữa một đối tượng
nào đó với hoàn cảnh xung quanh. Xung đột kịch một khi diễn ra liền phát triển liên tục,
không gián đoạn cho đến khi kết thúc.
+ Do nhân vật kịch được xây dựng chủ yếu bằng ngôn ngữ của chính họ nên ngôn
ngữ kịch có tính chất khắc họa tính cách, góp phần biểu hiện đặc điểm, phẩm chất của
nhân vật. Ngôn ngữ kịch còn mang tính hành động, tranh luận, biện bác với những sắc
thái khác nhau. Ngôn ngữ kịch gần gũi với ngôn ngữ đời sống: súc tích, dễ hiểu và ít
nhiều mang tính khẩu ngữ.
-

Sau đó, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức. Có công nghệ thông

tin hỗ trợ, hệ thống kiến thức bằng sơ đồ đó sẽ làm học sinh dễ đón nhận hơn là những
lời giải thích dài dòng. Cụ thể như sau:
15


Xung
đột kịch

Cụ thể hơn
Hành
động kịch

Được thể hiện


Kịch

Nhân
vật kịch

Chủ đề

Xây dựng bằng

Ngôn
ngữ kịch

làm hiện lên

Xung
đột kịch

16


- Tiếp tục lần lượt tìm hiểu vấn đề bằng cách trả lời các câu hỏi
+ Có mấy loại kịch? Cơ sở để phân loại?
+ Biết được đặc điểm của kịch, cần đọc kịch bản văn học như thế nào?
- Trong quá trình nêu từng bước khi đọc kịch bản văn học, giáo viên nên soi sáng
trong một tác phẩm cụ thể nào đó, “Vũ Như Tô” chẳng hạn, trọng tâm hơn vẫn là đoạn
trích đã được học trong SGK. Do bài học trong SGK chỉ là một đoạn trích nên để học
sinh hiểu sâu nhất có thể, giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ những lời giới thiệu về tác
giả, tác phẩm, thời đại mà tác phẩm ra đời, vị trí đoạn trích trong toàn bộ tác phẩm. Nếu
đọc được toàn bộ tác phẩm càng tốt. Tuy nhiên điều này khó thực hiện hơn.
2.2.3.5. Nghị luận

Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu rõ khái niệm, nguồn gốc, kiểu loại, đặc điểm
và cách đọc nghị luận, vận dụng kiến thức vào bài tập. Văn nghị luận khó vì nó chủ yếu
đi sâu vào trí tuệ người đọc, thuyết phục và hấp dẫn họ bằng tính logic của nó. Chất liệu
chính của nó không phải bằng sự miêu tả mà là luận điểm, luận chứng, luận cứ. Để thành
công trong văn nghị luận, người viết phải xây dựng được hệ thống lập luận chặt chẽ với
luận điểm sáng rõ, đúng đắn, có sức khái quát cao; luận cứ đưa ra xác thực; lí lẽ sắc bén.
Tuy nhiên, bên cạnh cái khó, vẫn có thuận lợi là học sinh được tiếp xúc với khá nhiều tác
phẩm nghị luận, đồng thời suốt quá trình học từ lớp 7 đến lớp 12, học sinh có nhiều bài
viết thực hành về thể văn nghị luận. Trong quá trình dạy giáo viên cũng rất chú ý đế đặc
trưng thể loại nên bước đầu học sinh có thể nhận biết đặc điểm thể loại. Nhiệm vụ của
giáo viên chỉ còn là định hướng cách đọc nghị luận sao cho hiệu quả. Để tiến hành tiết
học, giáo viên nên sử dụng phương pháp nêu vấn đề và trực quan.
- Đầu tiên giáo viên phát vấn. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét, đưa ra kết
luận và chuẩn xác kiến thức
+ Em đã được học những tác phẩm nghị luận nào?
+ Từ hiểu biết và kinh nghiệm viết văn nghị luận của em, hãy thử đưa ra định nghĩa về
nghị luận?
-

Giáo viên cho học sinh xem một đoạn băng hình cảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc

“Tuyên ngôn độc lập”. Văn bản này học sinh chưa được học, nhưng sở dĩ giáo viên chọn
là vì hai lí do:
17


+ Thứ nhất, đây là áng văn chính luận mẫu mực của thời đại.
+ Thứ hai, học sinh đã được tiếp nhận một số đoạn trích qua các đơn vị bài học khác
nên cũng không quá khó trong phân tích ví dụ.
- Chia nhóm ra để thảo luận. Sau khi thảo luận, đại diện mỗi nhóm lên trình bày.

Giáo viên nhận xét, tổng kết và chuẩn xác kiến thức.
+ Mục đích của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đọc “Tuyên ngôn độc lập” là gì?
+ Để thuyết phục người nghe, người đọc, tác giả đã có cách lập luận như thế nào? Lí lẽ
ra sao? Và cách đưa dẫn chứng có gì đặc biệt?
+ Nhận xét về ngôn ngữ của văn bản “Tuyên ngôn độc lập”.
+ Từ những kết quả trên, hãy rút ra đặc điểm của thể loại văn nghị luận
-

Trong những câu hỏi trên, quan trọng nhất vẫn là câu hỏi liên quan đến đặc điểm

của thể văn nghị luận. Giáo viên nhấn mạnh một số nội dung sau:
+ Giúp học sinh hiểu thêm về luận điểm, luận cứ, luận chứng, lập luận. Đành rằng xuyên
suốt chương trình học từ THCS đến THPT, người học đã làm quen với các khái niệm này
nhưng thật sự cần thiết phải nhắc lại. Luận điểm chứa đựng những quan niệm, tư tưởng
sâu sắc. Luận cứ là những cứ liệu, dẫn chứng, lí lẽ giúp luận điểm trở nên chắc chắn hơn,
không thể phản bác được. Gây hiểu nhầm nhiều nhất là luận chứng. Có nhiều người đồng
nhất luận cứ và luận chứng là một. Thực chất, luận chứng là sự triển khai, sự đan dệt
giữa các ý nhỏ với nhau nhằm dẫn đến luận điểm chính. Ở góc độ nhỏ, luận chứng chính
là lập luận. Tuy nhiên, không thể thiển cận xem xét lập luận cũng là luận chứng mà nó
bao gồm tất cả luận điểm, luận cứ, luận chứng.
+ Lập luận có bốn dạng thức chính: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận. Mỗi
dạng thức có đặc điểm khác nhau. Khái niệm “dạng thức” sau này còn được hiểu là thao
tác lập luận. Thông thường, các dạng thức không tách bạch, rạch ròi nhau mà thường
được vận dụng liên hợp nhau. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả biểu đạt và tạo sự
phong phú hơn trong một bài nghị luận.
+ Có một thực tế là văn nghị luận mang tính tranh biện cao nhưng tồn tại trong nó không
chỉ là hệ thống lí lẽ cùng các dẫn chứng để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó. Mà sức mạnh
của văn nghị luận còn ở những mạch chìm của cảm xúc, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm nơi
người viết. Vì vậy, khi khai thác văn nghị luận, đừng quên cảm hứng trữ tình.
18



+ Một vấn đề quan trọng nữa là ngôn từ trong văn nghị luận. Theo M. Gorki, văn nghị
luận, đặc biệt là chính luận “phải dùng từ với một sự chính xác nghiệt ngã”. Chính xác
với bản chất đối tượng, chính xác trong thái độ với đối tượng đó. Nói cách khác, ngôn
ngữ nghị luận phải giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm. Giáo viên có thể lấy một ví dụ
trong cách dùng từ của văn bản “Về luân lí xã hội ở nước ta – Phan Châu Trinh) để
chứng minh.
-

Sau đó lần lượt tìm hiểu vấn đề bằng cách trả lời câu hỏi:

+ Có mấy thể văn nghị luận? Cơ sở để phân loại.
+ Biết được đặc điểm của văn nghị luận, cần đọc văn nghị luận như thế nào?
-

Trong qúa trình nêu từng bước khi đọc kịch bản văn học, giáo viên nên soi sáng

trong một tác phẩm cụ thể nào đó. Có thể lập sơ đồ về hệ thống lập luận trong văn bản
“Tuyên ngôn độc lập” với hệ thống luận điểm và luận cứ cụ thể. Trình chiếu trực quan,
học sinh sẽ dễ tiếp thu hơn.
-

Một vấn đề quan trọng sau cùng là giáo viên nên lưu ý học sinh tự rút ra cho mình

những bài học bổ ích sau khi được tiếp cận với các bài học về văn nghị luận. Học sinh sẽ
ứng dụng được rất nhiều trong học tập bộ môn và thực tiễn cuộc sống sau này.
2.2.4. Một số đề bài luyện tập
2.2.4.1. Anh (chị) hiểu như thế nào về nhận định sau của nhà thơ Sóng Hồng viết
trong lời tựa tập Thơ Sóng Hồng: “Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự

nồng cháy trong lòng”
2.2.4.2. Phân tích bi kịch của Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng
Đài” (Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng)
2.2.4.3. Suy nghĩ về câu văn sau: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc
lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp gỉai phóng các dân tộc bị thống trị”
(Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức – Nguyễn An Ninh)
2.2.4.4. Làm rõ vẻ đẹp của đoạn văn sau “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi.
Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế
Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không

19


bền, điên cuồng rồi tình, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận.
Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.
Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế” (Một thời đại
trong thi ca – Hoài Thanh)
2.2.4.5. Chọn một tác phẩm truyện mà bản thân yêu thích. Giải thích vì sao lại thích
tác phẩm truyện đó.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Đối với học sinh
1. Nắm bắt một cách có hệ thống và chắc chắn những kiến thức lí luận về thể loại văn
học, một trong những yếu tố vô cùng quan trọng trong quá trình giải mã tác phẩm.
2. Biết vận dụng những kiến thức lí luận đó vào việc đọc hiểu một tác phẩm văn học cụ
thể. Đồng thời, với những tác phẩm mang trong mình cùng lúc các đặc điểm của các
loại thể khác nhau, các em cũng sẽ biết cách khai thác có hiệu quả.
3. Đối với học sinh khá giỏi, các em sẽ có thêm cơ hội làm bài viết của mình phong phú
và sắc sảo. Những điều đó có được từ sự thăng hoa trong cảm xúc, sự trưởng thành

trong suy nghĩ và sự đủ đầy trong kiến thức.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lí luận văn học. Phương Lựu (chủ biên). NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006
2. Lí luận văn học. Hà Minh Đức (chủ biên)
3. Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại. Lã Nhâm
Thìn. NXB Giáo dục Việt Nam, 2009
4. Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại. Nguyễn Văn
Long. NXB Giáo dục Việt Nam, 2009
5. Một số tác phẩm văn học đã học.

20


SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Đơn vị Trường THPT
Chuyên Lương Thế Vinh

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Biên Hòa, ngày

tháng 05 năm 2013

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012 - 2013
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm: Dạy Lí luận văn học ở lớp 11 chương trình cơ bản
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Kiều Giang. Chức vụ: Giáo viên Ngữ văn
Đơn vị: Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)

- Quản lý giáo dục

- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 
- Phương pháp giáo dục 
- Lĩnh vực khác: ........................................................ 
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị 
Trong Ngành 
1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây)
- Có giải pháp hoàn toàn mới

- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây)
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và
dễ đi vào cuộc sống:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng:

Tốt 
Khá 
Đạt 
Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của người
có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh
nghiệm.
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên, ghi rõ họ tên)

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)

21



×