Tải bản đầy đủ (.pdf) (316 trang)

biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.63 MB, 316 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO
TRUYỀN THỐNG NGƯỜI VIỆT
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ

: 5.04.33

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. CHU XUÂN DIÊN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2002


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tác giả luận án

NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ 3


T
0

T
0

MỤC LỤC ............................................................................................................ 4
T
0

T
0

DẪN LUẬN .......................................................................................................... 8
T
0

T
0

1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài ............................................................................................. 8
T
0

T
0

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................... 9
T
0


T
0

3. Giới hạn của đề tài .......................................................................................................... 15
T
0

T
0

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 16
T
0

T
0

5. Đóng góp mới của luận án .............................................................................................. 17
T
0

T
0

6.Kết cấu của luận án .......................................................................................................... 18
T
0

T

0

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA
T
0

DAO .................................................................................................................... 19
T
0

1.1. Khái niêm biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật trong ca dao ..................................... 19
T
0

T
0

1.1.1. Khái niệm biểu tượng: .......................................................................................... 19
T
0

T
0

1.1.2. Các loại biểu tượng: ............................................................................................. 24
T
0

T
0


1.1.3. Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao: .................................................................... 26
T
0

T
0

1.2.Biểu tượng ca dao nhin dưới những góc độ khác nhau: ................................................ 31
T
0

T
0

1.2.1. Biểu tượng ca dao dưới góc độ ký hiệu học: ........................................................ 31
T
0

T
0

1.2.2. Biểu tượng ca dao dưới góc độ tu từ học ............................................................. 34
T
0

T
0

1.2.2.1.Dạng thức so sánh :........................................................................................ 36

T
0

T
0

1.2.2.2.Dạng thức ẩn dụ : ........................................................................................... 37
T
0

T
0

1.2.2.3.Dạng thức hoán dụ: ........................................................................................ 38
T
0

T
0

1.2.3. Biểu tượng ca dao dưới góc độ folklore học: ....................................................... 46
T
0

T
0

1.2.4. Biểu tượng ca dao dưới góc độ văn hóa học: ....................................................... 49
T
0


T
0

1.3. Biểu tượng ca dao thể hiện đặc trưng ngôn ngữ thể loại: ............................................ 52
T
0

T
0


CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
T
0

CA DAO NGƯỜI VIỆT ................................................................................... 57
T
0

2.1. Những biểu tương xuất phát từ tín ngưỡng- nghi lễ và phong tục, tập quán của người
T
0

Việt: ..................................................................................................................................... 57
T
0

2.1.1.Biểu tượng rồng: .................................................................................................... 57
T

0

T
0

2.1.2. Biểu tượng trầu cau: ............................................................................................. 60
T
0

T
0

2.1.3 Biểu tượng đôi đũa: ............................................................................................... 64
T
0

T
0

2.1.4. Biểu tượng cây đa: ................................................................................................ 65
T
0

T
0

2.1.5. Biểu tượng vuông - tròn: ...................................................................................... 66
T
0


T
0

2.2.Những biểu tượng xuất phát từ văn học cổ Việt Nam và Trung Quốc: ........................ 67
T
0

T
0

2.2.1. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Việt Nam: ............................................ 67
T
0

T
0

2.2.2. Các biểu tượng bắt nguồn từ văn học cổ Trung Quốc:......................................... 68
T
0

T
0

2.2.2.1.Biểu tượng chỉ hồng: ..................................................................................... 71
T
0

T
0


2.2.2.2.Biểu tượng Ngưu Lang- Chức Nữ: ................................................................ 72
T
0

T
0

2.2.2.3.Biểu tượng loan – phượng: ............................................................................ 73
T
0

T
0

2.2.2.4. Biểu tượng nhạn – én: ................................................................................... 74
T
0

T
0

2.2.2.5. Biểu tượng Châu - Trần: ............................................................................ 75
T
0

T
0

T

0

T
0

2.2.2.6.Biểu tượng Tấn- Tần: .................................................................................... 75
T
0

T
0

2.2.2.7.Biểu tượng đào thơ: ....................................................................................... 75
T
0

T
0

2.2.2.9. Biểu tượng đào- mận: ................................................................................... 77
T
0

T
0

2.2.2.10. Biểu tượng trúc- mai: .................................................................................. 79
T
0


T
0

2.2.2.11. Biểu tượng rồng - mây: ............................................................................... 81
T
0

T
0

2.2.2.12. Biểu tượng chim phượng - cây ngô đồng: .................................................. 82
T
0

T
0

2.3. Những biểu tượng xuất phát từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên và đời
T
0

sống hàng ngày của nhân dân ta:......................................................................................... 83
T
0

2.3.1. Biểu tượng con cò: ............................................................................................... 84
T
0

T

0

2.3.2. Biểu tượng sông: .................................................................................................. 85
T
0

T
0


2.3.3.Biểu tượng chiếc cầu: ............................................................................................ 86
T
0

T
0

2.3.4.Biểu tượng chiếc thuyền: ....................................................................................... 87
T
0

T
0

2.3.5. Biểu tượng bến: .................................................................................................... 89
T
0

T
0


2.3.6. Biểu tượng cá: ...................................................................................................... 89
T
0

T
0

2.3.7. Biểu tượng cây, hoa, trái: ..................................................................................... 91
T
0

T
0

2.3.8. Biểu tượng trăng: .................................................................................................. 92
T
0

T
0

2.3.9. Các biểu tượng khác: ............................................................................................ 93
T
0

T
0

CHƯƠNG 3: PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ BIỂU TƯỢNG NGHÊ THUẬT

T
0

TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT.................................................................... 97
T
0

3.1.Một số vấn đề về tiêu chí phân loai và phương thức miêu tả biểu tượng nghệ thuật
T
0

trong ca dao người Việt: ...................................................................................................... 97
T
0

3.2. Phân loai và miêu tả biểu tượng nghê thuật trong ca dao người Việt: ....................... 107
T
0

T
0

3.2.1. Hệ thống 1: Biểu tượng là các hiên tượng tư nhiên và môi trường tư nhiên:..... 107
T
0

T
0

3.2.2.Các hiện tượng tự nhiên: ..................................................................................... 108

T
0

T
0

3.2.1.2. Thực vật: ..................................................................................................... 111
T
0

T
0

3.2.1.3. Động vật: .................................................................................................... 116
T
0

T
0

3.2.2. Hệ thống 2: Biểu tượng là các vật thể nhân tạo: ................................................ 118
T
0

T
0

3.2.2.1. Các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia đinh:.................................. 118
T
0


T
0

3.2.2.2. Các công cụ sản xuất: ................................................................................. 122
T
0

T
0

3.2.2.3. Các công trình kiến trúc:............................................................................. 125
T
0

T
0

3.2.3.Hệ thống 3: Biểu tượng là con người: ................................................................. 129
T
0

T
0

3.2.3.1. Các nhân vật lịch sử - văn hóa, văn học – nghệ thuật: ............................... 129
T
0

T

0

3.2.3.2. Các bộ phận trong cơ thể con người: .......................................................... 130
T
0

T
0

3.3. Một số đặc trưng của hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt: ....... 132
T
0

T
0

CHƯƠNG 4: CẤU TẠO VÀ CHỨC NĂNG CỦA BIỂU TƯỢNG NGHỆ
T
0

THUẬT TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT .................................................. 139
T
0


4.1. Cấu tạo của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt: ..................................... 139
T
0

T

0

4.1.1.Biểu tượng đơn: ................................................................................................... 139
T
0

T
0

4.1.2.Biểu tượng đôi: .................................................................................................... 139
T
0

T
0

4.1.2.1. Biểu tượng đôi tương đồng: ........................................................................ 141
T
0

T
0

4.1.2.2. Biểu tượng đôi đối lập: ............................................................................... 142
T
0

T
0


4.2. Chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt: ................................ 144
T
0

T
0

4.2.1. Biểu tượng và ngôn ngữ ca dao: ......................................................................... 145
T
0

T
0

4.2.1.1. Biểu tượng và tính hàm sức của ngôn ngữ ca dao: ..................................... 145
T
0

T
0

4.2.1.2. Biểu tượng với tính công thức và tính sáng tạo trong ngôn ngữ ca dao: .... 147
T
0

T
0

4.2.2. Biểu tượng và đề tài, chủ đề ca dao: ................................................................... 152
T

0

T
0

4.2.2.1. Góp phần triển khai các đề tài, chủ đề: ....................................................... 152
T
0

T
0

4.2.2.2. Thể hiện độc đáo các đề tài, chủ đề: ........................................................... 156
T
0

T
0

4.2.3.Biểu tượng và kết cấu, cấu tứ ca dao: .................................................................. 161
T
0

T
0

4.2.3.1. Là hạt nhân quan trọng trong kết cấu song hành tâm lý ............................. 161
T
0


T
0

4.2.3.2. Hỗ trợ đắc lực cho kết cấu đối thoại: .......................................................... 164
T
0

T
0

4.2.3.3. Thiết kế văn bản trong kết cấu "công thức truyền thông" .......................... 166
T
0

T
0

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 178
T
0

T
0

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 185
T
0

T
0


PHỤ LỤC ......................................................................................................... 199
T
0

T
0

QUI CÁCH TRÌNH BÀY ............................................................................... 199
T
0

T
0


DẪN LUẬN

Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, ca dao - dân ca là những sáng tác
được phổ biến rộng rãi và có sức sống lâu bền vào bậc nhất. Giá trị về nhiều mặt đã
đưa những câu hát dân gian này vượt qua thử thách thời gian hàng ngàn năm. Nhiều
thế hệ các nhà nghiên cứu đã đến với ca dao, phát hiện những cái hay cái đẹp, những
giá trị thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc ẩn chứa trong lớp ngôn từ giản dị mà
súc tích của các câu hát dân gian.
Nghiên cứu ca dao, nhiều người đã nhận thấy các biểu tượng nghệ thuật có vị trí
quan trọng đặc, biệt trong ngôn ngữ của thể loại này. Có thể nói, ngôn ngữ ca dao
phần lớn là ngôn ngữ biểu tượng. Có thâm nhập vào thế giới biểu tượng ca dao, chúng
ta mới hiểu được thấu đáo những nét đặc thù trong nếp cảm, nếp nghĩ, nếp diễn đạt
của người lao động, những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa dân gian Việt Nam, cũng
như mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa các nước khác trong khu

vực, đặc biệt là văn hóa Trung Hoa.
Biểu tượng nghệ thuật tồn tại trong ca dao không phải với tính chất là những yếu
tố đơn lẻ, rời rạc mà đã hình thành nên một hệ thống hoàn chỉnh với những nội dụng,
ý nghĩa, vai trò, chức năng rõ rệt. Con số 286 biểu tượng (dĩ nhiên đây chưa phải là
con số chính xác tuyệt đối, con số cuối cùng) là con số khàng nhỏ. Với tư cách là một
thành tố trong thi pháp ca dao, biểu tượng có nhiều tác động, thậm chí còn chi phối sự
hình thành cấu trúc chung của các đơn vị tác phẩm.
Do những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Biểu tượng nghệ thuật
trong ca dao truyền thống người Việt" với mong muốn bước đầu phác họa được một
cái nhin tổng quan về hệ thống biểu tượng trong thể loại trữ tình dân gian này.

1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Trên cơ sở xác định tên gọi và số lượng các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao,
chúng tôi bước đầu tiến hành việc phân loại, miêu tả và tìm hiểu hệ thống biểu tượng
đó về nhiều mặt như: các nguồn gốc và con đường hình thành biểu tượng, sự vận động
của biểu tượng trong từng chỉnh thể đơn vị hoặc nhóm đơn vị ca dao. Qua đó, góp


phần nghiên cứu sâu sắc hơn về thi pháp ca dao, đặc trưng thể loại của ca dao. Bởi lẽ,
biểu tượng là yếu tố thi pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong chỉnh thể nghệ thuật
thuộc thể loại này.
Luận án cũng cung cấp tư liệu thống kê một số lượng đáng kể các biểu tượng,
qua đó giới thiệu với người đọc nguồn thi liệu dân gian phong phú làm cơ sở cho việc
tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc dân tộc, thị hiếu thẩm mỹ dân
gian.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn được đóng góp một cách thiết
thực vào việc nghiên cứu, phân tích, giảng dạy tác phẩm ca dao ở nhà trường phổ
thông.

2. Lịch sử vấn đề

Việc nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật trong ca dao Việt Nam đã và đang là vấn
đề được nhiều người quan tủm. Ngày càng có nhiều hơn những khám phá, phát hiện
mới của các nhà nghiên cứu từ thế giới các biểu tượng. Các tín hiệu thẩm mỹ này
đang dần dần được đánh giá đúng với những giá trị vốn có của chúng. Những tiến bộ
trong lĩnh vực nghiến cứu, phê bình, lý luận văn học dân gian thời gian gần đây đã
ảnh hưởng sâu sắc đến việc giải quyết nhiều vấn đề khoa học, trong đó có vấn đề biểu
tượng ca dao.
Một trong những người đầu tiên đề cập trực tiếp đến vấn đề biểu tượng trong ca
dao là Vũ Ngọc Phan, soạn giả của bộ sách tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Ở đoạn
viết về "Một đặc điểm trong tư dụy hình tượng của nhân dân Việt Nam về cuộc đời:
đời người với đời con cò và con bống", ông cho rằng trong ca dao, người dân lao động
Việt Nam đã mượn con cò, con bống để biểu hiện đời sống của minh. Ông viết:
"Người dân lao động Việt Nam đem hình ảnh con cò và con bống vào ca dao là đưa
một nhận thức đặc biệt về một khía cạnh của cuộc đời vào văn nghệ, lấy cuộc đời của
những con vật trên đây để tượng trứng vài nét đời sống của minh, đồng thời cũng
dùng những hình ảnh ấy để khêu gợi hồn thơ" [123, tr. 79].
Các nhà nghiên cứu khi khảo sát biểu tượng thường xem chúng như là những
yếu tố truyền thống trong ca dao, trong văn học dân gian. Với cách xem xét đó, Đặng


Văn Lung đã viết bài những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, đăng trên tạp chí
Văn học năm 1968. Thuật ngữ "trùng lặp" ở đây được dùng để chỉ những nét đã định
hình, đã thành truyền thống của ca dao. Theo tác giả, trong ca dao có nhiều yếu tố
trùng lặp : hình ảnh, chủ đề, đề tài, kết cấu, ngôn ngữ... tạo nên một đặc điểm quan
trọng, một sắc thái thẩm mỹ của ca dao. Biểu tượng là một trong số những yếu tố đó
(trùng lặp về hình ảnh và ngôn từ). Ông nêu vấn đề:."Khi nghiên cứu thần thoại, anh
hùng ca và truyện cổ tích, nhiều tác giả đã lập được những hệ thống mô-tip trùng lặp
và nhờ đó mà giải quyết được nhiều vấn đề lý thú. Riêng trong lĩnh vực thơ ca dân
gian thi còn ít người-bàn tới vấn đề này. Phải chăng ta có thể bắt đầu từ những yếu tố
trùng lặp trong ca dao mà tìm hiểu được phần nào cái mà chứng ta gọi là "chất ca dao"

[118, tr.306]. Xu hướng khảo sát biểu tượng trong mối liên hệ với đặc trưng thể loại
ca dao đã được đặt ra với bài viết này.
Cùng một suy nghĩ với các nhà nghiên cứu trên, phó giáo sư Chu Xuân Diên
trong bài về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian năm 1981 cho rằng; "Việc
nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp
riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mô- tip và cách cấu
tạo cốt truyện... đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại và
cuối cùng là việc nêu lên những đặc điểm phổ thông và những đặc điểm dân tộc của
thi pháp văn học dân gian nói chung" [17, tr.22]. Ông đã đặt vấn đề nghiên cứu thi
pháp văn học dân gian một cách toàn diện ỏ nhiều cấp độ, trong đó có biểu tượng thơ
ca. Đề xuất việc làm này có nghĩa là nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của văn học dân
gian, hướng sự chú ý vào việc nghiên cứu văn học dân gian trước hết với tính chất là
những tác phẩm nghệ thuật, đồng thời khẳng định những giá trị độc đáo của thi pháp
văn học dân gian (trong so sánh với văn học viết). Như vậy, tìm hiểu biểu tượng ca
dao là công việc có ýtnghĩa quan trọng về nhiều mặt. ở một bài viết khác, ông còn nêu
cụ thể cách hiểu về biểu tượng dưới góc độ là những yếu tố cấu trúc bên trong của tác
phẩm văn học dân gian [119, tr.93].
Năm 1988, Bùi Công Hùng với bài Biểu tượng thơ ca [ 67] và Hà Công Tài với
Biểu tượng trăng trong thơ ca-dân gian [145] đã trình bày những vấn đề về khái niệm


biểu tượng nghệ thuật một cách chi tiết hơn, kết hợp với việc phân tích một số biểu
tượng tiêu biểu trong ca dao.
Năm 1991, trên tạp chí Văn hóa dân gian, Trương Thị Nhàn có bài viết về Giá trị
biểu trưng nghệ thuật của một số vật thể nhân tạo trong ca dao. Tác giả đã tìm hiểu về
ý nghĩa biểu trưng của các vật thể như : khăn, áo, chăn, chiếu, giường, đũa, mâm, bát,
con thuyền, nhà, đinh,... và kết luận : "Khả năng biểu trưng hóa nghệ thuật của các vật
thể nhân tạo trong ca dao góp phần tạo nên một nét đặc trưng rất cơ bản trong nghệ
thuật ngôn ngữ của ca dao: ngôn ngữ nghệ thuật ca dao mang tính khái quát cao, điển
hình của tính hàm súc và "ý tại ngôn ngoại" trong sáng tác văn học" [109, tr.52].

Tiếp sau đó, năm 1992, Trương Thị Nhàn lại công bố một bài viết về biểu tượng
sông trong ca dao, gợi ra mội hướng tiếp cận đối với các tín hiệu thẩm mỹ dân gian.
Tác giả cho rằng: "Là một yếu tố mang ý nghĩa thẩm mỹ, giàu sức khái quát hóa nghệ
thuật, tham gia vào hệ thống biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật ca dao, sông có giá trị
của một tín hiệu thẩm mỹ. Quan điểm hệ thống mới và cách nhin nhận có tính hệ
thống đối với ngôn ngữ nghệ thuật cho phép tìm ra giá trị của mỗi yếu tố tín hiệu ngôn
ngữ nghệ thuật, qua những mối liên hệ nội tại và ngoại tại của tác phẩm" [110, tr. 21].
Luận án phó tiến sĩ sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ - không gian
trong ca dao của Trương Thị Nhàn (năm 1995) đã ứng đụng cách tiếp cận đó để
nghiên cứu một loạt biểu tượng như núi, rừng, sông, biển, bến, ruộng đồng, vườn,
đinh, chùa, cầu, thuyền... [111].
Các công trình trên đây của Trương Thị Nhàn đã góp phần đáng kể trong lĩnh
vực nghiên cứu biểu tượng ca dao trên cả hai phương diện: lý thuyết và ứng dụng thực
hành. Mặc dù tác giả xem xét, giải quyết vấn đề chủ yếu dưới góc độ ngôn ngữ học
nhưng đã đề xuất nhiều hướng nghiên cứu biểu tượng, từ đó, có thể đào xới được
những lớp ngữ nghĩa tiềm ẩn trong mỗi biểu tượng.
Năm 1992, trong công trình nghiên cứu về thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân
Kính, một số biểu tượng đã được đề cập đến như trúc, mai, hoa nhài, con cồ, con
bống. Tác giả đã nghiên cứu các biểu tượng về nhiều mặt, đề xuất một số cách hiểu
riêng về ý nghĩa của biểu tượng (chẳng hạn về một nét nghĩa của biểu tượng con cò).
Ông còn so sánh ý nghĩa của cùng một biểu tượng trong hai bộ phận văn'học khác


nhau: văn chương bình dân và văn chương bác học. Từ đó, tác giã gợi lên một vấn đề
cần được quan tâm khi xác định nghĩa của biểu tượng : "... tuy cùng viết về một biểu
tượng nhưng dòng thơ dân gian và bác học đã miêu tả khác nhau, cấp cho nó những ý
nghĩa khác nhau" [81, tr.215].
Việc Nguyễn Xuân Kính sắp xếp phần viết về các biểu tượng thành hẳn một
chương (chương bảy) trong Thi pháp ca dao đã phần nào thể hiện được tầm quan
trọng, sự cần thiết phải nghiên cứu các biểu tượng. Sự tìm hiểu các tín hiệu thẩm mỹ,

mô-tip thơ ca này không còn là thao tác mang tính chất cảm tính, tự phát mà đã trở
thành một yêu cầu không thể thiếu khi phân tích, cảm thụ ca dao.
Bài việt công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao - dân ca trữ
tình đăng trên tạp chí Văn học năm 1997 của Bùi Mạnh Nhị là sự tiếp nối mạch
nghiên cứu về biểu tượng của những người đi trước. Theo tác giả, công thức folklore
là những kiểu mẫu ổn định, điển hình khác nhau của truyền thống. Công thức folklore
đa dạng về hình thái, dụng lượng, nội dụng, ý nghĩa. Công thức truyền thống ở ca dao
có nhiều loại, biểu tượng là một trong số đó. Trong bài viết này, tác giả đã chú trọng
đến việc khảo sát các công thức, các biểu tượng gắn liền với những đặc trưng bản chất
của văn học dân gian. Tác giả lưu ý người đọc tới tầng nền văn hóa, dân tộc học của
các công thức, sự biến hóa, đổi mới của các công thức trong những hoàn cảnh sử dụng
cụ thể. Tính truyền thống và sáng tạo thể hiện trong mỗi công thức là nguyên nhân
dẫn đến sự trường tồn và sức hấp dẫn của công thức folklore. Xét ở phương diện cấu
trúc, tác giả còn cho rằng công thức truyền thống chính là chia khóa mở bí mật đặc
trưng cấu trúc của bài ca trữ tình dân gian. Công thức có chức năng thiết kế văn bản.
Văn bản bài ca phần nhiều được xây dựng từ các công thức.
Kết thúc bài viết, tác giả còn gợi mở một hướng đi mới mẻ, đầy triển vọng cho
những công trình nghiên cứu ở tương lai : "Nếu đối với truyền thuyết, truyện cổ tích
thần kỳ, sử thi chúng ta đã bước đầu thống kê, miêu tả được những mô-tip cốt truyện,
thi đối với ca dao - dân ca trữ tình, chúng ta cũng có thể và cần thống kê, miêu tả các
mẫu đề truyền thống, cũng như các công thức chi tiết của từng mẫu đề. Có thể lập từ
điển và các chương trình vi tính khác nhau cho những vấn đề này, mã hóa hình thức,
ngữ nghĩa nghệ thuật, "cốt" văn hóa, dân tộc học của chúng. Những công trình như thế


rất cần cho folklore học, không chỉ trong việc tìm hiểu cấu tróc các bài ca mà cả trong
việc nghiên cứu các vấn đề nội dụng, ý nghĩa, đặc trưng địa phương, dân tộc và quốc
tế của folklore" [118, tr.326].
Với bài viết này, Bùi Mạnh Nhị đã góp phần đắc lực vào việc xây dựng nền
móng lý luận vững chắc cho công việc nghiên cứu biểu tượng ca dao.

Năm 1997, một luận văn tốt nghiệp đại học của sinh viên Phan Thị Bích Vân về
đề tài "Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình cổ truyền Việt Nam" do 'Bùi
Mạnh Nhị hướng dẫn cũng được hoàn thành [186]. Luận văn đã đi vào khảo sát biểu
tượng dưới nhiều góc độ ( khái niệm, phân loại, nội dụng ý nghĩa, nguồn gốc), có
nhiều lý giải khá thỏa đáng. Luận văn còn bước đầu lập bảng thống kê "Hệ thống
những biểu tượng tiêu biểu và ý nghĩa của chúng ". Tuy nhiên, do sự hạn chế về dụng
lượng của luận văn (42 trang chính văn và 24 trang phụ lục), nhiều vấn đề lý thuyết về
biển tượng đã được đặt ra nhưng giải quyết còn sơ lược.
Năm 1998, tác giả Phạm Thu Yến trong cuốn sách Những thế giới nghệ thuật ca
dao đã dành một số trang thích đáng cho "Vấn đề nghiên cứu hiểu tượng trong thơ ca
trữ tình dân gian" với ba phần :
I. Biểu tượng và ẩn dụ
II. Biểu tượng thơ ca dân gian - yếu tố nghệ thuật đặc thù gắn liền với đặc trưng
thể loại
III. Sự hình thành và phát triển của biểu tượng
So với các công trình trước, Phạm Thu Yến đã cố nhiều nỗ lực để khảo sát biểu
tượng một cách toàn diện hơn (chú ý khái niệm biểu tượng, phân biệt biểu tượng với
ẩn dụ, khẳng định việc sử dụng biểu tượng gắn liền với đặc trưng thể loại, tính đan tộc
của biểu tượng, phân loại biểu tượng, đặc điểm và ý nghĩa của việc sử dụng biểu
tượng trong thơ ca dân gian Việt Nam, sự hình thành và phát triển của biểu tượng...).
Tác giả đã vận dụng nhiều quan điểm lý luận và phương pháp nghiên cứu của các
công trình khảo sát về biểu tượng thi ca ở ngoài nước vào thực tế nghiên cứu biểu
tượng trong ca dao Việt Nam. Tuy nhiên, như tác giả đã viết : "Những điều trình bày
trên vẫn mang ý nghĩa mở, ý nghĩa đặt vấn đề chứ chưa phải là sự giải quyết triệt


để..." [196, tr.101]. Chuyên luận đã đề cập đến hàng loạt vấn đề cần được bàn luận ở
hệ thống biểu tượng ca dao, nhưng chưa đi đến những kiến giải thật cụ thể, chi tiết về
chúng.
Gần đây (năm 2001), một số biểu tượng đã được nghiên cứu khá tỉ mỉ ở bình

diện văn hóa cũng như văn học, đem lại cho người đọc nhiều hiểu biết thú vị và sâu
sắc. Đó là biểu tượng hoa hồng trong bài viết của Nguyễn Phương Châm [9], chiếc áo
trong bài viết của Nguyễn Thị Ngân Hoa [54].
Nhin chung, đây là đề tài thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học khi tìm
hiểu về thi pháp ca dao. Nhưng việc nghiên cứu biểu tượng một cách toàn diện, hệ
thống, nghiên cứu biểu tượng trong những mối quan hệ phức tạp với các thành tố khác
của thi pháp ca dao, chú ý đến sự vận động của biểu tượng trong cấu trúc bài ca... vẫn
là công việc còn đang chờ được tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh. Trong nhiều công
trình, cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đã được đặt ra, nhưng việc thực hiện vẫn còn
bỏ ngỏ. Một số biểu tượng đã được phân tích, tìm hiểu nhưng vẫn còn thiếu một cái
nhin thật sự hệ thống.
Với mục đích tiếp tục công việc nghiên cứu nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài
biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt. Bên cạnh một số thuận
lợi nhất định có được từ việc tiếp thu thành quả nghiên cứu của những công trình
trước, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn như: đối tượng nghiên cứu phức tạp, khối
lượng tư liệu phải xử lý rất lớn...
Cách đây mấy năm, chúng tôi đã một phần thực hiện đề tài này qua luận án cao
học Hình tượng trầu cau trong ca dao Việt Nam dưới sự hướng dẫn của phó giáo sư
Chu Xuân Diên. Trong luận án, chúng tôi đã dành một chương để tìm hiểu những lớp
nghĩa của biểu tượng trầu cau, vai trò của biểu tượng này trong hệ thống chủ đề và cấu
tứ ca dao. Từ việc nghiên cứu một biểu tượng mở rộng ra toàn bộ hẹ thống các biểu
tượng trong ca dao là điều không dễ dàng. Tuy vậy, chặng đường nghiên cứu đầu tiên
đó đã giúp chúng tôi có thêm được một số nhận thức và kinh nghiệm quí báu để thực
hiện đề tài này.


3. Giới hạn của đề tài
Ở luận án này, chúng tôi khảo sát chủ yếu là các biểu tượng ương ca dao truyền
thống (trước 1945), bộ phận ca dao của người Việt (không khảo sát cạ dao của các dân
tộc ít người). Cụ thể là phần khảo sát của chúng tôi được giới hạn trong các tư liệu sau

đây :
-Tư liệu I: Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng
Nhật chủ biên. Tư liệu này gồm 4 tập, được tuyển chọn từ 37 tư liệu gốc (46 tập) vừa
Hán Nôm, vừa quốc ngữ, chủ yếu tập hợp những lời ca dao ra đời từ trước Cách mạng
tháng Tám. Đây là công trình biên soạn qui mô, công phu, khoa học với số lời ca dao
đạt đến mức kỷ lục : 11.825 lời (chưa kể các dị bản).
-Tư liệu II: Kho tàng ca dao xứ Nghệ do Ninh Viết Giao chủ biên cùng với sự
cộng tác của nhiều người khác, gồm 2 tập.
-Tư liệu III: Ca dao - dẫn ca Nam bộ do Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát,
Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị biên soạn.
Tư liệu IV: Hát ví đồng bằng Hà Bắc do Mã Giang Lân, Nguyễn Đinh Bưu biên
soạn.
Việc lựa chọn bốn tư liệu này xuất phát từ nhiệm vụ của luận án: khảo sát biểu
tượng ca dao ồ cả hai bình diện dân tộc và địa phương. Tư liệu I tập hợp ca dao ở cả
ba miền đất nước, có tính cách đại diện chung để tìm hiểu biểu tượng ở tính dân tộc.
Ba tư liệu còn lại, mỗi tư liệu tập hợp ca dao của một miền đất, góp phần tô đậm thêm
sắc thái địa phương ở các biểu tượng.
Danh mục biểu tượng, các số liệu thống kê được nêu trong luận án đều là kết quả
nghiên cứu của chúng tôi với bốn tư liệu trên.
• Luân án nhằm định hình, định vị một hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca
dao đa dạng và phong phú (286 biểu tượng), cho nên chưa cố điều kiện để miêu tả kỹ
lưỡng từng biểu tượng với đầy đủ những nét nghĩa của nó. Tuy nhiên, chúng tôi cũng
cố gắng trong chừng mực có thể để người đọc tiếp cận với các biểu tượng cụ thể qua,
một số trang viết ở phần nội dụng luận án và phần phụ lục.


Số lượng các đơn vị ca dao mà chúng tôi phải xử lý là rất lớn, cơ sở để xác định
biểu tượng trên lý thuyết khá rõ ràng, nhưng đi vào thực tế lại vô cùng phức tạp, vi
vậy, việc khẳng định một sự vật, hiện tượng có phải là biểu tượng hay không cũng
không dễ dàng, thuận lợi. Chúng tôi đã cố gắng để xây dựng một bảng thống kê về hệ

thống biểu tượng nhưng có lẽ cũng khó tránh khỏi những sai sót. Những nét nghĩa của
biểu tượng mà chúng tôi xác lập được trình bấy trong luận án đều theo nguyên tắc
xuất phát từ các văn bản, lấy văn bản làm gốc, chứ không dựa vào những suy luận chủ
quan của người viết.
Trong luận án, khi chú thích địa chỉ các ví dụ, chúng tôi trình bày theo qui ước
sau: Tư liệu I: TL I; Tư liệu II: TL II; Tư liệu III: TL III; Tư liệu IV: TL IV
Kèm theo tư liệu là số tập, số trang. Ví dụ : TL II (1) - tr.59, có nghĩa là: ví dụ
này nằm ở tư liệu II, tập I, trang 59.
Để tiện theo dõi và kiểm chứng, mỗi khi dẫn các bài ca dao, chúng tôi đều ghi
kèm theo phần điạ chỉ như trên. Các tư liệu I, II, III được sử dụng để trích dẫn khá
nhiều. Còn tư liệu IV thi có hạn chế hơn do ở tư liệu này dụng lượng các bài ca dao dân ca thường rất dài, nếu dưa vào luận án nhiều chúng tôi sẽ gặp khó khăn khi xử lý
số trang viết. VI vậy, chúng tôi chỉ trích đẫn một số lượng nhỏ.

4. Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các biểu tượng nghệ thuật ca dao. Tuy
nhiên, trong đời sống, các biểu tượng này tồn tại luôn luôn gắn rất chặt với môi trường
văn hóa, văn nghệ dân gian, liên quan với rất nhiều những yếu tố về địa lý, lịch sử...
VI vậy, chúng tôi nhận thấy cần phải sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, sử
dụng thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau để có thể tìm hiểu
đầy đủ, sâu sắc hơn về biểu tượng.
Ca dao là những văn bản thơ, nên việc nghiên cứu ca dao trước hết là bằng
những cách thức của văn học thành văn. Bằng những cách thức này, luận án xác định
nội dụng và cấu trúc ngôn từ của biểu tượng trong văn cảnh ca dao. Nhưng khi tìm
hiểu sự hình thành những nội dụng và cấu trúc ngôn từ ấy không thể chỉ dựa vào
những văn bản ca dao, mà còn phải dựa vào đời sống sinh động của ca dao (tức sinh


hoạt ca hát dân gian) và nhất là vào đời sống văn hóa của những người sáng tạo và sử
dụng ca dao. Điều này yêu cầu luận án khi sử dụng phương pháp nghiên cứu văn học
(thi pháp học miêu tả), cần sử dụng phối hợp phương pháp nghiên cứu của văn hóa

học (nghiên cứu một hiện tượng văn hóa). Do vậy, trong luận án, bên cạnh những
phần phân tích biểu tượng thi ca, còn có những dữ kiện dân tộc học cần thiết để xác
định không những nội dụng nghệ thuật mà cả nội dụng văn hóa của biểu tượng trong
ca dao.
Việc sử dụng phương pháp thống kê cho phép chúng tôi tính toán được số lần
xuất hiện của các biểu tượng, qua đó, nhận biết được vị trí của biểu tượng trong thể
loại ca dao, trong tâm thức dân gian, nhận biết đâu là những biểu tượng được ưa thích
nhất, phổ biến nhất. Khi vận dụng phương pháp phân tích định lượng này, chúng tôi
rất tán thành ý kiến của Nguyễn Xuân Kính: "Kết quả của việc thống kê khách quan
cho phép nhà nghiên cứu đi đến những kết luận, những khái quát khoa học, tránh được
những suy luận chủ quan, gò ép..." [191, tr.139].
Bài viết Phương pháp hệ thống và việc nghiên cứu giảng dạy ca dao của Phan
Đăng Nhật [191, tr.142 - 162] cùng một số tài liệu khác bàn về phương pháp trên cũng
là những gợi ý quý báu để chúng tôi vận dụng trong đề tài này.
Bên cạnh đó, biểu tượng nghệ thuật là những tín hiệu thẩm mỹ tồn tại ở nhiều
loại hình nghệ thuật, nhiều bộ phận văn học, nhiều môi trường văn hóa, nhiều địa
phương, dân tộc khác nhau. VI vậy, khi nghiên cứu, chúng tôi thấy cần thiết phải sử
dụng phương pháp so sánh.

5. Đóng góp mới của luận án
Cùng với việc tiếp thu các thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
chúng tôi đã cố gắng để có được những đóng góp mới khi thực hiện đề tài này. Đó là :
Góp phần bổ sung, hoàn chỉnh thêm khái niệm biểu tượng trong ca dao.
- Xác lập một hệ thống biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.
- Phân loại và miêu tả hệ thống đó.
- Khảo sát biểu tượng về nhiều mặt: nguồn gốc hình thành, cấu lạo và chức năng.


- Bước đầu lập danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.
(Với 286 biểu tượng, mỗi biểu tượng có tần số xuất hiện và những nét nghĩa tiêu

biểu, phổ biến cùng các ví dụ và địa chỉ ví dụ).

6.Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm các phần sau đây : Phần thứ nhất (Dẫn luận), gồm :
- Mục đích, ý nghĩa của đề tài
- Lịch sử vấn đề.
- Giới hạn của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu.
-Đóng góp mới của luận án.
- Kết cấu của luận án.
Phần thứ hai (Nội dụng), gồm 4 chương :
- Chương 1 : Khái niệm về biểu tượng nghệ thuật trong ca dao.
- Chương 2 : Nguồn gốc của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người Việt.
- Chương 3 : Phân loại và miêu tả biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người
Việt.
- Chương 4 : cấu tạo và chức năng của biểu tượng nghệ thuật trong ca dao người
Việt.
Phần thứ ba (Kết luận). Để tiện theo dõi, ngoài Thư mục tham khảo, luận án còn
dành một số trang cho Phần phụ lục, bao gồm :
- Danh mục các biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt.
- Bảng thống kê tần số xuất hiện các sự vật, hiện tượng được chọn làm biểu
tượng trong ca dao (theo thứ tự từ cao xuống thấp).


CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG CA DAO
1.1. Khái niêm biểu tượng và biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
1.1.1. Khái niệm biểu tượng:
Nghiên cứu về biểu tượng là lĩnh vực đã và đang được các nhà khoa học thuộc
nhiều ngành khác nhau quan tâm đến. Thế giới các biểu tượng nói chung thực sự đã

đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tình thần của con người từ xưa đến nay ở
khắp mọi miền trên trái đất. Jean Chevalier, nhà biên soạn Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới đã nhận xét: "Nói là chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng thi vẫn còn
chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta" [71, tr.XIV]. Còn
Claude Lévi- Strauss, khi nghiên cứu nhân loại học ở các sự kiện văn hóa thi cho rằng:
''Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó
xếp ở hàng đầu là ngữ ngôn, các quy tắc hổn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật,
khoa học, tôn giáo..."[71, tr.XXIII]. Xét ra, biểu tượng đã được đánh giá đúng với
những giá trị vốn có của chúng trong đời sống con người. Các biểu tượng góp phần
làm nên bộ mặt của mội nền văn hóa ồ những đường nét cơ bản nhất. Đó là một thế
giới có sức hấp dẫn đặc biệt do nó qui tụ nhiều tính chất dường như đối lập nhau: vừa
hiển hiện, vừa. tiềm ẩn, vừa công khai, vừa bí mật, vừa bộc lộ, vừa che giấu, vừa rõ
ràng , vừa mông lung ... Sự tác động, các mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế
giới con người, những ý nghĩa hàm ẩn mà biểu tượng khơi gợi ra như một qui ước
thẩm mỹ của cộng đồng ... là những vấn đề lý thứ mà người ta vẫn mong muốn có thể
lý giải được nhờ vào những lập luận của tư dụy lôgich.
Để đi sâu vào thế giới hình ảnh có vẻ bí ẩn này, trước hết chúng ta cần tìm hiểu
khái niệm có tính chất công cụ: biểu tượng là gi?
Trong tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình ảnh, hình dạng. Biểu
tượng là một hình ảnh cụ thể nào đó được phô bày ra nhằm thể hiện một ý nghĩa trừu
tượng.


Thuật ngữ chỉ biểu tượng trong tiếng Anh: symbol, tiếng Pháp: symbole đều có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: symbolon (có nghĩa là: ký hiệu, dấu hiệu để nhận ra nhau
là một).
Thời xa xưa, khái niệm biểu tượng được dùng để chỉ một vật được, cắt làm đôi
như: mảnh sứ, gỗ, kim loại ... Hai người (chủ - khách, người cho vay - người vay, hai
kẻ hành hương, hai người sắp chia tay lâu dài ...) mỗi bên giữ một phần. Sau này, ráp
hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối dây liên hệ ngày trước, ở người Hy Lạp thời

cổ đại, biểu tượng còn là những dấu hiệu để cha mẹ nhận ra con cái bị lưu lạc. Bằng
cách hiểu như thế, dần dần, biểu tượng được mở rộng nghĩa, dùng để chỉ các tấm thẻ,
cầm chúng thi có thể lãnh lương, phụ cấp hay thực phẩm, chỉ mọi dấu hiệu tập họp,
chỉ các qui ước... Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa đựng hai ý tưởng
phân ly và tái hợp, nó gợi lên ý một cộng đồng, một quan hệ tình cảm đã bị chia tách
và có thể tái hình thành: "Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ: ý nghĩa
của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là nối kết những phần của nó đa
bị vỡ ra" [71, tr.XXIII]. Cách hiểu này về biểu tượng có thể tìm thấy trong văn học cổ
Trung Quốc khá nhiều. Biểu tượng được hiểu như là một vật làm tin, một dấu hiệu để
nhận ra nhau. Từ điển văn liệu của Long Điền Nguyễn Văn Minh có chép một câu
chuyện về mảnh gương - khá tiêu biểu cho cách hiểu về biểu tượng như đã nói trên:
"Nguyên về đời Xuân Hiu bên Trung Quốc, Lạc Dương công chúa cùng chồng chạy
loạn, lúc biệt nhau, đập tấm gương soi làm hai mảnh, mỗi người giữ một mảnh, dặn
nhau cứ ngày thượng nguyên (rằm tháng giêng) đem gương vỡ ra chợ để rao bán, nếu
hợp hai mảnh lại mà in như tấm gương thi được gặp nhau.
Đời sau thường dùng điển cố đó để nói lúc phân ly của hai vợ chồng hay hai
tình nhân" [99, tr.285]. Ở đây, chiếc gương là sự vật có chức năng thay thế. Gương
vỡ: sự chia ly, gương lành: sự tái hợp. Hai mảnh gương vỡ (vật chất) chỉ sự chia cắt
(tình thần), đồng thời dự báo trước một tương lai sẽ được đoàn tụ (tình thần). Chiếc
gương là biểu tượng, là một dạng thức dùng cái này để nói cái kia, dùng cái hiện hữu
để nói cái vô hình.
Nhà từ điển Pháp André Lalande định nghĩa: "Biểu tượng là cái biểu hiện một
cái gi khác căn cứ vào một tương ứng loại suy" [14, tr.78], còn từ điển Petit Larousse,


1981 thi cho rằng: "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh bằng con vật sống động hay
bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh của một sự hay một điều
gi đó" [14, tr.78].
Theo Đoàn Văn Chúc, biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tĩnh cũng
như động (tĩnh: dáng vẻ một ngôi chùa, một pho tượng, một bức tranh; động: một điệu

múa, một cảnh kịch, một đám rước, một chuỗi hành động trong điện ảnh...), tác động
đến tai và mắt, gây ra trong tâm hồn người những lung động khoái trá về chúng, tất
nhiên với các khía cạnh và mức độ khác nhau. Cũng theo ông, để tri giác cái bất khả
tri giác, người ta dùng một vật môi giới, gọi là biểu tượng. Nói cách khác, biểu tượng
là ngôn ngữ của cái bất khả tri giác (không trông thấy, không nghe thấy, không sờ mó
thấy...) [14,tr.66].
Nói tóm lại, biểu tượng là những dạng thức dùng hình này để tỏ nghĩa nọ, dùng
một hình ảnh cụ thể để nói lên một ý niệm trừu tượng. Một sự vật, hiện tượng khi
được chọn làm biểu tượng có khả năng biểu hiện tình tế những ý niệm của con người
về cuộc sống, xã hội, thế giới (có khi những ý niệm này đã ăn sâu trong tiềm thức, vô
thức, tâm thức). Giữa sự vật, hiện tượng và những ý nghĩa mà nó hàm chứa (đước góc
độ biểu tượng) không phải ỉà sự đồng nhất, mà là một sự tương ứng có thể xảy ra ở
nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau, làm nên sự đa nghĩa, đa trị của biểu tượng.
Một đặc điểm nổi bật của biểu tượng là tính qui ước. Tính chất này được thể
hiện ở nhiều mức độ tùy từng loại biểu tượng cụ thể. Từ thấp đến cao, có thể kể đến
tính qui ước trong biểu tượng mang màu sắc cá nhân, rồi đến các biểu tượng của một
nhóm người, một địa phương, một dân tộc, một khu vực, và cuối cùng là biểu tượng
có tính quốc tế. Có khi người ta nói đến biểu tượng trong các sáng tác của một nhà
văn, nhà thơ, nhà họa sĩ ... Các nhà nghệ sĩ này thường xuyên sử dụng trong sáng tác
của minh một số hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng theo cách nhin của tác giả. Công
chúng nhiều lần tiếp xúc với các cổng trình nghệ thuật đó, dần dà quen thuộc với các
hình ảnh và nhận ra những ý nghĩa thẩm mỹ nhất định làm cho tác phẩm có sức sống
lâu bền. Đó là trường hợp xuất hiện các biểu tượng của riêng một tác giả. Tính quy
ước ở đây được bộc lộ ở cấp độ thấp (quy ước của một cá nhân). Nhưng phổ biến hơn
cả là những biểu tượng mang tính cộng đồng (cấp độ cao - quy ước của rất nhiều cá


nhân). Sự vật, hiện tượng nào đó sở dĩ trở thành biểu tượng là do một cộng đồng
người nhất định quy ước sử dụng nó. Biểu tượng chỉ có thể tồn tại và hoạt động, phát
huy tác dụng khi nó được hiểu, được thừa nhận. Nó phải có những ý nghĩa ổn định

tương đối nào đó, trong những thời kỳ lịch sử nhất định, những hệ thống tác phẩm
nhất định ... Nếu ý nghĩa của sự vật, hiện tượng gợi ra luôn luôn biến đổi, nó sẽ tự phủ
nhận giá trị biểu tượng của chính bản thân.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, biểu tượng là dấu hiệu được bày ra bên ngoài để
nhận biết sự sở thuộc cộng đồng, hay nói cách khác, biểu tượng thể hiện rất rõ tính
cộng đồng. Chỉ những hình ảnh (con vật, đồ vật ...) được cộng đồng chấp nhận, cùng
ngầm thỏa thuận thống nhất với- nhau là nó chỉ ra một nghĩa nào đó ở bên ngoài nó,
thi mới có thể trở thành biểu tượng. Và thường thi những hình ảnh này đã trải qua sự
thử thách khắc nghiệt của thời gian, không gian. Nó dần dần được định hình và củng
cố ngày một chắc chắn hơn trong tâm thức dân tộc qua quá trình sử dụng.
Cũng vi biểu tượng mang đậm tính cộng đồng, tính xã hội nên các sự vật, hiện
tượng giống nhau ở các dân tộc không phải bao giờ cũng chứa đựng những ý nghĩa
biểu tượng trùng khớp lên nhau. Chẳng hạn, đối với người Hinđu, thấm nhuần tư
tưởng đạo Vệ - Đà, con bò cái mang một ý nghĩa tình thần khác hẳn đối với người
nuôi bò xứ Normandie. Đối với những người dận lao động Nga, trong thi ca dân gian,
chim thiên nga, con tu hú mang những ý nghĩa tượng.trưng sâu sắc mà ở các dân tộc
khác lại không có. Biểu tượng có khả năng lớn lao trong việc tạo nên sự hòa hợp, hòa
nhập giữa những con người trong cùng một cộng đồng. Qua đó, người ta có thể cảm
thông và đoàn kết với nhau hơn. Biểu tượng có sức mạnh liên kết mọi người lại với
nhau vi nó là trung tâm của những quan niệm và tư tưởng chung, từ đó, mọi người
nhận ra minh thuộc về một cộng đồng: "Mỗi nhóm người, mỗi thời đại có những biểu
tượng của minh: rang động trước cái biểu tượng đó, tức là tham gia vào nhóm người
và thời đại ấy. Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết, xã hội thiếu biểu tượng
là xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng' thi sẽ chết; nó chỉ còn
thuộc về lịch sử" [71,tr.XXXIII].


Đương nhiên, chúng ta cũng không loại trừ trường hợp một số các biểu tượng đã
đạt đến tầm vóc quốc tế toàn thể nhân loại đều công nhận chúng mang một nghĩa
tượng trưng chung nào đó (ví dụ: hoa: người con gái; chim bồ câu: hòa bình ...).

Để hiểu rõ hơn về biểu tượng, bên cạnh việc tìm hiểu thuật ngữ, chúng ta cũng
cần phân biệt nó với một số từ ngữ có liên hệ gần gũi.
Từ "symbol" trong tiếng Anh khi được dịch sang tiếng Việt có khi là "biểu
trưng", có khi là "biểu tượng", cách dùng, cách hiểu chưa có sự thống nhất giữa các
nhà nghiên cứu và dịch thuật.
Theo Đoàn Văn Chúc: "Trong trường hợp biểu trưng, người ta nhận thấy các vật
được chọn làm hình ảnh tự thân chúng có ý nghĩa gần gũi hay có khi chồng khớp với
giá trị được diễn đạt, mà người ta có thể lĩnh hội bằng một sự tương ứng loại suy
tương đối dễ dàng, trực tiếp ... Trong khi ấy, sự lĩnh hội ý nghĩa (tức giá trị) của biểu
tượng là gãy khúc và phức tạp hơn nhiều ..." [14, tr.78].
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, các tác giả cũng quan niệm biểu
tượng khác với biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, loại suy, triệu chứng, ngụ ngôn luân lý
... Tất cả những lối diễn đạt bằng hình ảnh này đều là những dấu hiệu và không vượt
quá mức độ của sự biểu nghĩa, mà: "Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu, ở chỗ dấu
hiệu là một qui ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt vẫn xa lạ với
nhau, trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu
đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức" [71, tr.XIX]. Mối quan hệ, sự tương hợp,
sự thâm nhập sâu xa giữa ý tưởng và hình thức ở biểu tượng khiến cho ý nghĩa cua
biểu tượng trở nên rộng lớn, sâu sắc hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân
tạo. Nó có một sức vang cối yểu và tự sinh.
Nói tóm lại, sự khác nhau giữa biểu tượng và các khái niệm tương cận chủ yếu là
ở sự phức tạp trong lĩnh hội các ý nghĩa do biểu tượng khơi gợi ra. Nghĩa của biểu
tượng không phải bao giờ cũng tách bạch, rõ ràng. Có những lúc chúng ẩn sâu vào
bên trong, đòi hỏi ở trí não con người một nguồn năng lực lớn lao để khám phá, tìm
tòi. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: "Nghĩa của tượng trưng không thể đem giải
mã bằng nỗ lực suy lý bởi vi nó đa nghĩa, cấu trúc nghĩa hàm của tượng trưng là đa


tầng và nó dự tính đến sự ký thác của người tiếp nhận" [44, tr.320] (khái niệm "tượng
trưng" ở đây được hiểu như "biểu tượng").

Tuy nhiên, đó cũng chỉ là sự phân biệt đứng về mặt lý thuyết. Sự cảm nhận, lĩnh
hội ý nghĩa do các hình ảnh gợi ra tùy vào sự hiểu biết, tùy vào năng lực, trí lực, thiên
hướng của mỗi cá nhân, khó xác định được đó là con đường đơn giản hay phức tạp.
VI vậy, trong thực tế, nhiều trường hợp biểu tượng và biểu trưng được dùng gần như
đồng nghĩa với nhau:

1.1.2. Các loại biểu tượng:
Trong đời sống, các biểu tượng không tồn tại một cách chung chung mà luôn
phụ thuộc vào một lĩnh vực xác định nào đó, dẫn đến sự hình thành nên nhiều loại
biểu tượng: biểu tượng toán học, khoa học, tôn giáo, văn hóa, triết học, nghệ thuật
v.v... Mỗi lĩnh vực có một hệ thống biểu tượng riêng. Một sự vật, hiện tượng có thể
trở thành biểu tượng của nhiều lĩnh vực khác nhau với những nội dụng ý nghĩa khác
nhau. Cùng là hoa sen, nhưng giá trị của biểu tượng này xét về mặt tôn giáo và nghệ
thuật là không trùng lắp, cùng là con rồng nhưng trong lĩnh vực chính trị và nghệ thuật
chúng có những ý nghĩa không giống nhau. Có khi những nội dụng của biểu tượng ở
các lĩnh vực có liên quan xa gần với nhau, những không đồng nhất. VI vậy, khi xác
định nghĩa của một biểu tượng, luôn luôn phải đặt nó trong những mối tương quan với
một lĩnh vực cụ thể.
Các biểu tượng toán học, khoa học là những ký hiệu mà dụng tải qui ước đã
được các Viện tiêu chuẩn hóa xác định chặt chẽ. Ở đây, nghĩa của biểu tượng được chỉ
ra hết sức rõ ràng, rành mạch. Biểu tượng mất đi khả năng khơi gợi, mời gọi tâm trí
con người đi đến những miền đất mới của nhận thức, của cảm xúc. Các nhà nghiên
cứu đã cho rằng: "Không thể có các khoa học chính xác phát biểu bằng biểu tượng,
theo đúng nghĩa của từ này" [71, tr.XIX].
Một số các công thức giáo lý cũng được gọi là các biểu tượng của đức tin, đó là
những tuyên bố trịnh trọng trong lúc thờ cúng, qua đó, những người đã thụ giáo theo,
một đức tin, một nghi lễ, một hội tôn giáo có thể nhận ra nhau. Cũng như loại biểu
tượng đã nêu ở trên, các công thức này mới chỉ là những dấu hiệu chỉ ra các ý nghĩa



đã quá quen thuộc, không chất chứa nguồn năng lực làm trí óc phải hoạt động, không
khơi dậy cho con người sự bức xúc phải tìm tòi, khao khát để hiểu biết về chúng.
Biểu tượng, hiểu theo nghĩa triết học, được Ru-đích định nghĩa như sau: "Biểu
tượng là những hình ảnh cụ thể của vật thể và hiện tượng của thế giới bên ngoài và
của các tính chất của chứng xuất hiện trong ý thức con người mà không có sự trực tiếp
tác động của kích thích bên ngoài lên các cơ quan cảm thụ con người đó. Cơ sở của
biểu tượng là:
- Hình ảnh vật thể, hiện tượng nằm trong ý thức
- Biểu tượng kém rõ ràng, rành mạch hơn tri giác
- Biểu tượng có tính biến dị
- Biểu tượng là hình ảnh có tính chất tổng quát hơn vật thể so với tri giác.
Theo cách hiểu này, biểu tượng cây sồi, cây bạch dương rộng hơn, khái quát hơn
cây sồi cụ thể, cây bạch dương cụ thể".[67, tr.70].
Từ điển triết học do các nhà triết học Liên Xô biên soạn đã định nghĩa biểu
tượng là: "Hình ảnh cảm tính, cụ thể về những hiện tượng của thế giới bên ngoài. Biểu
tượng cùng với cảm giác và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính hay theo thuật ngữ của
Páp-lốp, tạo nên hệ thống tín hiệu thứ nhất của hiện thực" [67, tr.71].
Như vậy, hiểu theo triết học, tất cả các sự vật trong thế giới khách quan, khi
được con người tiếp nhận, đều sẽ trở thành biểu tượng. Thế giới khách quan có bao
nhiêu sự vật, hiện tượng thi cũng có bấy nhiêu biểu tượng được hình thành trong nhận
thức của con người. Ở đây, biểu tượng không chỉ ra một nghĩa nào khác ở bên ngoài
nó. Mỗi con người có một thế giới biểu tượng của riêng minh tùy thuộc vào sự trải
nghiệm trong cuộc sống, sự tiếp xúc với thế giới chung quanh.
Các biểu tượng nghệ thuật được tạo nên từ nhiều loại hình khác nhau: hội họa,
điêu khắc, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh, văn học ... Điều này cũng có nghĩa là biểu
tượng có thể được hình thành bởi những chất liệu khác nhau: màu sắc, đường nét,
hình khối, động tác, điệu bộ, ngôn ngữ ... của con người. Biểu tượng nghệ thuật tuân
theo qui luật của cái đẹp, thể hiện được cái chân, thiện, mỹ, đem lại những rung động
thẩm mỹ cho con người. Nguyễn Xuân Kính đã nêu một định nghĩa về biểu tượng



×