Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn GIÁO dục đạo đức CHO học SINH hệ GDTX QUA các đề văn NGHỊ LUẬN xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.13 KB, 27 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM GDTX TP BIÊN HÒA
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH HỆ GDTX QUA
CÁC ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ HÀ
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn



(Ghi rõ tên bộ môn)

- Lĩnh vực khác: ....................................................... 
(Ghi rõ tên lĩnh vực)

Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
 Mô hình
 Phần mềm
 Phim ảnh
 Hiện vật khác



Năm học: 2012- 2013


BM02-LLKHSKKN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Hà
2. Ngày tháng năm sinh: 15- 5- 1977
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Hẻm 2- Tồ 27- KP 4- Trảng Dài- Biên Hòa
5. Điện thoại:

(CQ)/

6. Fax:

(NR); ĐTDĐ: 0937810995
E-mail:

7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trung tâm GDTX TP Biên Hòa
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2000
- Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy ngữ văn
Số năm có kinh nghiệm: 12

- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 3

2


BM03-TMSKKN

Tên đề tài:
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH HỆ GDTX QUA CÁC ĐỀ
VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong các nhà trường của nước ta hiện nay luôn coi trọng và quán triệt sâu
sắc, toàn diện việc giáo dục tố chất, lấy giáo dục con người làm gốc, giáo dục đạo
đức là ưu tiên, coi sự nghiệp trồng người là nhiệm vụ cơ bản của giáo dục. Chúng
ta phải nỗ lực bồi dưỡng con người phát triển toàn diện đức – trí – thể – mỹ với
phương châm dạy chữ, dạy nghề, dạy làm người.
Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ:“ Giáo dục thế hệ
trẻ yêu quê hương, Tổ quốc XHCN và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức làm chủ tập
thể, tinh thần đoàn kết, thân ái, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, có ý
thức kỷ luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đức tính thật thà, khiêm tốn, dũng
cảm…”
Do đó, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một quá trình lâu dài, xuyên
suốt trong quá trình giáo dục. Nó đòi hỏi phải có sự chung tay, góp sức của gia
đình, nhà trường và toàn xã hội. Muốn đưa nước ta trở nên giàu mạnh, văn minh
thì trước tiên phải xây dựng được những lớp người có đủ trí và đức. Những lớp
người đó không ai khác chính là thế hệ trẻ hôm nay, những người đang còn ngồi
trên ghế nhà trường, họ phải được trang bị đầy đủ đức và tài để trở thành chủ nhân
tương lai của đất nước; phải lấy đạo đức làm gốc, bởi vì“Có tài mà không có đức
là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó khăn”(Bác Hồ).
Thế nhưng, có một thực tế đau lòng hiện nay là tình trạng xuống cấp về mặt

đạo đức, niềm tin, lý tưởng của một bộ phận học sinh THPT,đặc biệt là học viên hệ
GDTX: Việc học sinh lừa dối ông bà, cha mẹ, vô lễ đối với thầy cô, bỏ học, la cà
quán xá, gây gổ đánh nhau, sa vào các tệ nạn xã hội, thậm chí phạm tội không phải
là hiếm gặp ở các trường,các Trung tâm GD. Nguyên nhân của tình trạng này thì
có nhiều. Nhưng điều dễ nhận thấy là ở tuổi đang "tập" làm người lớn, nhận thức
3


của các em thường chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường xung quanh. Trong khi
đó thực tế xã hội hiện nay vẫn còn xảy ra nhiều hiện tượng suy thoái về đạo đức
dưới tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường. Điều này đã tác động
xấu tới việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của lứa tuổi học trò.
Vì vậy, việc tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay là vấn đề vô
cùng quan trọng, là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Một công
việc không hề đơn giản, đòi hỏi phải có chủ trương, biện pháp thích hợp, có sự
đồng lòng, nhất trí của cả gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Là một giáo viên
trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn trong hệ GDTX, tôi tự nhận thấy việc chú trọng
tới giáo dục đạo đức cho học sinh, học viên hiện nay không chỉ là việc làm cần
thiết mà còn là trách nhiệm lớn lao, nặng nề.
Do vậy trước vấn đề này tôi đã chọn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài:
Giáo dục đạo đức cho học sinh hệ GDTX qua các đề văn nghị luận xã hội.
Với đề tài này, tôi có mong muốn góp chút sức lực nhỏ bé vào việc giáo dục đạo
đức cho các em HS ngay trong những bài làm văn Nghị luận xã hội.
* Những nội dung chính của đề tài:
Khi nghiên cứu đề tài này, cần nêu được một số vấn đề mang tính chất lý
luận về: giáo dục; giáo dục đạo đức; Vai trò của Giáo dục đạo đức; Nghị luận xã
hội; Vai trò, tác dụng của đề văn nghị luận xã hội trong việc giáo dục đạo đức. Đề
cập đến yêu cầu, cách thức ra đề; hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề; việc chấm bài,
trả bài và cách làm bài văn nghị luận xã hội. Cuối cùng là bài làm của HS được
sưu tầm với các đề văn cụ thể.

* Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp thử nghiệm, phân loại,
thống kê kết hợp với việc sưu tầm, khảo sát của bản thân trong quá trình giảng dạy
trong ba năm học gần đây tại trung tâm GDTX huyện Trảng Bom và thành phố
Biên Hòa.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
a. Khái niệm và vai trò của giáo dục đạo đức:
4


* Khái niệm:
Giáo dục là khái niệm cơ bản quan trọng trong các khoa học nghiên cứu về
con người. Theo Từ điển Tiếng Việt (Trang 345 NXB Đà Nẵng- Viện Ngôn ngữ
học) thì: "Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng đó dần dần
có được những phẩm chất, năng lực theo yêu cầu".
Giáo dục đạo đức là một bộ phận của Giáo dục và là sự tác động đến đối
tượng giáo dục để họ dần dần có được những quan điểm, quan niệm chung về
công bằng, bất công, về cái thiện, cái ác, về lương tâm, danh dự và những phạm trù
khác thuộc lĩnh vực đạo đức tinh thần của xã hội. Các tiêu chuẩn về đạo đức xã hội
tồn tại bất thành văn nhưng được xã hội thừa nhận và mỗi cá nhân buộc phải tuân
theo thì mới có thể trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Đó là các chuẩn
mực đạo đức như: "Yêu quê hương đất nước"; "Kính trọng ông bà, cha mẹ"; Kính
trên, nhường dưới"; "Tôn sư, trọng đạo"…
* Vai trò của giáo dục đạo đức
Sản phẩm của giáo dục là con người. Vậy nên việc hình thành nên những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho con người là một phần rất quan trọng trong quá
trình giáo dục. Khi nói về vai trò của Giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
"Ngủ thì ai cũng như lương thiện

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Trong một xã hội có giáo dục, quan hệ giữa người với người dựa trên những
chuẩn mực xã hội sẽ là tiền đề cho ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tạo nên
cuộc sống vui tươi hạnh phúc, cho tất cả mọi người.
Trong nhà trường, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong những
vấn đề trọng tâm. Bởi các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước. Nếu
được giáo dục tốt, các em sẽ trở thành những con người có ích cho gia đình và xã
hội. Ngược lại các em sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội trong tương

5


lai. Vì vậy: "Tiên học Lễ, hậu học Văn" không chỉ là khẩu hiệu mà cũng chính là
nhiệm vụ của thầy và trò trong suốt quá trình dạy- học.
b. Nghị luận xã hội và vai trò của nghị luận xã hội trong Chương trình
Dạy- học bộ môn Ngữ văn hiện nay
* Lí thuyết về Nghị luận xã hội
Các sách giáo khoa Làm văn và hướng dẫn giảng dạy đều khẳng định: "Nghị
luận xã hội là dạng văn mà người viết đi vào bàn bạc các vấn đề thuộc lĩnh vực
chính trị xã hội có liên quan tới hoạt động của con người".
Đối tượng của nghị luận xã hội là những vấn đề nảy sinh trong đời sống
chính trị xã hội như đạo đức, lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc, lao động, tình bạn, tình
yêu…thường được thể hiện cô đọng trong các câu tục ngữ, danh ngôn, các ý kiến
nhận định tổng quát.
Mục đích của nghị luận xã hội là đưa những vấn đề trên ra để bàn bạc, làm
sáng tỏ đúng, sai, tốt, xấu…Nhằm tuyên truyền, giáo dục, cổ động, kêu gọi mọi
người tham gia giải quyết những vấn đề nảy sinh trong đời sống chính trị- xã hội.
"Góp phần làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, tạo cho mỗi

người có ý thức chăm sóc cuộc sống của bản thân mình và xây dựng mối quan hệ
trong xã hội, trong cộng đồng ngày một bền vững hơn, văn minh, tốt đẹp hơn"
(Sách giáo khoa Làm văn Lớp 10- Trang 40- NXB Giáo dục năm 2000).
Việc học làm văn nghị luận xã hội giúp học sinh có năng lực trí tuệ phát
triển, hình thành tư duy hợp lý, khoa học, biết cách tìm tòi và xác định chân lý; biết
cách diễn đạt, phát biểu ý kiến của mình một cách rõ ràng. SGK Làm văn Lớp 10
còn viết: "Học làm văn nghị luận xã hội còn xây dựng cho học sinh phương pháp
tư duy đúng đắn để hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ.
Biết đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, biết ứng xử đẹp trong các mối quan hệ
với người khác, biết hướng cuộc sống của mình vào những mục tiêu cao cả". Đây
chính là những vốn sống vô cùng quan trọng trong hành trang mà các thầy cô
chuẩn bị cho các em khi bước vào đời. Bởi sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học
không phải ai cũng theo nghiệp văn chương nhưng bất kỳ ai cũng phải đối mặt với
những vấn đề xã hội. Và phải giải thích, chứng minh, thể hiện quan điểm, lập
6


trường, tư tưởng, tình cảm của mình trước các vấn đề đó. Vì vậy càng phải rèn
luyện cho các em làm tốt loại văn này.
Phạm vi của nghị luận xã hội rất rộng, được chia thành các chủ điểm lớn:
- Nghị luận về vấn đề đạo đức - nhân sinh
- Nghị luận về vấn đề chính trị
- Nghị luận về vấn đề tư tưởng- văn hóa
- Nghị luận về vấn đề kinh tế
- Nghị luận về vấn đề lịch sử
- Nghị luận về vấn đề địa lý- môi trường…
Trong các nội dung trên vấn đề đạo đức- nhân sinh là nội dung cần được
quan tâm đặc biệt.
* Vị trí của nghị luận xã hội trong chương trình dạy học môn Ngữ văn
hiện nay

Trước đây, nghị luận xã hội chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn trong hệ thống đề
thi Ngữ văn. Nhưng hiện nay, cách nhìn về dạng đề này đã có sự thay đổi đáng kể.
Mặc dầu vậy, không phải ai cũng nhận thấy tầm quan trọng của nghị luận xã hội,
mà đặc biệt là những tác động khá lớn đối với việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức của
học sinh.
Đối với giáo viên trong quá trình giảng dạy cũng đã lưu ý đến việc ra đề văn
nghị luận xã hội cho cả ba khối học theo yêu cầu của chương trình môn học nhưng
thực hiện chưa thường xuyên hoặc đôi khi chỉ chiếu lệ.
Về phía bản thân học sinh, thường có tâm lý ngại làm những đề văn nghị
luận xã hội vì nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất: là do các em còn thiếu kiến thức hiểu biết xã hội.
Thứ hai: là do các em còn ngại thể hiện tư tưởng tình cảm của mình (Trong
khi đó văn nghị luận xã hội phải trực tiếp bộc lộ điều này).
Thứ ba: còn là do không có tài liệu hoặc là ít tài liệu để tham khảo thậm chí
là để sao chép.
c. Tác dụng của đề văn nghị luận xã hội trong giáo dục đạo đức học sinh
* Đối với người được giáo dục (học viên):
7


Việc ra đề văn nghị luận xã hội liên quan đến phạm trù đạo đức sẽ giúp cho
học sinh phải suy nghĩ, soi lại mình và nói lên tâm tư của mình trước mỗi vấn đề
cụ thể. Rồi tự đó mà tự điều chỉnh hành vi, cách cư xử sao cho đúng đắn phù hợp.
SGK làm văn 10 đã khẳng định: "Trước những đề bài nghị luận xã hội, học sinh
phải suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh các vấn đề đạo lý, nhân cách con người. Từ
đó phát triển ý thức tự trau dồi, xây dựng cho mình một nhân cách tốt đẹp".
* Đối với người giáo dục (giáo viên):
Vấn đề trên sẽ giúp giáo viên có thể nắm được tâm tư, tình cảm của học
sinh. Từ đó có thể rút ra những nhận xét về con người các em. Và cũng từ đó có
căn cứ và biện pháp để giáo dục các em. Bởi như người ta thường nói: "Văn là

người". Bài văn cho chúng ta những thông tin đầy đủ để từ đó ta hiểu thêm về con
người. Con người như thế nào thì có ý nghĩ như thế ấy. Thường ngày các em có
những suy nghĩ gì, quan tâm tới cuộc sống ra sao và cách ứng xử như thế nào… tất
cả những cái đó vẫn có sẵn trong các em, gặp cơ hội là được bộc lộ ra bên ngoài
(qua bài viết).
Có thể khẳng định, việc ra đề văn nghị luận xã hội và yêu cầu làm văn nghị
luận xã hội đối với học sinh bậc THPT nói chung và hệ GDTX nói riêng sẽ có tác
dụng nhất định đối với quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của các em và đối
với quá trình giáo dục dạy, dỗ, uốn nắn đạo đức học sinh của giáo viên. Nếu hai
quá trình này kết hợp với nhau một cách hài hòa thì hiệu quả thu được sẽ rất khả
quan.
2. YÊU CẦU THỰC HIỆN BÀI LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI.
Như vậy, việc làm bài văn nghị luận xã hội đối với việc giáo dục đạo
đức như trên đã nói có một vai trò hết sức to lớn. Nhưng một thực tế là nhiều HS
rất lúng túng và không biết sẽ bắt đầu làm bài từ đâu? Có những ý gì? Sắp xếp bố
cục ra sao? Vì vậy, giáo viên cần định hướng và giúp các em phân tích đề. Thực
chất của yêu cầu này là học sinh phải xác định cho được mình phải viết cái gì trong
bài văn. Những đề văn nghị luận xã hội đặc biệt là đề bài đề cập đến vấn đề đạo
đức thường được diễn đạt dưới những cách nói bóng bẩy, hình ảnh. Điều này ít
nhiều gây khó khăn cho học sinh. Nhưng nếu có sự gợi ý, hướng dẫn của thầy cô
8


trong quá trình tìm hiểu đề thì chắc chắn các em sẽ tự nhận thức rồi suy ngẫm để
nói lên được tâm tư nguyện vọng của mình.
Để giải quyết vấn đề này, HS có thể tiến hành theo các bước sau:
a. Nghị luận về một hiện tượng đời sống
- Cần làm rõ hiện tượng đời sống qua việc miêu tả, phân tích nguyên nhân
các khía cạnh của hiện tượng. Từ đó, thể hiện thái độ, sự đánh giá của bản thân
cũng như đề xuất giải pháp.

- Có thể giải thích sơ lược hiện tượng nếu cần giải thích, từ đó trình bày các
biểu hiện của hiện tượng.
- Khi phân tích nguyên nhân, có thể phân tích theo hai nhóm: nguyên nhân
khách quan - chủ quan để bài viết có hệ thống và chặt chẽ.
Cần xác định cách viết linh hoạt đối với đề bài nghị luận về một hiện tượng
đời sống.
* Các bước làm:
- Miêu tả hiện tượng được đề cập trong đề bài.
- Phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại.
- Chỉ ra nguyên nhân.
- Bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết.
- Khi yêu cầu HS trình bày quan điểm của cá nhân về hiện tượng đó, tức là
đã góp phần vào việc hình thành thái độ của HS đối với hiện tượng. Từ đó, giúp
HS định hướng tư tưởng và hành động, trang bị những kỹ năng sống phù hợp trong
hoàn cảnh cá nhân và với những hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống.
b. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
Các bước cơ bản:
- Giới thiệu, giải thích tư tưởng đạo lí cần bàn luận.
- Nêu những biểu hiện, phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện
sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận.
- Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động.

9


- Khi yêu cầu HS trình bày nhận thức và hành động của cá nhân về tư tưởng,
đạo lý đó, tức là đã góp phần vào việc hình thành thái độ , giúp HS định hướng tư
tưởng và hành động,…
Ví dụ minh họa cho cách phân tích và thực hiện bài văn NLXH.
Đề bài:

Trong tay đã sẵn đồng tiền
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Từ quan niệm của Nguyễn Du về đồng tiền trong Truyện Kiều, anh/ chị
hãy trình bày quan niệm của mình về đồng tiền trong cuộc sống hôm nay.
Gợi ý cách làm
* Mở bài:
- Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc. Tên tuổi của ông gắn với kiệt tác
Truyện Kiều.
- Ở tác phẩm này, bên cạnh giá trị nhân đạo lớn lao, Nguyễn Du còn cho
người đọc một cái nhìn hiện thực sắc lạnh về ma lực của đồng tiền trong xã hội
phong kiến đương thời. Từ đó gợi cho ta suy nghĩ về đồng tiền trong xã hội hôm
nay.
* Thân bài:
- Giải thích “tiền” và vai trò của đồng tiền:
+ Tiền là vật đúc bằng kim loại hay in bằng giấy do ngân hàng phát hành,
dùng làm vật trung gian để trao đổi hàng hoá, vật phẩm.
+ Tiền ra đời đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử phát triển của loài người.
Nó thúc đẩy sản xuất, là phương tiện trao đổi hàng hoá. Bản chất đồng tiền là hữu
ích đối với con người.
- Cái nhìn của Nguyễn Du đối với đồng tiền trong Truyện Kiều:
Nguyễn Du có một cái nhìn toàn diện về tính hai mặt của đồng tiền.
+ Về mặt hữu ích: Kiều bán mình chuộc cha và em, Từ Hải chuộc Kiều ra
khỏi lầu xanh.

10


+ Về mặt trái của đồng tiền: “Đổi trắng thay đen khó gì”. Tiền làm nhiều kẻ
trở nên tham tàn, độc ác, nhẫn tâm.

-> Có thể nói, Nguyễn Du đã có một cái nhìn đúng đắn về đồng tiền.
Ông đã chỉ rõ khi đồng tiền sử dụng nhằm mục đích xấu, bị kẻ xấu thao túng thì
đồng tiền trở nên có sức mạnh ghê ghớm làm biến dạng sự việc, con người.
- Quan niệm về đồng tiền ngày nay:
Đất nước phát triển, nền kinh tế tăng trưởng, đồng tiền vẫn tồn tại song song
hai mặt.
+ Sử dụng đồng tiền theo mục đích tốt: làm cho cuộc sống của cá nhân đầy
đủ, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của con người, thúc đẩy kinh tế đất nước
tăng trưởng, làm cho đất nước phồn thịnh hơn.
+ Sử dụng đồng tiền nhằm mục đích xấu: con người sẽ trở thành nô lệ của
đồng tiền, hoặc đồng tiền bị kẻ xấu thao túng thì sẽ có một ma lực ghê ghớm dễ
làm con người bị biến chất, tha hoá…
-> Quan niệm về đồng tiền của Nguyễn Du vẫn còn nguyên giá trị.
* Kết bài
Rút ra bài học và liên hệ bản thân
- Đồng tiền vốn không xấu, nó là phương tiện trao đổi trong cuộc sống, là
kết quả lao động của con người chân chính.
- Quan niệm về đồng tiền của Nguyễn Du nhắc nhở mỗi chúng ta về cách sử
dụng đồng tiền và kiếm tiền như thế nào cho hợp lí, đúng đắn.
3. YÊU CẦU, CÁCH THỨC RA ĐỀ
Đối với giáo viên, một trong những công việc gian khó nhất vẫn là
làm thế nào ra được nhiều đề văn phù hợp với đối tượng học sinh. Đặc biệt là dưới
dạng đề văn nghị luận xã hội. Trên thực tế vì số lượng bài kiểm tra có sử dụng đề
văn nghị luận xã hội không nhiều nên phần lớn giáo viên và người chịu trách
nhiệm ra đề trong các kỳ thi thường dựa vào các đề có sẵn, in trong các sách.
Chẳng hạn như:
* Bình luận câu tục ngữ: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn"

11



* Ông cha ta thường nói: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng". Em
hãy giải thích câu tục ngữ trên.
Những đề này sẽ có tình trạng học sinh lười suy nghĩ, chỉ tìm cách
chép tài liệu hoặc khuôn theo một mẫu nào đó. Vì vậy, dù đề văn có đề cập đến
phạm vi đạo đức lối sống … thì cũng ít có hiệu quả trong việc gíup học sinh tự
nhận thức và cũng rất khó khăn đối với mục đích giáo dục của giáo viên là có thể
sát hơn trong việc uốn nắn học sinh.
Vì vậy trước vấn đề này tôi mạnh dạn đề xuất một số yêu cầu trong việc ra
đề và định hướng học sinh tìm hiểu đề.
a. Yêu cầu của việc ra đề
Các vấn đề đặt ra trong nghị luận xã hội thường rất rộng nên chúng ta có thể
vận dụng tục ngữ, ca dao, danh ngôn, những sự kiên nổi bật trong đời sống chính
trị xã hội để ra đề. Và theo tôi, ta có thể ra đề kiểm tra nghị luận xã hội thường
xuyên theo yêu cầu của môn học cho cả cấp học. Hoặc có thể ra đề với hình thức
bài tập về nhà để HS suy nghĩ và làm bài ở nhà, và GV có thể trao đổi lại trong tiết
trả bài…
Chẳng hạn, gần đây tình trạng nữ sinh đánh nhau bỗng trở nên khá phổ biến,
nó trở thành nỗi nhức nhối cho biết bao bậc phụ huynh và dư luận. Vậy thì với tư
cách là một người học sinh cùng trang lứa, em nghĩ gì về tình trạng trên?
Với yêu cầu của đề bài đó, chắc chắn chúng ta sẽ có những cách nhìn sâu
sắc hơn về giới trẻ hiện nay và giúp HS của mình định hướng tốt hơn trên con
đường đầy chông gai phía trước.
Như vậy có thể nhận thấy yêu cầu đối với việc ra đề Nghị luận xã hội là:
Thứ nhất: Đề văn cần phải thể hiện tính đúng đắn chính xác và phù hợp.
Điều này có nghĩa là đề ra phải trích dẫn đúng câu chữ và đúng quy cách. Nếu
không sẽ khiến cho học sinh khó hiểu hoặc hiểu sai lệch vấn đề. Hơn nữa là đề văn
phải phù hợp với trình độ, năng lực học sinh. Không ra những đề văn vượt khó tầm
hiểu biết của các em.
Thứ hai: Đề văn nghị luận xã hội phải đánh trúng đối tượng, tức là khi ra đề

giáo viên phải nắm bắt trước tình hình học sinh để hướng vào những vấn đề thuộc
12


phạm trù đạo đức mà ở tập thể hoặc cá nhân học sinh đang có những biểu hiện tiêu
cực hoặc có những suy nghĩ lệch lạc.
Thứ ba: Đề ra phải "vừa quen vừa lạ". Đề văn quen tức là học sinh có thể
hiểu được, tự mình suy nghĩ và tự mình nói lên tâm tư tình cảm hoặc cách đánh giá
của mình. Còn đề lạ tức là đề văn phải kích thích được sự suy nghĩ độc lập và khả
năng sáng tạo của học sinh - ngăn chặn được tình trạng sử dụng tài liệu và bắt
chước máy móc. Chẳng hạn cùng một vấn đề bàn luận là tình cảm yêu thương gắn
bó trong gia đình, có thể ra những đề như:
Đề 1: Ông cha ta có câu: "Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần"
Suy nghĩ của anh/chị về câu ca dao trên.
Đề 2: Có người nói: Đi hết cuộc đời, con cũng chưa hiểu hết được lòng mẹ
cha.
Hãy thể hiện rõ suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên.
Hoặc cùng bàn luận về thái độ hưởng thụ hay cống hiến đối với tuổi trẻ, có
thể ra đề như sau:
Đề 1: Có lời bài hát rằng: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà tự hỏi ta
đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”.
Suy nghĩ của anh/chị về lời bài hát trên.
Đề 2: Hồ Chí Minh đã từng nói rằng: “Đâu cần thanh niên có – Đâu khó có
thanh niên”.
Là một người trẻ tuổi, suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên như thế nào?
Một điểm cần lưu ý là khi ra đề văn Nghị luận xã hội hướng tới mục đích
giáo dục đạo đức, giáo viên phải chú ý đến cả mục đích rèn luyện kỹ năng, thao tác
cho học sinh theo yêu cầu của văn nghị luận nói chung như: giải thích, chứng
minh, bình luận…

b. Cách thức ra đề văn nghị luận xã hội
Khi ra đề giáo viên sử dụng phương pháp phân loại để có thể ra những đề
văn phù hợp vừa phát huy tính tích cực lại cũng có thể ngăn chặn đẩy lùi những
tiêu cực.
13


* Phân loại đối tượng:
- Đối với tập thể học viên:
Ta nên chọn những vấn đề cập nhật, nóng hổi bức thiết nhất của đời sống xã
hội. Đặc biệt có liên quan đến đạo đức, lối sống, niềm tin, lý tưởng… của học viên
để ra đề. Nhưng cũng cần quan tâm đến những vấn đề chung cho nhận thức của tất
cả các em. Theo quan điểm cá nhân thì qua việc ra đề phải làm thế nào giúp học
sinh tái hiện lại được những gì mà các em đã thấy về đời sống xã hội. Từ đó giúp
các em tự nhận thức. Vấn đề tái hiện lại rất quan trọng, nó giúp cho con người ta
lâu nay có thể là thờ ơ, không hiểu… sẽ đi đến nhận thức được nhiều điều từ
những vấn đề tưởng chừng như là rất cũ. Và từ đó mà có sự vận động thay đổi
trong chính bản thân mình. Chẳng hạn:
Đề 1: Có người đã cho rằng: "Tất cả những gì trong phim, truyện và trên
sân khấu đều đáng để cho chúng ta học tập".
Em có suy nghĩ như thế nào về vấn đề này?
=> Tác dụng của đề giáo dục cho học sinh cách nhìn nhận, đánh giá
và cách thức học hỏi khi tiếp cận những vấn đề xã hội.
Đề 2: Em có suy nghĩ gì về nghề nghiệp tương lai của mình?
=> Đề văn giúp cho việc giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Đề 3: Ông cha ta có câu: "Tiên học lễ hậu học văn"
Em hãy giải thích và bình luận câu nói trên.
=> Tác dụng của đề giáo dục cho học sinh về đạo đức lễ nghĩa.
- Đối với học sinh cá biệt:
Những biểu hiện ở đối tượng học sinh này đang là một vấn đề nhức nhối

hiện nay. Các em thường vi phạm đạo đức, bê trễ việc học hành, sa vào những tệ
nạn xã hội… vì vậy với bộ môn văn (và cả ở những bộ môn khác) việc các em làm
bài kiểm tra kém chất lượng hoặc thiếu bài kiểm tra là điều thường xuyên xảy ra.
Trong những trường hợp này chúng ta nên yêu cầu các em làm đủ bài kiểm tra
bằng những đề văn nghị luận xã hội. Nhưng cũng tùy vào từng đối tượng học sinh
để ra đề văn phù hợp. Chẳng hạn như:

14


- Với đối tượng học sinh gặp nhiều chuyện đau buồn dẫn đến bi quan, chán
nản, có suy nghĩ tiêu cực, ta có thể ra những đề như:
Đề 1: Em hãy bình luận câu nói sau đây của L.Lêônốp: "Tất cả mọi chiến
thắng đều bắt đầu từ sự chiến thắng bản thân mình"
Đề 2: A.Xêlốt người Ý quan niệm rằng: "Người ta làm cho cuộc đời thành
cao quý ở ngay trong lò đào luyện của tai ương".
Em suy nghĩ như thế nào về vấn đề này.
=> Những đề văn thuộc dạng này, theo tôi có thể giúp các em nhìn nhận về
xã hội, gia đình, con người và chính bản thân mình để từ đó mà sống, học tập và
làm việc một cách có ích.
- Với những học sinh ngổ ngáo hay cúp tiết, la cà quán xá, vô lễ với ông bà,
cha mẹ, thầy cô, hay gây gổ đánh nhau, cờ bạc rượu chè… ta cần nắm bắt những
"điểm yếu" của các em để "tấn công" giúp cho các em nhận ra sai lầm của mình. Ví
dụ:
Đề 1: Thang Nhược Sỹ từng quan niệm: "Không lấy bậy - tay thơm, không
nói bậy - miệng thơm, không nghĩ bậy - tâm thơm".
Em hãy giải thích về quan niệm trên.
Đề 2: Có người đã cho rằng: "Tiền bạc là phương tiện của những người
thông minh, là mục đích của những kẻ ngu ngốc"
Em hãy giải thích và chứng minh câu nói trên.

Đề 3: Anh(Chị) suy nghĩ gì về câu nói: “Đời phải trải qua giông tố nhưng
không được cúi đầu trước giông tố”.(Trích nhật ký Dặng Thùy Trâm)
=> Những đề văn thuộc dạng này, theo tôi có thể giúp các em nhìn nhận về
xã hội, gia đình, con người và chính bản thân mình để từ đó mà sống, học tập và
làm việc một cách có ích.
Đề 4: “Người chiến thắng thực sự không phải chiến thắng người khác
mà chinh là chiến thắng bản thân mình”. Hãy bình luận câu nói trên.
Đề 5: Nghị luận về câu: “Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa
quả lại ngọt ngào”

15


Đề 6: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình
thương”
Đề 7: Anh(Chị) hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu “Ôi! Sống đẹp
là thế nào hỡi bạn?”
Đề 8: Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề
xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
* Phân loại đề để phù hợp với đối tượng và mục đích của việc ra đề (kể cả
mục đích rèn luyện kỹ năng thao tác như giải thích, chứng minh, bình luận…).
Khi phân loại đề, giáo viên phải căn cứ vào tình trạng đạo đức của học sinh
hiện nay để có thể phân ra thành những nhóm đề phù hợp. Qua khảo sát thực tế tôi
nhận thấy học sinh THPT hiện nay có nhiều biểu hiện sa sút về mặt đạo đức lối
sống như: không vâng lời ông bà, cha mẹ, nói dối gia đình lấy tiền la cà quán xá,
vô lễ với thầy cô… Không coi trọng việc học hành, tu dưỡng đạo đức, có tư tưởng
cá nhân, ích kỷ. Có một bộ phận học sinh hiểu rất mơ hồ về lĩnh vực chính trị- xã
hội. Chẳng hạn như về chiến tranh, về lịch sử dân tộc. Có em còn cho rằng: "Đó là
bịa thêm chứ không hoàn toàn là sự thật". Về nghề nghiệp các em không biết cách
định hướng. Điều đáng buồn là có những học sinh sống, học tập mà không hề biết

đến mục đích sống, lý tưởng sống là gì? Khi được hỏi mục đích đi học của em là
gì thì nhiều em trả lời một cách rất tự nhiên rằng: "Đi học để lấy cái bằng lớp 12 ";
"Đi học để sau này khỏi phải làm ruộng". Một thực tế nữa là có những học sinh
không may vấp ngã thì lâm vào tình trạng bi quan chán nản, không tự mình đứng
dậy được nên đành tặc lưỡi: "Mặc kệ… đến đâu thì đến". Đó là những biểu hiện rất
nguy hại, nếu không có sự can thiệp, giúp đỡ kịp thời thì tương lai các em sẽ như
thế nào?
4. VỀ VIỆC CHẤM, TRẢ BÀI
Đây là dịp tốt nhất để chúng ta nắm được đời sống tâm lý, cách nhìn nhận
của học sinh về các vấn đề xã hội và những bộc lộ thuộc về cá tính hay đạo đức
của từng em để từ đó có phương pháp, biện pháp giáo dục thích hợp.
a. Chấm bài
Ngoài việc đánh giá chất lượng và chữa những sai phạm trong bài làm của
học sinh theo yêu cầu của công tác giảng dạy Văn, Giáo viên cần chú trọng đến
16


việc phát hiện, phân loại bài làm của học sinh để có hướng giáo dục phù hợp. Cụ
thể:
- Phân loại bài làm về mặt hình thức: (Bố cục, kết cấu, chữ viết, cách
dùng từ, diễn đạt…) thành các loại sau:
- Bài làm có hình thức tốt
- Bài làm có hình thức trung bình
- Bài làm chưa đạt yêu cầu về hình thức.
- Phân loại bài làm về mặt nội dung:
- Bài làm đảm bảo yêu cầu nội dung, có thiên hướng tích cực
- Bài làm thể hiện rõ cá tính hoặc bộc lộ những tâm sự thầm kín của cá nhân
học sinh.
- Bài làm chưa đạt về nội dung hoặc thể hiện những nhận thức sai lầm.
Khi ra đề, Giáo viên nên thể hiện dụng ý của mình. Chẳng hạn trong lớp học

sinh có hiện tượng bỏ học, bỏ giờ, cần phải tìm hiểu nguyên nhân. Nêu ra đề văn
đề cập đến vấn đề đó khi chấm bài chúng ta sẽ nắm bắt được nguyên nhân hoặc ít
ra cũng có thể tìm hiểu được tâm tư tình cảm của đối tượng về vấn đề mà giáo viên
đang quan tâm.
Như vậy việc phân loại bài làm nhất là về phương diện nội dung có thể nói
là việc làm hữu ích vì thực chất cũng chính là sư phân loại đối tượng học sinh để
tìm ra các đối tượng cần quan tâm giúp đỡ, giáo dục.
Một vấn đề nữa là khi chấm bài làm văn Nghị luận xã hội, Giáo viên nên
chú ý đánh giá những bài làm thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm đúng đắn,
chân thật. Có thể bài làm đó có những điểm chưa đạt về hình thức nhưng rất cần
trân trọng những nhận thức đúng đắn và tình cảm chân thật của các em. Nếu vì lỗi
hình thức mà cho điểm kém thì chưa chắc đã là một biện pháp giáo dục hay. Mặc
dù việc cho điểm bài làm văn của học sinh hiện nay còn nhiều điều đáng bàn
nhưng theo tôi khi chấm điểm ta nên đặt ra những yêu cầu nhất định cả về nội
dung và hình thức đối với bài làm của học sinh. Thực hiện đúng yêu cầu đó thì cho
điểm 10. Không thực hiện được bao nhiêu % thì trừ đi. Như nhà giáo Đỗ Kim Hồi
đã nói: “Nên xuất phát từ điểm 10 để suy ra điểm 5, chứ không nên từ điểm 5 để
17


suy ngược mãi lên điểm 10”. Việc cho điểm không phải là cách để cải thiện chất
lượng học văn cũng như đạo đức học sinh. Nhưng chúng ta phải cho điểm để làm
sao lần sau học sinh vẫn mạnh dạn viết ra được những điều các em đã nghĩ, đã
nhận thức.
b. Trả bài
Giờ trả bài là khâu cuối cùng hoàn chỉnh mục đích của việc ra đề văn. Vì
vậy, ở bước thứ nhất giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện việc tìm hiểu đề
lại. Sau đó giáo viên nhấn mạnh vấn đề mà đề bài yêu cầu, chỉ ra những dẫn chứng
thực tế trong đó có những biểu hiện mang tính tính cực lẫn tiêu cực có liên quan
đến đề.

Sau khi nhận xét chung và chữa một số lỗi về hình thức và nội dung trong
bài làm của học sinh, giáo viên có thể đọc một số bài văn tiêu biểu đã được phân
loại khi chấm bài và cho các học sinh khác nhận xét. Đó cũng là một lần giáo dục
các em.
Riêng đối với những học sinh có nhận thức sai lầm, lệch lạc hoặc có tâm sự
riêng thì tùy từng trường hợp cụ thể giáo viên có thể gặp gỡ, trao đổi ngoài giờ.
- việc ra đề và trả bài cần tích hợp được các nội dung giáo dục đạo đức cho
HS như : ý thức bảo vệ môi trường, chấp hành pháp luật, tư tưởng HCM và kỹ
năng sống -> theo yêu cầu giáo dục hiện nay, tránh ra các đề ý tưởng khuôn mòn,
sáo rỗng, mang tính lý thuyết, không phù hợp với lứa tuổi ….
5. GIỚI THIỆU MỘT SỐ BÀI LÀM CỤ THỂ CỦA HS
Đề bài: Một bài học sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em.
Bài làm:

Bản chất của thành công

Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo
đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng
chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống
giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để lặng
mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công
theo một cách giản dị đến bất ngờ.
Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món
ăn mẹ thích nhân ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có
màu đỏ sậm thì lại ngả sang màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười.
Bởi vì hai bố con không thể thành công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại
18


thành công khi tặng mẹ “đoá hồng” của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả

những món quà quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ.
Thành công còn là câu chuyện về một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ
đi lại bình thường được. Từ nhỏ cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá.
Sau bao nỗ lực khổ luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ,
và chưa bao giờ được chính thức ra sân. Nhưng đó không phải là thất bại. Trái lại,
thành công đã nở hoa khi cậu bé năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến
thắng hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành công ấy, liệu có mấy
người đạt được?
Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử
sĩ”. Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy
năm? Đó thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành công – bị – trì - hoãn mà
thôi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với NV2, NV3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết
sức để khẳng định mình. Đó là ý nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản
chất của thành công.
Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện kể về
một cậu bé nghèo với bài văn tả lại mẹ – người phụ nữ đã che chở cuộc đời em.
Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn
nheo nhưng dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là người mẹ – người
phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về
nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa
tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào,
tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?
Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại
học với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một thành
công khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm
trời đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt
vốn đã chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp
khoá - học – của – một – người – cha.
Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai
mươi năm trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên con

đường sự nghiệp và danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh
những cơ hội của đời mình để trở thành một người vợ đảm đang, một người mẹ dịu
hiền của hai cô công chúa nhỏ.
Cho tới bây giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tôi
rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn”. Mỗi
khi nghe câu nói ấy, tôi lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp
đẽ của đời mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.
Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành
công thì thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú như Bill
Gates? Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin
bên đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu được bạn không chỉ
giàu có về vật chất mà còn giàu có về tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công.
Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với
Abramovich - ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công chẳng ở đâu
19


xa, chỉ cần bạn dành thời gian chăm sóc cho “đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó,
bạn nhận được tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không nhận lại
được từ những cầu thủ của ông ta. Thành công đến với mọi người một cách giản dị
và ngọt ngào như thế!
Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm
của bạn là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê
nghĩ rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng
nói: “Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi
việc mà thôi”.
Còn đối với tôi, thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ
chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được những suy nghĩ của mình vào trang
viết, với tôi, đó là một thành công.
(Bài làm của một HS- Nguồn từ Internet)

Đề bài: “Em hãy phát biểu cảm nghĩ về một người thân yêu nhất”
Bài làm:
Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để chúng ta thương
yêu và dành nhiều tình cảm. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất
của bạn là ai chưa? Với mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh chị
hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng hạn. Còn riêng tôi, hình ảnh người bố sẽ mãi mãi
là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này.
Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác. Trong suốt cuộc đời bố có
lẽ không bao giờ được sống trong sự sung sướng, vui vẻ. Bốn mươi tuổi khi chưa
đi được nửa chặng đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh tật: Đầu
tiên đó chỉ là những cơn đau dạ dày, rồi tiếp đến lại xuất hiện thêm nhiều biến
chứng. Trước đây, khi còn khỏe mạnh, bao giờ bố cũng rất phong độ.
Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay: Thay vì những cánh
tay cuồn cuộn bắp, giờ đây chỉ còn là một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt
sâu dưới hàng lông mày rậm, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khuôn mặt sạm
đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật không thể làm mất đi tính cách bên trong của
bố, bố luôn là một người đầy nghị lực, giàu tự tin và hết lòng thương yêu gia đình.
Gia đình tôi không khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc vào đồng
tiền bố mẹ kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm đau nhưng bố chưa bao giờ chịu
đầu hàng số mệnh. Bố cố gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm yên lòng
mọi người trong gia đình, cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động của mình từ nghề
xe lai.
Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt trời đã ngả bóng từ
lâu. Mái tóc bố đã dần bạc đi trong sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với
những người bình thường nhưng với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ có
những lúc phải chở khách đi đường xa, đường xóc thì những cơn đau dạ dạy của
bố lại tái phát.
20



Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng to nhiệt độ tới 38-40
độ C, hay những ngày mưa ngâu rả rích cả tháng 7, tháng 8, rồi cả những tối mùa
đông lạnh giá, bố vẫn cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong khách qua
đường. Tôi luôn tự hào và hãnh diện với mọi người khi có được một người bố giàu
đức hy sinh, chịu thương, chịu khó như vậy.
Nhưng có phải đâu như vậy là xong. Mỗi ngày bố đứng như vậy thì khi trở về
những cơn đau quằn quại lại hành hạ bố. Nhìn khuôn mặt bố nhăn nhó lại, những
cơn đau vật vã mà bố phải chịu đựng, tôi chỉ biết òa lên mà khóc. Nhìn thấy bố
như vậy, lòng tôi như quặn đau hơn gấp trăm ngàn lần. Bố ơi, giá như con có thể
mang những cơn đau đó vào mình thay cho bố, giá như con có thể giúp bố kiếm
tiền thì hay biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố được vui hơn, con
sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho con được không?
Những lúc ấy, tôi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ muốn với bố đừng đi
làm nữa, tôi có thể nghỉ học, như vậy sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tôi có
thể kiếm được tiền và chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc chắn là
bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi nhiều lắm.
Bố luôn nói rằng bố sẽ luôn chiến đấu. Chiến đấu cho tới những chút sức lực
cuối cùng để có thể nuôi chúng tôi ăn học thành người. Bố rất quan tâm đến việc
học của chúng tôi. Ngày xưa bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ học.
Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được, bố luôn bày dạy cho mấy chị em học bài.
Trong những bữa cơm bố thường nhắc chúng tôi cách sống, cách làm người sao
cho phải đạo. Tôi phục bố lắm, bố thuộc hàng mấy nghìn câu Kiều, hàng trăm câu
châm ngôn, danh ngôn nổi tiếng…
Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm một bác sĩ và sẽ chữa
bệnh cho bố, sẽ kiếm tiền để phụng dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở
dang trong tuổi trẻ của bố. Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tôi một
con đường sáng ngời, bởi đó là con đường của học vấn, chứ không phải là con
đường đen tối của tiền bạc. Tôi sẽ luôn lấy những lời bố dạy để sống, lấy bố là
gương sáng để noi theo.
Và tôi khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang, là một người cao

cả, đứng đắn, lòng kiên trì chịu khó mà còn bởi cách sống lạc quan, vô tư của bố.
Mặc dù những thời gian rảnh rỗi của bố còn lại rất ít nhưng bố vẫn trồng và chăm
sóc khu vườn trước nhà để cho nó bao giờ cũng xanh tươi.
Những giỏ phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào mỗi buổi sáng;
những cây thiết ngọc lan có bao giờ mang trên mình một cái lá héo nào? Những
cây hoa lan, hoa nhài có bao giờ không tỏa hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó
luôn có một bàn tay ấm áp chở che, chăm sóc.
Không những yêu hoa mà bố còn rất thích nuôi động vật. Nhà tôi bao giờ cũng
có hai chú chó con và một chú mèo. Có lúc bố còn mang về những chiếc lồng chim
đẹp nữa. Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với bệnh tật, tôi
21


chưa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc
trốn tránh sự thật, bố luôn đối mặt với “tử thần”, bố luôn dành thời gian để có thể
làm được tất cả mọi việc khi chưa quá muộn.
Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia đình đã dần khá
lên, khi các chị tôi đã có thể kiếm tiền, thì bố lại bỏ chị em tôi, bỏ mẹ, bỏ gia đình
này để ra đi về thế giới bên kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được
gặp lại. Giờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ phải tự đứng dậy và đi tiếp bằng đôi chân
của mình, bởi bố đi xa, sẽ không còn ai nâng đỡ, che chở, động viên tôi nữa.
Bố có biết chăng nơi đây con cô đơn buồn tủi một mình không? Tại sao nỡ bỏ
con ở lại mà đi hả bố? Nhưng con cũng cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài
học nữa, đó chính là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những gì
đang có, hãy yêu thương những người xung quanh mình hơn, và đặc biệt hãy quan
tâm, chăm sóc cho bố của mình, tha thứ cho bố, khi bố nóng giận và nỡ mắng mình
bởi bố luôn là người yêu thương nhất của chúng ta.
Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ không còn bệnh tật, sẽ thoát
khỏi cuộc sống thương đau này. Và bố hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy
của bố, sẽ luôn thương yêu, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng mà bố

đã rọi đường cho con đi. Hình ảnh của bố sẽ luôn ấp ủ trong lòng con. Những kỷ
niệm, những tình cảm bố dành cho con, con sẽ ôm ấp, trân trọng, nó như chính linh
hồn của mình.
Nguyễn Thị Hậu
(Lớp 10A2, Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, TP Vinh, Nghệ An)
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các đề nghị luận xã hội nếu chỉ
dừng lại ở việc nắm bắt tư tưởng, quan niệm sống của các em.v..v.cũng chưa
thể đạt được hiệu quả ngay được. vì vậy, chúng ta có những định hướng uốn
nắn và hành động kịp thời trong công tác giáo dục đạo đức cho các em bằng
sự kết hợp giữa kiến thức môn học với các tổ chức tập thể trong nhà trường
như Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm, bộ phận hướng nghiệp. Thông qua
đó, các em sẽ chủ động tham gia vào các hoạt động chung một cách tích cực
chứ không phải là sự khiên cưỡng hay thờ ơ nữa.
a. Số liệu khảo sát:(GDTX Trảng Bom- HKII năm học 2011-2012)
* Khi chưa được thực hiện theo đề tài này:
22


Lớp

TBKT: Từ 5.0 trở
lên
SL
%
11A1
46
29
63,04
11A2

44
27
61,36
12A1
52
24
46,15
* Khi đã thực hiện theo đề tài này:

Lớp
11A1
11A2
12A1

Số HV

Số HV
49
37
50

TBKT: Từ 5.0 trở
lên
SL
40
30
44

%
81,63

81,08
88,00

HK:Từ 5.0 trở
lên
SL
%
28
60,87
30
68,18
25
48,08

HK: Từ 5.0
trở lên
SL
43
32
45

%
87,76
86,49
90

TBM:Từ 5.0 trở
lên
SL
%

30
65,22
29
65,91
25
48,08

TBM: Từ 5.0 trở
lên
SL
40
30
44

%
81,63
81,08
88

b. Số liệu khảo sát: (GDTX Biên Hòa- HKI năm học 2012-2013)
* Khi chưa được thực hiện theo đề tài này:
Lớp

Số HV

10D1
11D1

46
43


TBKT: Từ 5.0 trở
lên
SL
%
15
32,61
18
41,86

HK:Từ 5.0 trở
lên
SL
%
17
36,96
21
48,84

TBM:Từ 5.0 trở
lên
SL
%
19
41,30
19
44,19

* Khi đã thực hiện theo đề tài này:


Lớp
10D1
11D1

Số HV
35
34

TBKT: Từ 5.0 trở
lên
SL
20
19

%
57,14
55,88

HK: Từ 5.0
trở lên
SL
23
21

%
65,71
61,76

TBM: Từ 5.0 trở
lên

SL
20
23

%
57,14
67,65

IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Việc dạy- học và ra đề văn nghị luận xã hội đang là một vấn đề được các
nhà nghiên cứu quan tâm. Nếu như loại văn này được quan tâm đúng mức từ nội
dung bài học cho đến cách thức ra đề, các bước chấm, trả bài thì chắc chắn sẽ có
23


những tác dụng nhất định đối với việc giáo dục đạo đức học sinh. Nói đến văn
Nghị luận xã hội tức là nói đến nhận thức, sự tự ý thức. Vậy nên việc ra đề văn
Nghị luận xã hội với mong muốn giáo dục đạo đức cho học sinh kết quả có thể
thấy ngay được khi các em còn học ở trường nhưng cũng có thể phải trải qua thời
gian và sự trải nghiệm của bản thân các em khi đã rời khỏi ghế nhà trường.
Thông qua dạng văn này thầy có thể hiểu được trò, trò có thể tự hiểu mình,
hiểu được cả những gì thầy dạy và nhận thức được mình phải làm gì. Đó là sự kết
hợp của hai quá trình giáo dục và tự giáo dục mà cái được chính là sự thay đổi, sự
lớn lên trong nhận thức của mỗi người học.
Có rất nhiều cách thức để giáo dục học sinh. Vấn đề mà tôi đưa ra chỉ là một
khía cạnh nhỏ. Còn chủ yếu là việc giáo dục có sự kết hợp giữa gia đình, nhà
trường và toàn xã hội. Bởi như ai đó đã nói: “Người thầy hình thành nhân cách
học sinh gần giống như nhà điêu khắc tạo nên tác phẩm của mình nhưng bằng một
thứ chất liệu sống và phải trải qua một qúa trình tham gia của nhiều người chứ
không thể sáng tác một mình”.

Thời gian nghiên cứu không nhiều nên tôi rất mong sự nhận xét, đóng góp
của các đồng nghiệp để đề tài của tôi có chất lượng hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
V.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ GD-ĐT (2006), Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 – 11 – 12, NXB GD.
2. Bộ GD-ĐT – Vụ giáo dục trung học Sách GV Ngữ văn lớp 10 – 11 – 12,
NXB GD.
3. Bộ GD-ĐT – Vụ giáo dục trung học (2007), Những vấn đề chung về đổi mới
giáo dục THPT môn Ngữ văn, NXB GD.
4. Bộ GD-ĐT – Vụ giáo dục trung học (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên
Ngữ văn lớp 10-11-12, NXB GD.
5. Lê Bá Hán (Chủ biên), (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà
Nội.
6. Phương Lựu (Chủ biên), (2006), Lí luận văn học, NXB GD.
24


7. Lê Đình Mai (1995), Để làm tốt các kiểu bài văn nghị luận, NXB GD.
Biên Hòa, ngày 15 tháng 02 năm 2013.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Thị Hà

25



×