Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Phân tích hệ thống cán cân thanh toán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.77 KB, 32 trang )

Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

I.

Lời mở đầu

Hình 1 – hệ thống cán cân thanh toán
II.
1.

Nội dung:
Cán cân vãng lai
Thành phần cán cân vãng lai

Cán cân vãng lai (current balance) gồm:
• Cán cân thương mại (trade balance - TB)
- Xuất khẩu hàng hóa (export - X)
- Nhập khẩu hàng hóa (import - M)
• Cán cân dịch vụ (services - Se)
- Thu từ xuất khẩu dịch vụ
- Chi cho nhập khẩu dịch vụ
• Cán cân thu nhập (income - Ic)
- Thu
- Chi
• Chuyển giao vãng lai một chiều (unrequired transfer - TR)
- Thu
Page 1


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam


- Chi
1.1 Cán cân thương mại
a. Tổng quan cán thương mại trong 10 năm qua

Cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam luôn có xu hướng thâm hụt (nhập khẩu
cao hơn xuất khẩu), con số thâm hụt ngày một tăng lên. Nếu như vào năm 2000, chúng ta
có thăng dư là 376 triệu USD thì đến năm 2010 lại thâm hụt 7097 triệu USD. Nhìn vào xu
hướng đó có thể thấy thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam ngày càng gia
tăng.
Nhìn lại giai đoạn 2001 - 2010, có thể thấy mức nhập siêu đã tăng quá nhanh, vượt xa so
với định hướng kế hoạch 2001 - 2010 của Chính phủ, hàng loạt giải pháp nhằm mang lại
hiệu quả trong ngắn hạn đã được ban hành như hạn ngạch thuế quan, áp dụng cấp phép
nhập khẩu tự động, tăng thuế nhập khẩu... nhưng chuyển biến chưa rõ rệt.
Hình 2 – Cán cân thương mại trong 10 năm trở lại đây
Theo đánh giá tổng thể, trong 10 năm trở lại đây cán cân vãng lai của nước ta luôn
ở trong tình trạng thâm hụt. Đáng chú ý trong hai năm 2000 và 2001, cán cân vãng lai của
Việt Nam thặng dư sau nhiều năm trong tình trạng thâmhụt kể từ khi Việt Nam mở cửa
nền kinh tế. Mặc dù mức thặng dư còn khiêm tốn ($1107 triệu - 2000 và $682 triệu -2001)
nhưng cho thấy nỗ lực cố gắng của Việt Nam trong chính sách chú trọng xuất khẩu và
kiềm chế nhập khẩu. Nhưng ngay sau đó từ 2002-2010 cán cân vãng lai của Việt nam liên
tục bị thâm hụt và đạt mức kỷ lục vào năm 2008 với mức thâm hụt lên tới $10787 triệu
tương đương tăng 52% so với năm 2007. Mặc dù vậy nhìn chung xu hướng ngày càng
giảm thâm hụt cán cân vãng lai. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho Việt Nam.
Đánh giá riêng cán cân bộ phận, trạng thái cán cân vãng lai của Việt Nam chịu tác
động mạnh từ trạng thái cán cân thương mại, do các giao dịch về hàng hóa chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu và chi của tài khoản vãng lai (chiếm 70-80%).

Page 2



Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

Hình 3 - Cán cân thương mại trong 10 năm (2000-2010)
Hơn 10 năm trở lại đây Việt nam đạt được những kết quả tích cực trong phát triển
kinh tế, giá trị xuất khẩu tăng lên không ngừng nghỉ, với định hướng phát triển nền kinh tế
xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu Việt nam tăng liên tục với mức trung bình khoảng 20%/
năm, riêng năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế tỷ lệ xuất khẩu giảm xuống
khoảng 10%, dù vậy tính chung cả giai đoạn (2000-2010) xuất khẩu vẫn tăng trung bình
khoảng 17%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là các sản phẩm nông nghiệp,
hàng may mặc, dày da, dệt, dầu thô…

Hình 4 – Xuất khẩu Việt Nam trong 10 năm (2000-2010)
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng khá nhanh nhưng không bì kịp
với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu, rào cản thuế quan dần được xóa bỏ. Hàng hóa nước
ngoài tràn vào Việt Nam chủ yếu là máy móc thiết bị, hàng công nghệ cao… tốc độ tăng
nhập khẩu trung bình trên 20% trong 10 năm qua. Riêng chỉ có năm 2009 tỷ lệ nhập khẩu
giảm xuống -13% do chính sách kích cầu nội địa trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng.
Tỷ lệ nhập siêu trong giai đoạn này gần bằng 70% GDP. Chính hoàn cảnh này đã đẩy cán
cân thương mại Việt Nam vào tình thế ngày càng thâm hụt lên tới 13,8% GDP năm 2008.
b. Những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhập siêu như hiện nay:

Báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, năm 2010 xuất khẩu ước đạt 72,1 tỷ USD,
tăng 26.4% so với năm 2009. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này vẫn không “bù” được tốc
độ tăng của nhập khẩu. Ước cả năm 2010 Việt Nam nhập siêu 79,3 tỷ USD; Tuy mức nhập
siêu đã chuyển biến theo hướng giảm dần nhưng kim ngạch và tỷ lệ nhập siêu của giai
đoạn 2006 - 2010 đều cao hơn giai đoạn 2001 - 2005. Chính vì vậy mức chênh lệch này
khó có thể giảm nhanh trong vòng 5 năm tới.
Page 3



Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nhập siêu cao.
Thứ nhất là do cơ cấu kinh tế. Thông thường, khi chọn ngành trọng điểm, phải xem
xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số kích thích nhập khẩu. Nhưng ở nước
ta, một số ngành như công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng vốn đầu tư khá lớn nhưng chỉ
số lan tỏa nội địa thấp, trong khi chỉ số kích thích nhập khẩu lại cao bất thường.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh sụt giảm khá mạnh là nguyên nhân thứ hai dẫn đến
nhập siêu tăng. Theo các bảng cân đối liên ngành của Tổng cục Thống kê, chỉ tiêu năng
suất đóng góp vào tăng trưởng khoảng 22 - 25%, nhưng trong ba năm 2007 - 2010, đóng
góp của chỉ tiêu này vào GDP chỉ khoảng 7 - 14%.
Nguyên nhân thứ ba không kém phần quan trọng là chính sách bảo hộ. Trong thực
tế, chính sách này của Việt Nam còn nhiều cảm tính. Những ngành có thể cạnh tranh thì hệ
số bảo hộ hữu hiệu - bảo hộ sản xuất ngày càng giảm, thậm chí có những nhóm còn có tỷ
lệ âm. Ngược lại, với những ngành không thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu cho sản
xuất lại ngày càng tăng.
Phân tích của giới chuyên gia cho thấy, những bất ổn của giai đoạn vừa qua khiến việc cân
bằng cán cân thương mại không thực hiện được vẫn sẽ tiếp tục tồn tại. Không những thế,
trong thời gian tới còn xuất hiện thêm nhiều tác nhân mới duy trì đà nhập siêu. Nước ta
đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã có không ít chính sách, chiến lược nhằm kích
thích các ngành kinh tế mũi nhọn. Nhưng dường như các chính sách này chưa phát huy
được tác dụng trước làn sóng hàng Trung Quốc đa dạng và giá rẻ. Chưa kể đến hàng rào
thương mại (thuế và phi thuế) do các nước dựng lên thì hàng hóa của Việt Nam cũng đã ở
thế bất lợi do hạn chế về giá cả, mẫu mã, chủng loại… Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu
các mặt hàng thô như cao su, than, dầu thô… và nhập khẩu từ Trung Quốc máy móc cơ
khí với tỷ trọng lớn, trên 90% giá trị nhập khẩu. Thêm vào đó, việc các nhà thầu Trung
Quốc thắng thầu hàng loạt các dự án lớn ở Việt Nam đã tác động không nhỏ đến tỷ lệ nhập
Page 4



Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

siêu từ Trung Quốc, do các nhà thầu này mang vào Việt Nam hầu như toàn bộ phương
tiện, thiết bị và vật tư.
c. Cán cân thương mại Việt Nam và quốc tế các năm gần đây (2007-2008)

Đặc biệt hai năm 2007 – 2008, cán cân thương mại của Việt Nam bị thâm hụt trầm
trọng (10.360 triệu USD năm 2007 và 12.782 triệu USD năm 2008, tương ứng với mức
tăng 115% và 72% so với năm trước), mức thâm hụt này vượt trội hơn hẳn so với giai
đoạn từ 2006 trở trước. So với năm 2002, thâm hụt năm 2007 gấp 10 lần và năm 2008 gấp
12 lần. Cán cân thương mại thâm hụt tăng lên mặc dù giá trị ngạch xuất khẩu vẫn tăng
nhanh, mức tăng trung bình khoảng 18,7% (2000 – 2010). Cùng lúc đó, Campuchia và
Thái Lan cũng đang phải chịu tình trạng tương tự. Giai đoạn 2000 – 2010, cán cân thương
mại của Campuchia luôn bị thâm hụt. Đặc biệt, mức thâm hụt này đạt mốc kỷ lục khoảng
1.800,4 triệu USD (gấp 3 lần so với năm 2002). Giá trị xuất khẩu năm 2008 tăng 15,2% so
với 2007 nhưng giá trị nhập khẩu tăng đến 19,8%. Đối với Thái Lan, nhìn một cách tổng
thể, Thái Lan luôn có xu hướng ngược lại là thặng dư thương mại, nhưng vẫn bị thâm hụt
trong 2008 (khoảng 371 triệu USD), thấp hơn so với năm 2005 (8.254 triệu USD). Nếu
tính trên GPD thì năm 2008, thâm hụt thương mại của Việt Nam khoảng 14%, Campuchia
khoảng 17,4% và Thái Lan khoảng 0,1%. Như vậy, tình hình cán cân thương mại của Thái
Lan tốt hơn rất nhiều so với Việt Nam và Campuchia.
Vì cán cân thương mại là thành phần quan trọng cấu thành nên và phản ánh kịp thời
lên cán cân vãng lai – một trong những bộ phận chính của cán cân thanh toán - nên thặng
dư hay thâm hụt thương mại có ảnh hưởng rất nhiều đến cán cân thanh toán của quốc gia,
và từ đó ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối và cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Tình trạng
nhập siêu kéo dài gây một sức ép rất lớn lên dự trữ ngoại hối (kết hợp với ngoại tệ đi vào
từ các nguồn đầu tư gián tiếp, FDI, kiều hối…) để đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu.
Nếu như năm 2009, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỷ USD, thì năm 2010
đã có sự cải thiện đáng kể. Phần thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai năm 2010 trên thực tế
Page 5



Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

có thể được bù đắp hoàn toàn bởi thặng dư trong cán cân tài khoản vốn. Tuy nhiên, dự báo
cán cân thanh toán năm 2010 vẫn thâm hụt khoảng trên 2 tỷ USD do phần “lỗi và sai sót”
trong cán cân tài khoản vốn gây ra. Thực tế, tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại hối
và việc giá vàng liên tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ đô la và
vàng. Như vậy, việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân sang các
loại tài sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai sót” và thâm hụt
trong cán cân thanh toán trong năm 2010. Bên cạnh đó, mặc dù cán cân thanh toán được
cải thiện trong năm 2010, lượng dự trữ ngoại hối vẫn không tăng một mặt do Ngân hàng
nhà nước can thiệp vào thị trường để giữ ổn định tỷ giá, mặt khác có một lượng ngoại tệ
lớn đang lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng.
Năm 2010, xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng đáng khích
lệ trong bối cảnh kinh tế của những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam
như Mỹ, Nhật Bản, EU… vẫn phục hồi chậm chạp. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010
ước đạt khoảng 70,8 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm 2009. Xuất khẩu tăng là do sự đóng
góp lớn của những mặt hàng công nghiệp chế biến cộng với sự phục hồi của kinh tế thế
giới làm cho xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản được lợi về giá. Vấn đề tồn tại lớn nhất
của xuất khẩu đã bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt
hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, dệt may, da giầy… Hơn nữa, các mặt hàng
công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa
vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có
mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Dự báo xuất nhập khẩu năm 2011: Trên cơ sở ước thực hiện năm 2010 và phân tích
các yếu tố tác động đến thương mại quốc tế trong năm tới: Năm 2011, nền kinh tế thế giới
tiếp tục phục hồi; vốn đầu tư nước ngoài khả quan hơn; các chính sách phát triển thương
mại, dịch vụ và thị trường trong nước thuận lợi, kim ngạch xuất, nhập khẩu năm tới sẽ
cùng tăng trên 10%. Cụ thể, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2011 dự kiến đạt khoảng 78 tỷ

USD, tăng hơn 10% so với năm 2010, trong đó xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài
Page 6


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

(không kể dầu thô) đạt khoảng 38 tỷ USD, chiếm khoảng 48,7% tổng kim ngạch xuất khẩu
và tăng 13 % so với năm 2010. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm tới dự kiến khoảng 92 tỷ
USD, tăng hơn 11% so với năm 2010, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 41,5 tỷ USD, chiếm 45% tổng kim ngạch nhập khẩu và
tăng 15,3% so với năm 2010.

Page 7


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

Page 8


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

d. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam


Tình hình xuất nhậu khẩu của Asean
Theo số liệu thống kê, kim ngạch nội khối ASEAN tăng gấp 3 lần trong thập kỷ từ

1996-2006 , đạt hơn 300 tỷ USD, chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thương mại 1,44
nghìn tỷ USD của ASEAN. Trong đó quyết định ưu tiên đẩy nhanh hội nhập trong 12

ngành, bao gồm nông nghiệp, cao su, sản phẩm gỗ, hàng không, ôtô, điện tử, ngư nghiệp,
hậu cần, dệt may, du lịch, điện tử và y tế. Theo số liệu mới thống kê, 9/12 ngành hàng này
đã chiếm hơn 50% tổng lượng thương mại hàng hoá nội khối .
Tới năm 2008 khi khủng hoảng diễn ra . Trong khi các nước đang lội trong vũng
lầy khủng hoảng thì Asean với kinh nghiệm từng trải qua cuộc khủng hoảng năm 2007 đã
phục hồi lại nhanh chóng .Năm 2009, tăng trưởng kinh tế của ASEAN giảm 1,6%, nhưng
bước sang năm 2010, tăng trưởng kinh tế khu vực này đã tăng trở lại với mức 7,4%. Việc
đối phó thành công với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến các nước ASEAN tràn
đầy lòng tin trong việc đối phó với tác động đến từ khủng hoảng nợ công hiện nay của các
nước phát triển.
Các nước thành viên ASEAN đã đạt được tiến bộ nổi bật về xóa bỏ hàng rào đầu tư
thương mại. Tính đến cuối năm 2010, giữa các nước Brunây, Inđônêxia, Malaixia,
Philíppin, Singapo và Thái Lan đã thực hiện cắt giảm 99,11% thuế quan, giữa các nước
Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam đã cắt giảm thuế quan từ 98,86% xuống dưới
5%. Ngoài ra, việc ASEAN và các nước đối tác gồm Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc và
NewZeland thực thi hiệp định thương mại tự do, việc cắt giảm thuế quan và mở rộng thâm
nhập thị trường cũng sẽ tạo thêm nguồn động lực tăng trưởng kinh tế nhiều hơn cho các
nước thành viên ASEAN.
Thương mại hàng hóa ASEAN đã tăng 32,9%, kim ngạch thương mại tăng đạt trên
2.000 tỉ USD. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của ASEAN cũng tăng rõ rệt. Năm 2010, vốn
đầu tư vào ASEAN đạt 75,8 tỉ USD, tăng gấp đôi so với năm 2009. Vốn đầu tư trực tiếp
Page 9


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

giữa các nước thành viên ASEAN trong năm 2010 đạt mức tăng 131,8%. Vốn đầu tư trực
tiếp vào ngành dịch vụ tiếp tục chiếm vị trí chủ đạo, đạt 49,2 tỉ USD, chiếm 65,7% vốn
đầu tư trực tiếp vào cả khu vực ASEAN.
1.2


Cán cân dịch vụ, thu nhập
Về cán cân dịch vụ và thu nhập cũng chung tình trạng với cán cân thương mại, luôn

trong tình trạng thâm hụt, tuy nhiên tỷ lệ cán cân thu nhập và dịch vụ trong tổng cán cân
thanh toán vãng lai nhỏ nên ảnh hưởng của nó là không đáng kể. Trong 10 năm trở lại đây
mức độ thâm hụt cán cân này càng gia tăng, đặc biệt trong 2 năm 2007 và 2008 tương ứng
mức thâm hụt tăng 115% và 72% so với năm trước. Theo biểu đồ, xu hướng chung của hai
cán cân này là mức độ thâm hụt ngày càng tăng.
Từ năm 2000 tới 2007 xuất khẩu dịch vụ của việt nam còn thấp, năm 2007, Việt Nam gia
nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của việt nam tăng lên đồng thời với sự tăng lên
mạnh mẽ của kim ngạch nhập khẩu dịch vụ. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu cuả
dịch vụ là vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng… Trong năm 2001 tới 2005
trung bình tăng 15,7%/năm, chiếm tỷ trọng 10,8% GDP của 5 năm này. Tốc độ tăng xuất
khẩu dịch vụ luôn thấp hơn xuất khẩu hàng hóa.

Hình 3- cán cân dịch vụ và thu nhập
1.3

Cán cân chuyển giao vốn một chiều
Cán cân cuối cùng ảnh hưởng mạnh tới cán cân vãng lai sau cán cân thương mại, đó

là cán cân chuyển giao vốn một chiều, là các khoản viện trợ không hoàn lại, biếu tặng và
các khoản chuyển giao khác bằng tiền. Từ năm 2000 trở lại đây, cán cân này luôn ở trong
tình trạng thặng dư. Hằng năm Việt nam nhận được một khoản viện trợ từ nước ngoài
tương đối lớn, góp phần làm giảm thâm hụt cán cân vãng lai. Mặc dù có biến động ngược
Page 10


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam


chiều và năm 2009 cán cân này giảm xuống 12% nhưng nhìn chung xu hướng là tăng,
trung bình khoảng 20%/năm.

Hình 4 - cán cân chuyển giao một chiều
Một thành phần quan trọng trong chuyển giao vốn một chiều là nguồn viện trợ
không hoàn lại ODA. Vốn ODA cam kết tài trợ VN năm sau luôn cao hơn năm trước cho
thấy sự ủng hộ của cộng đồng thế giới đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của VN
sau khi đổi mới. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân còn khá thấp trung bình chỉ bằng 60% vốn cam
kết và bằng khoảng 80% vốn ký kết. Tỷ lệ vốn ký kết thấp hơn vốn cam kết cũng cho thấy
VN cần phải nỗ lực hơn nữa để nhận được sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào các
dự án phát triển của VN. Tỷ lệ giải ngân thấp còn thể hiện sự khả năng hấp thụ yếu kém
của thể chế đối với sự quan tâm của cộng đồng thế giới.Năm 2008 ODA của Việt nam đạt
kỷ lục 5426 tỷ USD.
Mặc dù tốc độ tăng của nguồn vốn ODA tương đối lớn nhưng cũng không đủ để bù đắp
thâm hụt trong cán cân thương mại, dịch vụ và thu nhập.
Phần Việt
2
%

0

thayđổ

1

i

2000


2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

0
2
6

∆X
∆M

4%
3%

11%
22%


21%
28%

31%
26%

23%
21%

23%
22%

22%
38%

29%
28%

-9%
-13%

%
2
1

Page 11


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam


%
4
0
∆S,I

5%

40%

8%

11%

-15%

-4%

115%

72%

-22%

%
3
4

∆TR


-28%

54%

17%

38%

9%

20%

59%

14%

-12%

%
2
9

∆CA

-38%

-188%

220%


-50%

-41%

-71%

4224% 52%

-44%

Hình – Bảng thống kê thay đổi của các cán cân bộ phận từ 2000-2010

Như vậy cán cân vãng lai của Việt Nam trong 10 năm trở lại đây luôn trong tình
trạng thâm hụt chịu tác động chủ yếu từ cán cân thương mại, trong hai năm 2009-2010
tình trạng thâm hụt đã có xu hướng giảm và hi vọng những năm tiếp theo Việt Nam sẽ có
những chính sách làm tăng tỷ lệ xuất khẩu và giảm tỷ lệ nhập khẩu góp phần làm cho cán
cân vãng lai được cải thiện.

Hình 8-Các bộ phận chi tiết trong cán cân vãng lai
 Nguyên nhân thâm hụt cán cân vãng lai

Ta có thể thấy từ năm 2002, ở Việt Nam đã xuất hiện thâm hụt thương mại gia tăng
mang tính chất hệ thống và càng ngày mức thâm hụt lại càng bị đào sâu thêm. Thâm hụt
thương mại mang tính chất cơ cấu là gánh nặng lớn đối với Cán cân thanh toán (BoP)
Page 12

%


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam


quốc gia, và kết quả là cán cân vãng lai đã rơi vào tình trạng thâm hụt trong những năm
gần đây. Mặc dù tình hình BoP của Việt Nam không bị coi là đáng báo động, nhưng nó
cũng yêu cầu cần phân tích sâu và có những biện pháp tích cực nhằm loại bỏ bất cập này.
Trong những năm đầu thiên niên kỉ, các dòng vốn nước ngoài đa số tập trung vào các
ngành sản xuất phục vụ thị trường trong nước mà không tạo ra tiềm năng đến xuất khẩu,
không những thế nó còn cần phải nhập khẩu thiết bị, công nghệ… để đầu tư. Điều này đã
đẩy cán cân tài khoản vãng lai ngày một xấu đi và thâm hụt ngày một tăng dần những năm
từ 2002 trở về sau. Tuy nhiên trong khoảng 5 năm trở lại đây, dòng vốn đầu tư nước ngoài
đã chuyển hướng tập trung nhiều hơn vào xây dựng, du lịch, thị trường bất động sản mặc
dù làm tăng thêm nhu cầu nhập khẩu vật liệu xây dựng và máy móc công nghiệp nặng
đồng thời chỉ tạo ra chút ít lợi thế cho tăng xuất khẩu. Tuy nhiên điều này sẽ gián tiếp gia
tăng khả năng xuất khẩu trong tương lai khi mà hệ thống hạ tầng đã được hoàn thiện. Bên
cạnh đó, với nguồn nhân công giá rẻ và trình độ ngày càng được nâng cao, Việt Nam đang
là điểm đến của rất nhiều tập đoàn công nghệ cao trên thế giới trong xu hướng giảm thiểu
chi phí của mình. Giai đoạn đầu các dự án của các tập đoàn này sẽ tạo áp lực lên tài khoản
vãng lai (VD: nhà máy sản xuất chip của Intel với vốn đầu tư ban đầu lên tới 1 tỷ USD).
Tuy nhiên sau đó các dự án này khi đi vào hoạt động sẽ mang lại một khoản thặng dư xuất
khẩu rất lớn.
Một lý do khác làm cho khoảng cách xuất nhập khẩu gia tăng chóng mặt đó là việc
gia nhập WTO năm 2006. Việc giảm thuế nhập khẩu theo chính sách của WTO bên cạnh
việc các công ty trong nước vẫn còn non yếu và tâm lý sính ngoại của người dân Việt đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty nước ngoài tràn vào thống trị thị trường trong nước
làm cho thâm hụt tài khoản vãng lai từ -164 triệu USD năm 2006 tăng vọt lên -7092 triệu
USD năm 2007. Đến năm 2008 khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, sự mất lòng tin vào tiền tệ
và chứng khoán đã làm gia tăng đột biến lượng vàng nhập khẩu (một loại tài sản an toàn).
Bên cạnh đó, khủng hoảng toàn cầu đã làm sụt giảm nghiêm trọng nhu cầu đối với hàng
Page 13



Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

xuất khẩu của Việt Nam làm cho sản lượng xuất khẩu giảm mạnh từ 62685 triệu USD năm
2008 xuống còn 57096 triệu USD năm 2009.

Bên cạnh các lý do kể trên, còn rất nhiều bất cập còn tồn tại đằng sau sự mất cân đối
xuất nhập khẩu của Việt Nam, tỷ lệ nhập khẩu là cấu phần trong xuất khẩu rất cao chiếm
gần 2/3 giá xuất xưởng. Điều này dẫn tới một thực tế là muốn tăng xuất khẩu thì trước hết
phải tăng nhập khẩu. Hàng hóa xuất khẩu chưa đa dạng, nhiều mặt hàng như dầu thô,
khoáng sản… xuất khẩu dưới dạng tài nguyên giá rẻ để rồi phải nhập khẩu lại thành phẩm
từ chính những tài nguyên đó với giá thành đắt hơn nhiều.
Tâm lý sính ngoại của người dân Việt cũng là một nguyên nhân chủ yếu. Đặc biệt là
những năm gần đây khi đời sống của người dân ngày một tăng cao thì họ cũng tìm đến các
mặt hàng xa xỉ của nước ngoài nhiều hơn.
Về phía Trung Quốc đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu liên tục tăng cao trong nhiều năm qua. Tổng kim ngạch mậu dịch hai chiều tăng
nhanh, bình quân khoảng 40%/năm. Năm 2008 con số này đạt 21,659 tỷ USD, năm 2009
đạt 20,751 tỷ USD, hết quý I năm 2010 là 5,37 tỷ USD, tăng 37,8% so với cùng kỳ năm
trước. Tuy nhiên nhập siêu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc ngày càng lớn về giá
trị, năm 2005 nhập siêu là 2,82 tỷ USD, năm 2007 là 9,15 tỷ USD, năm 2008 là 11,12 tỷ
USD, năm 2009 11,53 tỷ USD, và quý I năm 2010 là 2,55 tỷ USD.Mặt khác nhập siêu từ
Trung Quốc chiếm phần lớn tổng nhập siêu của Việt Nam ,tỷ lệ nhập siêu từ Trung Quốc
so với nhập siêu của cả nước đã và đang duy trì ở mức rất cao, năm 2001 là 18,7 %, năm
2007 là 73,7%, năm 2008 là 69,8%, năm 2009 là 97,1% và dự đoán năm 2010 là 94,4%.
Đây thực sự là những khó khăn của ngoại thương nước ta, trong khi ta luôn xuất siêu với
các thị trường như Mỹ, Anh, Đức, Úc, song nhập siêu từ thị trường Trung Quốc ngày một
Page 14


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam


tăng và duy trì ở mức cao chưa từng có. Do đó, muốn hạn chế nhập siêu của Việt Nam thì
phải có những biện pháp thực sự hiệu quả để giảm thâm hụt thương mại với Trung Quốc.
Về phần tỷ giá với chính sách tỷ giá được coi là “cố định linh hoạt” của Việt Nam gắn với
đồng đôla Mỹ, diễn biến tỷ giá một số thời điểm chưa theo kịp với thực tế của thị trường
trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng, tỷ giá hầu như cố định đã góp phần làm giảm
kim ngạch xuất khẩu, tăng kim ngạch nhập khẩu. Biểu đồ 2 cho thấy, mặc dù tỷ giá danh
nghĩa USD/VND có xu hướng tăng lên theo thời gian và biên độ giao động được điều
chỉnh linh hoạt tùy từng hoàn cảnh kinh tế cụ thể. Tuy nhiên, diễn biến tỷ giá thực RER và
REER có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây do chênh lệch tốc độ lạm phát của
Việt Nam so với Mỹ và các nước đối tác thương mại chính đã góp phần làm giảm sức cạnh
tranh về giá hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Thực tế này một phần lý giải tình
trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam trong thời gian qua trở nên lớn hơn

Vấn đề thâm hụt ngân sách nhà nước cũng thường đi kèm với thâm hụt cán cân vãng lai.
Cũng như Mỹ, tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam có phần xuất phát từ
nguyên nhân thâm hụt ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách cao (năm 2009: 6,9%
GDP) cộng với nợ công (và nợ công có bảo đảm) tăng lên 45% so với GDP là minh chứng
cho sự thâm hụt cán cân vãng lai ngày càng gia tăng của Việt Nam
Page 15


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

 Phân tích khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai

Để đo lường mức thâm hụt cán cân vãng lai và đánh giá khả năng chịu đựng thâm hụt cán
cân này của nền kinh tế, thường có hai cách tiếp cận chủ yếu. Cách tiếp cận thứ nhất dựa
vào các chỉ số kinh tế vĩ mô, tài chính và nợ nước ngoài. Tuy nhiên cách tiếp cận này có
những hạn chế vì các chỉ số không thể nói lên “chuẩn mực” là bao nhiêu và “xếp hạng”

như thế nào để có thể đưa ra được nhận định chính xác về tình trạng thâm hụt cán cân
vãng lai. Cách tiếp cận thứ hai dựa vào khả năng thanh toán. Chính vì vậy, cách tiếp cận
này thường dựa vào các chỉ tiêu nợ khi so sánh với nguồn lực sử dụng để trả nợ như cán
cân vãng lai/GDP (%) hay chỉ tiêu cán cân vãng lai/xuất khẩu (%). Mức thâm hụt cán cân
vãng lai trên 5% so với GDP thường được coi là đáng báo động và nhiều nhà kinh tế cho
rằng, mức thâm hụt tối đa này nên chỉ dừng lại trước 20% trước khi bắt đầu cho cuộc
khủng hoảng. Tuy nhiên, việc đánh giá khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân này cần gắn
với việc phân tích các nguồn gốc được coi là nguyên nhân của thâm hụt. Trong bối cảnh tỷ
lệ thâm hụt cán cân vãng lai so với GDP cao, mức thâm hụt được cho là có khả năng chịu
đựng nếu nó là kết quả của mức tăng đầu tư của quốc gia đó cao chứ không phải do mức
Page 16


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

tiết kiệm giảm, đặc biệt là khi tiết kiệm quốc gia ở mức thấp. Cho dù tốc độ tăng đầu tư
cao, nhất là đầu tư của khu vực tư nhân vào vốn sản xuất có thể gây ra thâm hụt cán cân
vãng lai, nhưng trong tương lai, chúng lại góp phần tăng năng lực sản xuất và thu nhập từ
xuất khẩu, do đó, cải thiện khả năng trả nợ nước ngoài.

Biểu đồ ở trên cho thấy, bước sang năm 2002 trở đi, tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai
lại tiếp tục tiếp diễn. Tuy nhiên, mức thâm hụt có xu hướng giảm dần và ở mức không
đáng kể cho đến năm 2006. Đáng chú ý, trong 3 năm trở lại đây (2007 - 2009), khi nền
kinh tế Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, thâm hụt cán cân vãng lai tăng
đột biến, đạt mức kỉ lục là 10,3% năm 2008 và cán cân này thâm hụt lên tới 9,2 tỷ USD.
Đây là mức thâm hụt cao nhất trong hơn 10 năm trở lại đây, được coi là đáng báo động vì
theo chuẩn mực quốc tế (khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai nằm trong khoảng 5%
GDP). Tương tự, cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua cũng ở mức 14-15% so
với GDP trong khi mức chuẩn mực quốc tế là 10%. Thâm hụt lớn về thương mại và cán
cân vãng lai trong những năm gần đây chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng bền vững của

nền kinh tế, đặc biệt sẽ tạo nên áp lực giảm giá đồng nội tệ.
2. Cán cân vốn

Công thức tính cán cân vốn
Capital account= direct investment+ portfolio investment + other investment
Cán cân tài khoản vốn phụ thuộc lớn vào tình hình kinh tế thế giới và nền kinh tế vĩ
mô trong nước. Nhìn chung cán cân vốn Việt Nam luôn thặng dư, tăng mạnh nhất vào năm
Page 17


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

2007 với cán cân vốn đạt $17.730 tỷ, nguyên nhân chính là sự thặng dư lớn trong nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Nguyên nhân chính có thể kể đến là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, từ năm 2007 niềm
tin của nhà đầu tư quốc tế về triển vọng kinh tế Việt Nam là khá lớn, dòng vốn đầu tư vào
Việt Nam tăng cao. Việt Nam tiếp cận với vốn vay nợ ngắn hạn, dưới hình thức đầu tư
gián tiếp, dòng vốn này có xu hướng tăng lên mặc dù biến động khá lớn. Tuy nhiên, niềm
tin vào thị trường Việt Nam bị suy giảm mạnh trong năm 2008 và luồng vốn gián tiếp
giảm mạnh, chỉ còn -$578 triệu, làm cho tài khoản vốn bị thâm hụt; xu hướng này tiếp tục
giảm vào năm 2009. Tác động tổng quát của hiệu ứng thâm hụt kép tài khoản vãng lai và
tài khoản vốn làm cán cân thanh toán tổng thể tính riêng cho năm 2009 bị thâm hụt, giảm
dự trữ quốc tế trong quý 2 năm 2009. Tuy nhiên, dự báo cả năm tài khoản tài chính sẽ
thặng dư mặc dù tài khoản vãng lai thì vẫn lớn hơn khoản thặng dư này, do vậy dự trữ sẽ
giảm đi 2,3 tỷ đôla Mỹ trong năm 2009.

Hình 5- Cán cân vốn Việt Nam qua các năm
Trong cán cân vốn, FDI chiếm phần rất quan trọng. Nguồn vốn FDI (Foreign Direct
Investment) có vai trò tích cực hơn vốn ODA nhờ đi kèm với vốn FDI là chuyển giao công
nghệ, kỹ năng quản lý và tạo điều kiện cho nước nhận vốn FDI tiếp cận được phương pháp

quản lý hiện đại, cách thức tổ chức doanh nghiệp đa dạng và hiệu quả. Việc tiếp nhận FDI
có hai mặt tác động tiêu cựa và tích cực đến nền kinh tế một nước, trong đó có cán cân
thanh toán. Cho đến hiện nay vẫn tồn tại hai quan điểm về tiếp nhận và sử dụng vốn FDI
thế nào cho có hiệu quả tại các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Điều này
sẽ làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của các quốc gia đang phát triển, ảnh hưởng
nàyđã được chứng minh qua hai cuộc khủng hoảng năm 1997 và 2008, làm cho lợi nhuận
từ FDI chạy ra nước ngoài với khối lượng lớn ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của
các quốc gia có vốn FDI lớn.
Page 18


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

Về mặt tích cực, FDI cao giúp làm bội thu cán cân thanh toán tài khoản vốn, Tuy
nhiên, so với các nước Ðông Nam Á thu hút vốn FDI của Việt Nam chỉ đứng thứ 4, sau
Singapore, Thái Lan và Malaysia. Xu hướng FDI không tập trung vào các ngành công
nghiệp chế biến và nông nghiệp như trước đây mà tập trung vào bất động sản, nhà hàng
nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao. Sự dịch chuyển dòng vốn FDI như cần được xem xét dưới
góc độ hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ đi kèm với FDI và năng lực xuất khẩu trong
tương lai.
3. Những tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán Việt Nam
a.
Tác động thông qua cán cân thương mại

Xu hướng tăng cán cân thương mại của khối ĐTNN đăc biệt đối với các nước
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã chèn lấn các doanh nghiệp trong nước bằng cách
thực hiện các thương vụ xác nhập và thôn tín (M&A) các doanh nghiệp trong nước nhằm
độc chiếm lợi nhuận. Với tỷ trọng xuất khẩu cao cảu doanh nghiệp ĐTNN có làm thúc đẩy
tăng trưởng GDP trong nước, nhưng khi có biến động kinh tế thì sự thoái lui của khối này
sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của quốc gia; cuối cùng về lâu dài các quốc gia chủ

yếu phải dựa vào khối đầu tư trong nước để phát triển. Nên chính sách thu hút đầu tư trong
nước và thúc đẩy hình thành các công ty đa quốc gia mạnh từ trong nước là chiến lược
phát triển lâu dài của quốc gia.
b.

Thông qua chuyển lợi nhuận đầu tư ra nước ngoài
Là các khoản lợi tức từ trái phiếu ngoại tệ chính phủ Mỹ Việt Nam được chuyển ra

nước ngoài. Biện pháp để giảm tác động của các khoản lợi nhuận từ đầu tư chuyển ra nước
ngoài, chính phủ các nước trong đó có chính phủ Việt Nam thường thực hiện các biện
pháp như:

Page 19


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản tái đầu tư từ lợi nhuận của FDI
nhằm giảm chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, xem ra giải pháp này không công bằng đối
với các doanh nghiệp ĐTTN;
Duy trì đồng nội tệ mạnh so với USD nhằm thu hút việc tái đầu tư các lợi nhuận từ FDI
của các doanh nghiệp ĐTNN, xem ra giải pháp này không có lợi cho xuất khẩu;
Trợ giúp các doanh nghiệp ĐTTN gia tăng xuất siêu và đầu tư ra nước ngoài, giải pháp
này là tích cực nhưng đòi hỏi các chính sách của Chính phủ phải phù hợp với những qui
định của WTO và tùy thuộc vào năng lực của các doanh nghiệp ĐTTN.
c.

Tác động do tăng chi phí mua patent, know-how nhằm độc quyền kỹ thuật cao
Các doanh nghiệp ĐTNN thường mua các sáng chế (patents) và bí quyết sản xuất


(know-how) để độc chiếm công nghệ, nhờ đó gia tăng lợi nhuận từ đầu tư. Thông thường,
các chi phí để mua các giấp phép (licences) này được tính trên doanh thu bán hàng. Doanh
thu của các doanh ĐTNN càng lớn và xuất khẩu càng nhiều thì chi phí trả cho việc mua
licence ngày càng lớn. Điều này ảnh hưởng đến dòng tiền mua licence trên cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam. Để hạn chế tác động này chính phủ các nước và Việt Nam
thường có các giải pháp:
Thứ nhất, thu hút các FDI có hàm lượng công nghệ cao và hạn chế các loại hình
đầu tư 100% vốn nước ngoài (vì các doanh nghiệp loại này muốn giữ bí mật công nghệ và
không muốn chuyển giao) mà phải liên doanh với doanh nghiệp trong nước nhằm thực
hiện chuyển giao công nghệ, nhưng việc phân cấp thu hút vốn ĐTNN cho cấp tỉnh đã phá
vỡ chiến lược này, như thời gian vừa qua thể hiện việc thu hút vốn FDI chỉ tập trung vào
các lĩnh vực bất động sản, khách sạn và nhà hàng.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu trong nước. Giải pháp này là tích cực nhưng ngân
sách của chính phủ dành cho lĩnh vực này còn rất bé chỉ là 1,5% GDP5; huy động các
nguồn lực ngoài Nhà nước vào lĩnh vực này cũng rất bé, vốn ĐTNN dành cho lĩnh vực
này

Page 20


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

Chỉ 0.6%6, còn ĐTTN dành cho lĩnh vực này hầu như không đáng kể. Theo báo cáo của
Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam, đến năm 2007 có 28607 bằng sáng chế xin được bảo hộ tại
Việt Nam thì chỉ có 219 có xuất xứ từ Việt Nam, còn lại có xuất xứ từ nước ngoài.
Thứ ba, giảm ưu đãi cho các nhà ĐTNN và tạo sự công bằng về chính sách ưu đãi
giữa nhà ĐTNN và nhà ĐTTN những vẫn đảm bảo thu hút mạnh vốn FDI. Giải pháp này
cần phải được cân nhắc và kết hợp với các giải pháp khác như tháo gỡ các “nút thắt cổ
chai”, hiện nay đối với việc triển khai các dự án ĐTNN như yếu kém về thể chế, kết cấu
hạ tầng và nguồn nhân lực có kỹ năng, thì mới có khả năng thu hút mạnh vốn FDI. 4)

Nâng cao tỷ lệ kinh phí nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp ĐTTN, và nâng cao năng
lực của doanh nghiệp ĐTTN trong việc tự chủ sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật nước ngoài.
Chính phủ đã cho phép các chi phí nghiên cứu được hạch toán vào giá thành; nhưng chỉ
vậy chưa đủ, cần phải có chính sách đầu tư nghiên cứu tại các viện nghiên cứu, các trường
đại học và thực hiện chuyển giao công nghệ có hiệu quả các kết quả nghiên cứu đến các
doanh nghiệp trong nước.
Do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ năm 2007 luồng vốn vào Việt
Nam đã giảm mạnh, thoái đầu tư và rút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) diễn ra ở
mức nhất định, tạo ra sự thâm hụt kép cả trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
4. Tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm 2008 (OFB)

Dự trữ ngoại hối (DTNH) của Việt Nam tăng đáng kể trong khoảng thời gian cuối
năm 2008 (11/2008). Môi trường đầu tư được cải thiện rõ rệt, đầu tư nước ngoài vào tăng
mạnh, kinh tế tiếp tục trên đà tăng trưởng mạnh, thương mại quốc tế được mở rộng, hợp
tác kinh tế song phương và đa phương ngày càng phát triển. Trong khi khối lượng DTNH
tăng nhanh, cơ chế quản lý chậm đổi mới sẽ dẫn đến những bất cập như: hình thức đầu tư
DTNH còn đơn điệu, hiệu quả thấp, cơ chế phòng ngừa rủi ro đầu tư chưa rõ ràng, quản lý
dự trữ thiếu sự minh bạch, thời hạn đầu tư chưa phù hợp; cơ cấu đồng tiền dự trữ chưa hợp
lý...
Page 21


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

DTNH tăng chủ yếu do FDI, ODA và kiều hối thu hút tăng. Việc quản lý các luồng
ngoại tệ ra, vào Việt Nam nhất là nguồn trả nợ (như L/C trả chậm, bảo lãnh…) còn hạn
chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp nhàng trong điều hành xuất, nhập khẩu, ngân
sách… Về ngoại tệ, lượng chuyển vào nước ta chủ yếu là kiều hối, ngoại tệ do cá nhân
mang từ nước ngoài về, nguồn ngoại tệ do khách du lịch nước ngoài chi trả tại Việt Nam,
tiền lương của người Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài… trong đó, kiều

hối là nguồn thu ngoại tệ lớn.
Tỷ giá của Việt Nam phụ thuộc vào 3 yếu tố, đó là lạm phát, thâm hụt thương mại
và dòng vốn. Thời gian qua, tiền đồng luôn chịu sức ép mất giá do mức độ lạm phát tại
Việt Nam (8.1%/năm) cao hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là so với
Mỹ. Bên cạnh đó, thâm hụt thương mại có xu hướng tăng cao kể từ khi Việt Nam gia nhập
WTO và đạt đỉnh 18 tỷ USD trong năm 2008. Năm 2009 và 2010, sau những nỗ lực của
Chính phủ, thâm hụt thương mại đã giảm xuống mức tương ứng là 12 tỷ USD và 12,4 tỷ
USD, mọi chính sách của Nhà nước tập trung vào kiểm soát lạm phát.
Có hai nguyên nhân chính khiến Dự trữ ngoại hối của các nước giảm mạnh trong
năm 2008, đặc biệt vào thời điểm tháng 9 và 10/2008. Thứ nhất là việc Ngân hàng trung
ương các nước bán ròng ngoại tệ trong đó chủ yếu là đồng đô la Mỹ để can thiệp thị
trường nhằm giữ giá đồng nội tệ, thứ hai là do tỷ giá của một số ngoại tệ mạnh trong rổ
ngoại tệ thuộc Dự trữ ngoại hối biến động khiến mức Dự trữ ngoại hối quy ra đô la Mỹ sụt
giảm.
Bên cạnh đó, với mức độ đô la hoá tương đối cao của Việt Nam, dự trữ ngoại hối
cũng phải gia tăng để đảm bảo can thiệp khi có hiện tượng rút ngoại tệ ồ ạt tại các ngân
hàng thương mại. Hiện tượng đô la hoá (theo số tương đối) có xu hướng giảm do hoạt
động đầu tư vào thị trường chứng khoán gia tăng mạnh mẽ. Cụ thể, chỉ số tiền gửi ngoại
tệ/M2 của Việt Nam ở mức 22,3% vào cuối năm 2005, 20,9% cuối năm 2006 và ở mức

Page 22


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

khoảng 19,5% vào cuối tháng 6 năm 2007. Tuy nhiên, do M2 tăng nhanh nên tiền gửi
ngoại tệ theo số tuyệt đối vẫn tăng trong những tháng đầu năm 2008.
5. Kiến nghị và giải pháp

Việt Nam gặp nhiều khó khăn đối với cán cân thanh toán đó là do các yếu tố có

nguồn gốc từ cơ cấu kinh tế (chủ yếu là cơ cấu đầu tư không hiệu quả) và các điều kiện
kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế Việt Nam, tuy có nhiều chuyển
biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều mặt hạn chế như áp lực lạm phát tăng cao, sức cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam về hàng hóa xuất khẩu còn kém, mức tiết kiệm trong
nước còn rất thấp, thiếu vốn đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, nhập siêu vẫn kéo dài…
Mức thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam có thể được tài trợ bởi cán cân vốn. Tuy
nhiên, điều đó lại làm cho Việt Nam trở nên dễ phụ thuộc vào các nguồn này trong khi cần
phải dựa vào nội lực của chính mình đề phát triển bền vững. Do đó, Việt Nam cần thiết lập
được một sự cân đối bên trong lẫn bên ngoài bằng cách:
-

Tăng cường thu hút vồn đầu tư nước ngoài bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường dự trữ ngoại tệ và phục vụ cho phát triển
kinh tế.

-

Theo nhận định của nhiều chuyên gia, hiện nay Việt Nam không thể đảm bảo cân bằng cán
cân vãng lai và phải chấp nhận sự thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng vấn đề là phải duy trì
được khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai. Tức là phải duy trì khả năng
thanh toán của quốc gia.
Theo đó,Việt Nam cần nghiên cứu một số biện pháp cụ thể sau:
5.1

Hạn chế nhập khẩu

Các biện pháp để hạn nhập khẩu bao gồm: thuế nhập khẩu, cấm nhập khẩu, yêu cầu
giấy phép nhập khẩu đồng thời đặt ra nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa nhập
khẩu… Mục đích của các biện pháp này là nhằm làm giảm số lượng hoặc giá trị nhập
khẩu. Tuy nhiên, chúng chỉ có tác dụng cải thiện cán cân vãng lai trong một khoảng thời

Page 23


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

gian nhất định. Ban đầu, cán cân vãng lai nói chung và cán cân thương mại nói riêng có
thể được cải thiện. Nhưng sau đó, do nhập khẩu giảm nên người dân sẽ có xu hướng
chuyển sang tiêu dùng các loại hàng hóa trong nước dẫn đến sản lượng và thu nhập quốc
dân tăng. Điều này lại làm cho nhập khẩu tăng, và làm hạn chế việc cải thiện cán cân vãng
lai.
Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO nên các biện pháp hạn chế sẽ dần được bãi bỏ
để tăng cường hội nhập với nền kinh tế thế giới.Đó là một xu thế tất nhiên. Do đó, để vừa
đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế vừa giảm tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai,
Việt Nam cần thực hiện:
-

Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

-

Khuyến khích gia tăng sử dụng vật tư, thiết bị trong nước đã sản xuất được để tiết kiệm
ngoại tệ và phát triển hàng hóa sản xuất trong nước.

-

Thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu thay thế nhập khẩu như bông, nguyên liệu thuốc
lá, ngô, đậu tương, đa nguyên liệu… và áp dụng các công cụ thuế mới nhằm giảm kim
ngạch nhập khẩu các mặt hàng này.


-

Hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu ô tô
và linh kiện xe gắn máy.

-

Thực hiện chính sách giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có nhập
khẩu các loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị và vật liệu rẻ tiền mau hỏng mà tập trung
tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu…
Nhìn chung, hiệu quả của các biện pháp này chỉ là tạm thời. Nhưng trong tình trạng
hiện nay, đây cũng là những bước đi khả thi.
5.2

Khuyến khích xuất khẩu
Các biện pháp để khuyến khích xuất khẩu bao gồm: mở rộng thị trường xuất khẩu,

giảm và bỏ thuế xuất khẩu, xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu, cho phép mọi thành phần kinh tế
Page 24


Phân tích hệ thống cán cân thanh toán Việt Nam

tham gia vào hoạt động xuất khẩu… nhằm mục đích tăng giá trị xuất khẩu, giảm thâm hụt
cán cân thương mại và cải thiện khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai. Trong bối cảnh
hiện tại, khuyến khích xuất khẩu là biện pháp tôt nhất mà chính phủ Việt Nam có thể thực
hiện, đây cũng là chủ trương trong chiến lược phát triển của quốc gia.

-


Một số biện pháp cụ thể:
Đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật, thúc đẩy tự do hóa thương mại bằng các biện pháp
giảm bớt thuế, dần tiến tới phi thuế; hủy bỏ việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; tăng năng
suất lao động, giảm bớt chi phí sản xuất hàng hóa để tăng sức mạnh về giá; đơn giản hóa

-

thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục đầu tư, thủ tục hải quan, ngoại hối, ngân hàng…
Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
Tập trung các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất các mặt hàng phục vụ cho xuất
khẩu. Đặc biệt chú trọng những ngành hàng có khả năng tăng trưởng ổn định, sử dụng
nhiều lao động và nguyên liệu trong nước, đặt yêu cầu năng cao tiêu chuẩn chất lượng
hàng hóa lên hàng đầu, gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã

-

sản phẩm…
Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, phát triển và đa dạng hóa với những mặt hàng chủ
lực, gắn yêu cầu của thị trường đối với tường loại sản phẩm chính. Về đổi mới cơ cấu
hàng xuất, Việt Nam cần phải chuyển nhanh và mạnh sang phần lớn hàng chế biến, giảm

-

mức tối đa xuất hàng nguyên liệu và hàng sơ chế.
Mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa, đa phương hóa thị trường và đối tác, hạn chế
việc xuất khẩu một mặt hàng bị phụ thuộc vào một số thị trường, chú trọng các thị trường
có sức mua lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Nam Á.. đồng thời tìm cách
thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam ở các thị trường châu Phi, Mỹ
La tinh; tăng cường các hình thức buôn bán hàng đổi hàng…
5.3

Thu hút chuyển giao vãng lai từ nước ngoài vào Việt Nam
Do quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng nên lượng người Việt Nam sinh sống,
học tập và làm việc ngày càng tăng, đặc biệt là lao động xuất khẩu ngày càng tăng. Bên
cạnh đó, nguồn kiều hối hàng năm luôn là khoản tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai. Để
Page 25


×