Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

yếu tố ngẫu nhiên trong tiểu thuyết triệu phú khu ổ chuột của vikas swarup

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.78 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
______________________

Trương Văn Tuấn

YẾU TỐ NGẪU NHIÊN

TRONG TIỂU THUYẾT TRIỆU PHÚ KHU Ổ CHUỘT
CỦA VIKAS SWARUP

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________

Trương Văn Tuấn

YẾU TỐ NGẪU NHIÊN

TRONG TIỂU THUYẾT TRIỆU PHÚ KHU Ổ CHUỘT
CỦA VIKAS SWARUP

Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số
: 60 22 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn Thị
Bích Thúy. Những kiến thức và tài liệu mà cô cung cấp đã rất hữu ích cho
bản thân tôi trong khi thực hiện đề tài. Xin gửi đến cô lời cảm ơn chân thành
nhất! Đồng thời, tôi cũng tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2012
Người thực hiện
Trương Văn Tuấn


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................. 3
MỤC LỤC ........................................................................................ 4
MỞ ĐẦU ........................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 6
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 9
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn..................................................................... 10
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 10


Chương 1: Yếu tố ngẫu nhiên - Những vấn đề khái quát ......... 12
1.1. Yếu tố ngẫu nhiên trong đời sống văn hóa, tâm linh ............................... 12
1.1.1. Luận giải của khoa học tâm linh .................................................................12
1.1.2. Luận giải của triết học Duy vật...................................................................15
1.1.3. Tôn giáo Ấn Độ và yếu tố ngẫu nhiên .......................................................18

1.2. Tác giả - tác phẩm .................................................................................... 20
1.2.1. Vikas Swarup - Nhà ngoại giao và nhà văn ................................................20
1.2.2. Tác phẩm.....................................................................................................21

1.3. Yếu tố ngẫu nhiên trong văn học và tài năng người nghệ sĩ.................... 27
Tiểu kết chương I .......................................................................................... 33

Chương 2: Yếu tố ngẫu nhiên qua tình tiết cốt truyện .............. 35
2.1. Khái niệm tình tiết và cốt truyện .............................................................. 35
2.1.1. Tình tiết và tình tiết ngẫu nhiên ..................................................................35
2.1.2. Cốt truyện và cốt truyện ngẫu nhiên ...........................................................36

2.2. Các kiểu tình tiết ngẫu nhiên.................................................................... 37
2.2.1. Ngẫu nhiên gặp gỡ và gặp lại .....................................................................37
2.2.2. Giấc mơ và ảo giác .....................................................................................44
2.2.3. Ngẫu nhiên đánh mất và chạy trốn .............................................................48
2.2.4. Ngẫu nhiên nhận biết, khám phá ................................................................52


2.2.5. Ngẫu nhiên trùng hợp .................................................................................55
2.2.6. Ngẫu nhiên cản trở và ngẫu nhiên hạnh phúc .............................................58

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 61


Chương 3: Yếu tố ngẫu nhiên qua hệ thống nhân vật .............. 62
3.1. Nhân vật văn học ...................................................................................... 62
3.1.1. Khái niệm nhân vật văn học .......................................................................62
3.1.2. Nhân vật và quan hệ xã hội.........................................................................63

3.2. Hệ thống nhân vật và yếu tố ngẫu nhiên .................................................. 67
3.2.1. Phương thức miêu tả ngẫu nhiên ................................................................67
3.2.2. Thế giới nhân vật và sự sắp xếp ngẫu nhiên ...............................................73
3.2.3. Thê giới nhân vật - một xã hội Ấn Độ thu nhỏ ...........................................84

Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 87

KẾT LUẬN .................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................... 91


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong Thần thoại Visnu Purana, người Ấn đã tự nói về dân tộc mình
thông qua mấy vần thơ cổ:
“Xứ sở nằm phía Bắc đại dương
Và Nam dãy núi phủ tuyết
Có tên gọi là Bharata
Con cháu của Bharata sống ở đấy”.
Phía Bắc là dãy Hymalaya hùng vĩ chắn ngang, phía Nam biển rộng bao
quanh, những đường ranh tự nhiên rạch ròi ấy đã kiến tạo một Ấn Độ có diện
mạo địa lí đặc trưng. Xứ sở của tăng lữ và vũ nữ này đã trải qua mấy nghìn năm
tôi luyện và hòa hợp, kết tụ và phát triển. Ấn Độ dẫu lúc trầm lắng hay ồn ào, lúc
đau thương hay yên bình, vẫn mãi không thôi chuyển mình thay da lột xác.
Ấn Độ trở thành đối tượng nghiên cứu đầy cuốn hút, đặc biệt nhất là trên

hai bình diện văn hóa và văn học. Khi nghiên cứu về văn học đương đại Ấn Độ,
chúng tôi chọn đề tài Yếu tố ngẫu nhiên trong tiểu thuyết Triệu phú khu ổ
chuột của Vikas Swasrup, với những lí do như sau:
1.1. Ấn Độ thật sự là một quốc gia kì vĩ, huyền bí, cuốn hút và tràn đầy
sức sống trong cộng đồng nhân loại. Văn học Ấn Độ trường tồn hơn ba nghìn
năm lịch sử và tiếp nối nhau với những đỉnh cao chói lọi, từ văn học Veda đến
Rabinranath Tagore với giải Nobel. Những thành tựu rực rỡ này là nền móng
vững chắc cho văn học đương đại Ấn Độ.
1.2. Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu văn học Ấn Độ tập trung
chủ yếu từ Cổ đại (bắt đầu từ một ngàn năm trước Công Nguyên) đến Hiện đại
(chúng tôi chọn mốc thời gian là nửa đầu thế kỉ XX) và bị ngắt quãng ở văn học
đương đại. Trong khi đó, Văn học Ấn Độ đương đại đang thật sự phát triển mạnh
mẽ với những tác giả trẻ danh tiếng như: Raja Rao, R. K. Narayan, Anita Desai,
Nayantara Sahgal, Sasthi Brata, Bharati Mukherjee, Salman Rushdie. Đáng kể


nhất là Arundhati Roy, Kiran Desai, Jhumpa Lahiri, Vikas Swasrup, Aravind
Adiga - những người tiên phong đưa văn học Ấn ra thế giới. Những tác phẩm
của dòng văn học Ấn Độ đương đại đã đoạt nhiều giải thưởng danh giá như giải
Pulitzer, Man Booker, Bestseller... Trong tiến trình tiếp nhận văn học Ấn Độ ở
Việt Nam, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu Văn học Ấn Độ đương đại là
một hoạt động khoa học cần thiết và có tính tiếp nối.
1.3. Tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột (tựa gốc: Q&A) là tác phẩm đầu
tay của Vikas Swasrup, tác giả văn học đương đại Ấn Độ. Tác phẩm đã giành
giải thưởng Prix Grand Public tại hội chợ sách Paris năm 2007; được bình chọn
cho giải sách đầu tay hay nhất của Commonwealth Writers Prize (giải thưởng
dành cho các tác giả) và còn được bình chọn là cuốn sách ảnh hưởng nhất năm
2008 tại Đài Loan. Năm 2009, Triệu phú khu ổ chuột tiếp tục giành giải thưởng
Heathrow Travel Product Awards cho Cuốn sách du lịch xuất sắc nhất. Cuốn
sách đã được dịch ra 42 thứ tiếng, được Observer đánh giá là: “Một tiểu thuyết

chói sáng, vĩ đại, rung động và hỗn loạn như chính nước Ấn Độ vậy”. Tiểu
thuyết này chính là tiền đề cho bộ phim Slumdog Millionaire, đạo diễn Danny
Boyle, giành được tám giải Oscar năm 2009. Khi xuất bản tại Việt Nam, Triệu
phú khu ổ chuột đã được độc giả chào đón và khen ngợi. Những thành công về
nghệ thuật, đặc biệt là cách khai thác yếu tố ngẫu nhiên đã góp phần tạo nên
tiếng vang của tác phẩm này.

2. Lịch sử vấn đề
Trong khả năng tiếp cận và khảo sát các nguồn, cổng thông tin, chúng tôi
nhận thấy có những đánh giá nghiên cứu sau đây:
2.1. Tại Ấn Độ và các nước khác, năm 2005, sau khi tác phẩm được xuất
bản, trang web tiếng Anh www.vikasswasrup.net được ra đời. Trang web này
giới thiệu đôi nét về tác giả và hai tác phẩm đã xuất bản của ông: Triệu phú khu
ổ chuột và Sáu nghi can.


Trang web này đồng thời tải lên những bài viết về tiểu thuyết Triệu phú
khu ổ chuột của các tờ báo như: Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô! của Suhel Seth
trên The Financial Express; Ai sẽ đọc một cuốn sách đang ầm ĩ? của Indrajit
Hazra trên Hindustan Times January; Giá trị của tiền của Gayatri Rajwade trên
The Sunday Tribune… Những bài viết này nhìn chung chỉ là những cảm nghĩ,
nhận xét ngắn gọn về tác phẩm, dung lượng bài viết khi dịch sang tiếng Việt chỉ
khoảng 500 chữ.
2.2. Tại Việt Nam, năm 2009, tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột được
xuất bản - người dịch Nguyễn Bích Lan, công ty văn hóa & truyền thông Nhã
Nam và Nhà xuất bản Văn Học kết hợp ấn hành. Báo chí Việt Nam (báo Lao
Động, báo Đất Việt, trang vinabook.com, trang vnexpress.net…) bắt đầu có
những bài viết giới thiệu về tiểu thuyết này. Nội dung các bài viết hầu hết là tóm
tắt sơ lược nội dung tác phẩm.
Nhà văn Hồ Anh Thái, trên báo Tuổi Trẻ tháng 10 năm 2009 đã có bài

viết: Triệu phú khu ổ chuột: Truyện và phim xứng đôi. Trong bài viết này, tác giả
đặt vấn đề so sánh về những cái hay riêng và chung mà Vikas Swasrup và đạo
diễn Danny Boyle đã làm được ở tác phẩm của mình.
Khóa luận tốt nghiệp, tên đề tài: Giá trị hiện thực và nhân đạo trong tiểu
thuyết Triệu phú khu ổ chuột của Vikas Swasrup của Nguyễn Thị Say, nghiên
cứu cấp độ cử nhân, đã tiếp cận tác phẩm từ góc độ nội dung: vấn đề hiện thực
và nhân đạo.
Điểm qua những bài viết và nghiên cứu nêu trên, chúng tôi nhận thấy việc
nghiên cứu tác phẩm từ góc độ tiếp cận những yếu tố ngẫu nhiên, một biểu hiện
nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm, là hướng nghiên cứu chưa được tiến hành.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Chúng tôi tập trung nghiên cứu những yếu tố ngẫu nhiên một bình diện nghệ thuật độc đáo của văn hóa, văn học Ấn Độ được thể hiện
trong tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột.


- Phạm vi: Tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột của Vikas Swarup. Đồng
thời, chúng tôi khảo sát, so sánh với các tiểu thuyết Ấn Độ đương đại khác như:
Chúa trời của những chuyện vụn vặt của Arundhati Roy; Cọp trắng của
Aravind Adiga và Di sản của mất mát của Kiran Desai.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
sau:
4.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Đây là phương pháp đầu tiên và quan trọng không thể thiếu khi tiến hành
nghiên cứu đề tài này. Chúng tôi sẽ khảo sát, thống kê yếu tố ngẫu nhiên trong
tác phẩm, sau đó là tổng hợp, phân loại theo hướng nghiên cứu.
4.2. Phương pháp phân tích - miêu tả
Trên cơ cở của việc thống kê phân loại, chúng tôi sẽ phân tích, miêu tả

yếu tố ngẫu nhiên theo từng nhóm cụ thể về phương diện giá trị nghệ thuật và
nội dung.
4.3. Phương pháp thi pháp học
Yếu tố ngẫu nhiên nhìn từ góc độ sáng tạo của nhà văn thì đó là một thành
công về nghệ thuật. Chúng tôi vận dụng phương pháp này để làm rõ những vấn
đề gắn với yếu tố ngẫu nhiên như: chi tiết nghệ thuật, nhân vật, cốt truyện…
4.4. Phương pháp văn hóa học
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ nhìn yếu tố ngẫu nhiên dưới góc
độ văn hóa tâm linh, đặc biệt là văn hóa Ấn Độ.
4.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu.


Tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột sẽ được so sánh đối chiếu với các tác
phẩm khác của văn học Ấn Độ đương đại; liên hệ so sánh với bộ phim cùng tên
được chuyển thể từ tiểu thuyết này.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Luận văn kế thừa, phát huy và góp phần định hình những phương pháp
nghiên cứu văn học từ bình diện nghệ thuật.
- Chúng tôi mong rằng luận văn này sẽ mở thông việc thưởng thức,
nghiên cứu tác phẩm văn học Ấn Độ đương đại, thúc đẩy tiến trình giao lưu văn
hóa giữa Việt Nam với Ấn Độ và các dân tộc trên thế giới.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương, như sau:
Chương 1: Yếu tố ngẫu nhiên - Những vấn đề khái quát
Ở chương này chúng tôi có bước nhìn và hiểu khái quát nhất về yếu tố
ngẫu nhiên trong văn hóa tâm linh, văn học nghệ thuật và tồn tại như một tất yếu
trong đời sống. Trong triết học Mác - Lênin, cái ngẫu nhiên được nghiên cứu
cùng với cái tất nhiên. Trong Phật giáo Ấn Độ, yếu tố ngẫu nhiên đã được khái

quát lên thành những tri thức tâm linh có tính hệ thống như: duyên kiếp, nghiệp
báo, luân hồi… Trong văn học, cách thức xử lý, xếp đặt yếu tố ngẫu nhiên thuộc
nghệ thuật cấu trúc sự kiện. Yếu tố ngẫu nhiên tạo nên sự vận động logic của
mạch chuyện, góp phần soi sáng tâm lý, số phận nhân vật. Yếu tố ngẫu nhiên,
xét trên phương diện tư duy nghệ thuật, thuộc về cái đã được nhận thức, lựa chọn
kĩ lưỡng, chứ không phải tùy tiện, tùy hứng. Ở chương này chúng tôi muốn nhấn
mạnh vấn đề: yếu tố ngẫu nhiên trong tác phẩm văn học thể hiện được tài năng
sáng tạo, nhân sinh quan và thế giới quan người nghệ sĩ. Đây sẽ là cơ sở và định
hướng cho việc phát triển vấn đề ở chương tiếp theo.
Chương 2: Yếu tố ngẫu nhiên qua tình tiết cốt truyện


Ở chương này, chúng tôi sẽ nghiên những vấn đề sau: khái niệm về tình
tiết, tình tiết ngẫu nhiên, cốt truyện ngẫu nhiên; quan hệ tương tác giữa tình tiết
ngẫu nhiên và cốt truyện ngẫu nhiên; khảo sát các kiểu tình tiết ngẫu nhiên; thẩm
bình về thế giới quan - góc nhìn hiện thực của tác giả qua hệ thống tình tiết ngẫu
nhiên.
Chương 3: Yếu tố ngẫu nhiên qua hệ thống nhân vật
Ở chương này chúng tôi sẽ triển khai những nội dung sau: khái niệm về
nhân vật, nhân vật và quan hệ xã hội; khảo sát yếu tố ngẫu nhiên thông qua hệ
thống nhân vật; đồng thời tiếp cận, thẩm bình về mối quan hệ xã hội và nhân
sinh quan thể hiện qua hệ thống nhân vật.


Chương 1: Yếu tố ngẫu nhiên - Những vấn đề khái quát
Từ ngẫu nhiên xuất hiện rất phổ biến trong ngôn ngữ đời thường và là một
thuật ngữ khoa học. Ngẫu nhiên, trong tiếng Anh và tiếng Pháp có cách viết
giống nhau: Random, nhưng khác nhau về cách phát âm. Trong tiếng Nga, ngẫu
nhiên được viết là Случайные.
Trong đời sống hằng ngày, ta thường xuyên đón nhận những sự việc xảy

ra rất bất ngờ, tình cờ, không được báo hiệu hay thông tin trước. Vua nước Ý,
Umberto Đệ Nhất (1844-1900) và chủ một quán rượu ở thành phố Monza đã có
những điểm giống nhau đến kì lạ: Sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm; giống
hệt nhau về tên gọi và vóc dáng; tổ chức lễ cưới cùng ngày; tên vợ và tên con trai
đầu đều giống nhau; được nhận huy chương và thăng chức cùng ngày; mất cùng
ngày do hai tên sát thủ lạ mặt bắn ba phát đạn như nhau. Năm 2010, Rùa hồ
Gươm đã liên tục nổi lên vào ngày đại lễ 1000 năm Thăng Long. Hay trong đời
sống thường nhật, ta vẫn gặp phải những việc: thang máy mất điện khi ta đang
vội; trời đổ mưa lúc tan ca; xe hư khi đang đến cuộc hẹn… Những điều bất ngờ,
tình cờ ấy thường được nhận định, giải thích khái quát: Chuyện ngẫu nhiên.
Đồng thời, yếu tố ngẫu nhiên, tính ngẫu nhiên, việc ngẫu nhiên,… đã dần
trở thành một lĩnh vực nghiên cứu thú vị và đòi hỏi cao về tính lý luận lẫn thực
tiễn.

1.1. Yếu tố ngẫu nhiên trong đời sống văn hóa, tâm linh
1.1.1. Luận giải của khoa học tâm linh

Trước hết, chúng tôi xin dẫn một vài câu chuyện có thật trong lịch sử
nhân loại.
Câu chuyện trùng hợp nổi tiếng nước Mỹ là chuyện về hai vị tổng thống
John Kennedy và Abraham Lincoln. Chẳng có gì đáng nói nếu như Kennedy và


Lincoln chỉ tình cờ là hai tổng thống duy nhất có họ được viết gồm 7 chữ cái.
Tuy nhiên, số phận của hai vị tổng thống này gắn kết với nhau bằng những điểm
tương đồng khó giải thích.
Abraham Lincoln trúng cử Tổng thống năm 1860; John F. Kennedy trúng
cử năm 1960. Trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, Lincoln chiến thắng đối thủ
Stephen Douglas sinh năm 1813. Đối thủ của Kennedy là Richard Nixon sinh
năm 1913. Phu nhân của hai tổng thống đều bị sẩy thai trong thời gian sống ở

Nhà Trắng. Viên thư ký của Lincoln tên là Kennedy, thư ký của Kennedy tên là
Lincoln. Cả hai đều có Phó Tổng thống dưới quyền mang họ Johnson. Họ cũng
chính là người kế nhiệm hai ông sau vụ ám sát: Andrew Johnson kế nhiệm
Lincoln, sinh năm 1808; Lydon Johnson, kế nhiệm Kennedy, sinh năm 1908.
Tên của hai người kế vị này đều có 13 chữ cái. Cả Kenendy và Lincoln đều bị
ám sát vào ngày thứ 6 và đều bị bắn vào đầu. John Wilkess Booth, kẻ ám sát
Lincoln, sinh năm 1839, còn Lee Harvey Oswald, ám sát Kennedy sinh năm
1939. Tên của cả hai đều có 15 chữ cái. Lincoln bị bắn trước cửa nhà hát Ford.
Kennedy bị bắn trong xe Lincoln do hãng Ford sản xuất.
Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về tàu Titanic trong tiểu thuyết và trong
đời thực.
Năm 1898, Mark Roberto, một nhà văn người Mỹ, đã viết cuốn tiểu
thuyết The Wreck of the Titan, kể về con tàu Titan khổng lồ. Con tàu này có
trọng lượng 75.000 tấn, 3 buồng lái, tốc độ tối đa là 25 hải lý. Trong lần ra khơi
đầu tiên vào một buổi tối tháng 4, tàu Titan đã đâm vào tảng băng trôi và bị
chìm. Vì tàu cứu sinh chỉ có 24 chiếc tàu cứu sinh nên không thể cứu hết hành
khách. Đấy là tiểu thuyết. 13 năm sau, con tàu Titanic thật được xây dựng. Nó
cũng nặng 75.000 tấn, có 3 buồng lái và cũng có tốc độ tối đa là 25 hải lý.
Titanic có sức chứa khoảng 3000 hành khách. Điều kỳ lạ là số phận của tàu


Titanic giống hệt như số phận của tàu Titan trong tác phẩm của Roberto. Chuyến
tàu khởi hành đầu tiên vào tối ngày 14 tháng 4 năm 1912. Đêm ấy do sương mù
dày đặc, tàu đã đâm vào tảng băng trôi và bị chìm. Chỉ có khoảng 1500 người
trong tổng số 2207 hành khách được cứu.
Cả hai câu chuyện trên cũng như nhiều hiện tượng ngẫu nhiên kì lạ khác
trong đời sống, phương Tây lẫn phương Đông, đã được lý giải bằng góc độ tâm
linh, gắn liền với các thuật ngữ: số phận, định mệnh, điềm báo, luân hồi …
Bác sĩ tâm thần học, Brian L. Weiss trong tác phẩm Lời ngỏ từ thế giới
tâm linh đã khẳng định về hiện tượng: luân hồi, tái sinh, chuyển kiếp. Brian L.

Weeiss và nhiều nhà khoa học khác nghiên cứu về hiện tượng luân hồi đã giải
thích về sự tương đồng kì lạ của những người xa lạ, cảm giác thân quen khi mới
gặp và sự tương đồng của những người khác thế hệ. Ông dẫn ra những trường
hợp mới gặp gỡ, nhiều người đã có cảm giác gần gũi, thân quen, muốn gắn bó
cùng nhau. Theo quan niệm của thế giới tâm linh những con người ấy chết đi,
linh hồn họ vẫn nhớ mãi những tình cảm cũ của người xưa và khi đầu thai lại,
tùy theo nhân duyên mà họ sẽ gặp được hình ảnh của thân xác mới dưới hình
thức hai người xa lạ gặp nhau và giống nhau về cá tính, sở thích. “Khái niệm đầu
thai giải thích và làm sáng tỏ những những mối quan hệ trong kiếp sống hiện tại
của chúng ta. Thường thì những sự kiện trong kiếp quá khứ gần vẫn còn ảnh
hưởng đến những mối qua hệ hiện thời” [2, 22]. Ngoài kí ức, con người khi tái
sinh còn giống nhau về gương mặt, cử chỉ hoặc do sự “đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu” mà họ cùng được tái sinh một lần để có thể thuận tiện gặp
gỡ nhau. Do đó có trường hợp những người cùng ra đời vào những năm, tháng,
ngày, giờ giống nhau và đôi khi đã hoàn tất được ý nguyện họ lại phải xa nhau
cùng đúng vào ngày giờ tháng năm nào đó. Trường hợp giống nhau giữa vua
Umberto Đệ Nhất (1844-1900) và ông chủ quán rượu ở thành phố Monza nêu
trên có thể được hiểu theo cách lí giải này.


Riêng trường hợp đặc biệt về hai vị Tổng thống Hoa Kỳ Lincoln và
Kennedy thì câu trả lời vẫn còn ở sự suy đoán rằng, đó là một trong những hình
ảnh của sự đầu thai hay là sự hoá thân của chính Tổng thống Lincoln. Điều mà
cách đây mấy nghìn năm, bộ sách Tây Tạng sinh tử thư có nhắc đến: “Có những
người khi chết đi họ cảm thấy chưa làm đủ bổn phận nơi trần thế nên họ quyết
tâm đầu thai lại” [74, 1]. Theo Brian L. Weiss, “Chúng ta sinh ra vào một gia
đình không hề do ngẫu nhiên hay bất ngờ. Chúng ta chọn lựa hoàn cảnh và thiết
lập kế hoạch cho cuộc đời mình thậm chí trước khi chúng ta thụ thai”; “Chúng
ta được chọn lựa thời điểm để quay lại thế giới vật chất” [2, 60]. Như vậy, phải
chăng, Tổng thống Abraham Lincoln dù đã cả đời đấu tranh cho công bằng, bác

ái, vị tha, chống kỳ thị chủng tộc nhưng vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa hoàn tất ý
nguyện nên ông đã quyết tâm trở lại cõi trần lần nữa qua hậu thân là tổng thống
Kennedy? Và những điều tương tự như vậy cũng diễn ra với người thân, cộng sự
và kẻ thù của ông?
Qua những lý luận và giải thích trên, chưa hẳn vấn đề đã được lý giải hợp
lý và rõ ràng nhất, đặc biệt chúng rất đối lập với quan điểm của triết học Mác Lênin. Tuy nhiên, dù sao, một số giải thích ấy cũng nói lên được phần nào những
mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng ngẫu nhiên với nhau. Nếu ngày nay, ta
thấy xuất hiện trên trái đất này những hình ảnh, sự kiện lạ kì thì chắc chắn những
gì ta thấy đó đều có nguyên nhân. Nhưng trở ngại là đôi khi nguyên nhân ấy
không thể được nhận rõ bằng các giác quan bình thường của loài người và cũng
chưa thể chứng minh bằng khoa học, nên sự giải thích sẽ được giới tâm linh thiết
lập. Đây là một thực tế phải được chấp nhận.
1.1.2. Luận giải của triết học Duy vật

Theo quan niệm của triết học Mác - Lênin, “ngẫu nhiên là phạm trù chỉ
cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật
quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết hợp nhiều hoàn cảnh bên


ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất
hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện khác đi” [47, 208].
Ví dụ về việc tung một đồng xu lên không trung. Đồng xu rớt xuống đất là
điều tất nhiên. Nhưng việc mặt nào sấp, mặt nào ngửa sau mỗi lần tung khi chạm
đất lại là việc ngẫu nhiên. Hay, như trường hợp tung đồng xu lên, nó đã rơi
xuống và đứng yên trên nền đất bằng cạnh thì đấy càng là cái ngẫu nhiên và hy
hữu.
Đồng thời với cái ngẫu nhiên là cái tất nhiên. Triết học Mác - Lênin quan
niệm: “Cái tất nhiên là phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên
trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải
xảy ra như thế chứ không thể khác được” [47, 208].

Tính ngẫu nhiên đã có lịch sử nghiên cứu lâu dài trong triết học nói chung
và triết học Mác - Lênin nói riêng. Theo quan niệm của triết học Mác- Lênin,
không phải chỉ có cái tất nhiên, mà cá cái ngẫu nhiên cũng đóng vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của sự vật. “Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự
phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự phát triển của sự
vật diễn ra nhanh hoặc chậm. Thí dụ, cá tính của lãnh tụ một phong trào là yếu
tố ngẫu nhiên, không quyết định đến xu hướng phát triển của phong trào, nhưng
lại có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hoặc chậm, mức độ sâu
sắc của phong trào đạt được như thế nào…” [47, 209].
Tính ngẫu nhiên được nghiên cứu cùng với tính tất nhiên tạo thành một
trong sáu cặp phạm trù của triết học Mác - Lênin. Khác với quan điểm duy tâm,
trong việc nghiên cứu cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên, triết học Mác - Lênin đã
đưa ra những phương pháp luận tích cực trong việc tiếp nhận cái ngẫu nhiên
trong đời sống.
Tính ngẫu nhiên trong quan hệ hữu cơ với cái tất nhiên, được khẳng định:
“Cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái


ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng
thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên” [47, 210]. Ph. Ăngghen đã luận giải điều
này bằng ví dụ về sự xuất hiện của các nhân vật xuất sắc trong lịch sử. Trong
diễn biến lịch sử của nhân loại hay của một dân tộc, việc xuất hiện những cá
nhân xuất sắc là một điêu tất nhiên, nhưng cá nhân ấy là ai không phải là tất
nhiên, vì điều đó không phụ thuộc trực tiếp vào tiến trình chung của lịch sử. Nếu
gạt bỏ nhân vật này thì nhân vật khác sẽ xuất hiện, thay thế. Dù sự thay thế đó sẽ
tốt hơn hay xấu hơn, thì nó vẫn diễn ra. Cái tất nhiên trong trường hợp này tồn
tại như khuynh hướng chung của sự phát triển. Nhưng nó không biệt lập, nó thể
hiện dưới cái hình thức ngẫu nhiên. Và một tập hợp ngẫu nhiên sẽ làm nên cái tất
nhiên.
Triết học Mác - Lênin cũng đã nhận nêu rõ về khả năng chuyển hóa lẫn

nhau của cái ngẫu nhiên và tất nhiên. “Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở
trại thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện
nhất định, tất nhiên có thể chuyển hóa thành ngẫu nhiên và ngược lại” [47, 211].
Sự chuyển hóa này ta có thể được nhận thấy ở những biểu hiện ở xã hội đương
đại như: Sự phát triển của văn học mạng. Lúc đầu, văn học mạng chỉ là việc chia
sẻ một tác phẩm trên trang blog cá nhân. Nhưng dần dần, hành động đó ngẫu
nhiên giúp ích cho việc lan truyền tác phẩm, giới thiệu tên tuổi tác giả. Nhận
thấy sự thuận tiện đó, văn học mạng ra đời như một sự tất yếu. Nhưng nếu nhìn
ở góc độ khác, cái ngẫu nhiên sẽ biến thành cái tất nhiên. Mạng internet phát
triển, trang mạng có thể chứa được nhiều dữ liệu, truyển tải, bảo quản thông tin
dễ dàng hơn là vận chuyển, bảo quản những quyển sách, do vậy việc văn học
mạng ra đời, ngay từ đầu đã là việc tất nhiên qua góc nhìn của người sáng lập
trang mạng cộng đồng.
Thêm nữa, triết học Mác - Lênin cũng đút kết ra phương pháp luận cho
hoạt động thực tiễn. Họ luôn yêu cầu: “Trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương
pháp chính, người ta thấy có phương án hành động dự phòng nhằm đáp ứng


những biến đổi ngẫu nhiên có thể xảy ra.” và “trong nhận thức cũng như torng
hoạt động thực tiễn, chúng ta không được xem nhẹ, bỏ qua cái ngẫu nhiên” [47,
212].
Những phân tích trên cho thấy: Triết học Mác - Lênin đã thừa nhận sự tồn
tại của cái ngẫu nhiên và vai trò của nó trong đời sống.
1.1.3. Tôn giáo Ấn Độ và yếu tố ngẫu nhiên

Ấn Độ là dân tộc đa tôn giáo. Kinh Veda, Bhagavad - Gita, dù không kết
thành một hệ thống tri thức riêng biệt, nhưng vẫn thừa nhận cái gọi là ngẫu
nhiên. Trong Phật giáo Ấn Độ, yếu tố ngẫu nhiên đã được khái quát lên thành
những tri thức tâm linh có tính hệ thống như: duyên, nghiệp báo (Karma), luân
hồi (Samsara).

1.2.3.1. Veda ra đời thường được ước định vào khoảng 1500 đến 1700
năm trước Công Nguyên. Đây là tôn giáo của người Ấn - Aryan ở thời kì mới
định cư trên đất Bắc Ấn. Tư tưởng triết học của thời kì này được thể hiện tập
trung trong bộ Uppanisad - phần thứ tư của mỗi phần kinh Veda. Bhagavad Gita (Bài ca về Đấng chí tôn) là phần thơ ghi lại lờ khuyên giảng của Krisna cho
Ajuna. Triết học Bhagavad - Gita dài 700 câu và nằm trong bản anh hùng ca
Mahabharata. Cả Upanisad và Bhagavad - Gita đều có chung “quan niệm duy
tâm nhất nguyên” [7, 154], thừa nhận mọi vật đều có linh hồn, thống nhất, gắn
kết cùng nhau và đôi khi là vòng luân hồi, gặp lại. Do vậy, yếu tố ngẫu nhiên vô
hình trung đã được đón nhận như một phần tất yếu trong cuộc sống của người
Ấn từ thuở xa xưa.
1.2.3.2. Phật giáo Ấn Độ ra đời vào thế kỷ VI trước Công Nguyên, gần
cùng thời với đạo Jaina và cũng trên vùng Đông bắc Ấn, nơi ảnh hưởng của đạo
Bà La Môn chưa mạnh và đẳng cấp Ksatrya (vương tộc quân sự) còn có vị trí


hàng đầu trong xã hội. Một vài nội dung sau trong phật giáo Ấn Độ đã thừa nhận
sự tồn tại của ngẫu nhiên và sức ảnh hưởng của ngẫu nhiên.
Thứ nhất, Đạo lý Phật pháp nhìn mọi việc dưới góc độ của chữ “duyên”,
duyên khởi, duyên tận, nhân duyên.
“Duyên thì có rất nhiều thứ. Duyên lành đối với Tam Bảo, đối với chánh
pháp. Tương duyên đối với người khác chung quanh mình, và duyên đối với
nhiều nguyên tắc liên quan đến việc tu tập. Thí dụ do môi trường, hoàn cảnh tu
tập, v.v…” [73, 2]. Nơi nào, duyên ấy, theo cách hiểu này, cái duyên của đạo
Phật là sự tổng kết xác thực những sự kiện của cuộc sống. Đạo Phật đã dùng chữ
“duyên” để hình dung, để tạo tâm thế cho việc đón nhận những điều bất ngờ.
Một sự việc ngẫu nhiên đến, bắt đầu, được hình dung với quan niệm duyên khởi.
Một sinh mệnh ra đi, một quá trình bị gián đoạn, chia ly, đánh mất,… tín đồ Phật
giáo sẽ chấp nhận rằng: duyên đã tận.
Phật giáo quan niệm như sau về nhân duyên: “Sinh mệnh là do những yếu
tố phi vật chất, tinh thần thường gọi là sắc, những yếu tố phi vật chất, tinh thần

thường gọi là danh kết hợp thành. Sự kết hợp giữa sắc và damh đó thường gọi là
mối quan hệ nhân duyên” [2, 172]. Sự kết hợp thành ấy, được hiểu là sự hợp
thành ngẫu nhiên của nhiều yếu tố.
Mười hai nhân duyên - một cấu trúc giáo lý - vốn được xem là nền tảng
trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Đạo Phật. Mười hai nhân duyên bao gồm: Vô
minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Mười
hai nhân duyên này, nếu xét theo “tiến trình hiện hữu, theo chiều lưu chuyển” thì
đó cũng chính là “chiều sinh khởi của thế giới luân hồi, sinh tử, khổ đau” [56,
132]. Chúng tôi muốn nhấn mạnh vào nhân duyên thứ năm và thứ sáu. “Lục
nhập (six bases): sự tương nhập của 6 quan năng (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý)
và 6 trần cảnh (hình thể, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc và pháp hay sự hữu)”.
“Xúc (impression): sự giao thoa căn, trần và thức” [56, 120]. “Trần, trần cảnh”


chính là sự thừa nhận về ngoại cảnh có chứa đựng ngẫu nhiên. Đồng thời, khi
nói về hai cơ cấu hình nên khí chất của con người, ở cơ cấu thứ hai, đạo Phật
khẳng định: “Con người sau khi được sinh ra, mỗi cá thể tiếp tục bị chi phối bởi
phong tục, tập quán, văn hóa, văn minh của xã hội và gia đình nơi mà cá thể ấy
chào đời. Sự ảnh hưởng đó dầu không phải là làm nên căn tính của con người,
nhưng nó là yếu tố góp phần xây dựng cho cá thể ấy một tánh hạnh (behaviour),
một lối sống (hành nghiệp) trong một xã hội nhất định” [56, 131].
Như vậy, duyên hay nhân duyên, duyên khởi, duyên tận trong quá trình tu
tập, hướng về cõi Niết bàn, đạo Phật đã thừa nhận về sự tồn tại và ảnh hưởng của
thế giới thực tại. Thế giới thực tại ấy gói trong mình những yếu tố ngẫu nhiên.
Hành trình đi đến Niết bàn là hành trình đi xuyên qua một thực tại đầy ngẫu
nhiên. Trong hành trình ấy, ngẫu nhiên chính là duyên.
Thứ hai, trong lần truyền giảng đầu tiên về học thuyết của Phật, ngoài
bốn “nỗi khổ sinh học”: sinh, lão, bệnh, tử, Phật còn kể đến ba nỗi khổ khác là:
“Khổ vì phải gần với cái mình ghét (Oán tăng hội khổ); Khổ vì phải xa cái mình
yêu (Ái biệt ly khổ); Khổ vì muốn mà không đạt (Cầu bất đắc khổ)” [7,183].

Trong việc luận giải lí do của khổ, tính khách quan, ngoài mặc định của sự việc
hiện tượng đã được thừa nhận. Con người không tránh khỏi việc gặp phải điều
mình ghét, xa cái mình thích, không được làm điều mình muốn. Điều này vô
hình đã chỉ rõ: yếu tố ngẫu nhiên trở thành một vấn đề không nhỏ trong việc
hình thành, giảng giải, tiếp cận Phật giáo, lĩnh hội và hình thành hành vi.

1.2. Tác giả - tác phẩm
1.2.1. Vikas Swarup - Nhà ngoại giao và nhà văn

Vikas Swarup được sinh ra ở Allahabad, Uttar Pradesh trong một gia đình
luật sư. Ông đã học trường trung học và cao đẳng cho Nam ở Allahabad. Sau đó,
ông tiếp tục nghiên cứu môn Tâm lý học, Lịch sử và Triết học tại Đại học
Allahabad.


Năm 1986, Vikas Swarup gia nhập IFS, một tổ chức về Tiêu chuẩn thực
phẩm quốc tế. Sau đó ông tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao tại Thổ
Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nam Phi.
Tiểu thuyết đầu tay của ông là Triệu phú khu ổ chuột (tựa gốc: Q&A). Sự
thành công của tiểu thuyết này chúng tôi đã đề cập trong phần lí do chọn đề tài.
Tiểu thuyết thứ hai của ông là Sáu nghi can, được xuất bản bởi Transworld,
phát hành vào năm 2008. Tác phẩm này đang được dịch ra nhiều ngôn ngữ và
xuất bản tại Mỹ bởi Minotaur Books năm 2009. Nó đã được chuyển thể thành
phim do BBC và Starfield sản xuất, John Hodge - người đã viết kịch bản cho bộ
phim như Trainspotting, Shallow Grave và The Beach - được ủy nhiệm để viết
kịch bản. Hiện tác phẩm chưa được dịch và xuất bản tại Việt Nam. Truyện ngắn
Một sự kiện lớn của Vikas Swarup được xuất bản trong Giờ cho trẻ: Những câu
chuyện Thời niên thiếu, một hợp tuyển những câu chuyện về tuổi thơ, do quỹ
Save the Children hỗ trợ.
Công việc hiện tại của ông là nhà ngoại giao, nhà văn và viết báo cho các

tạp chí Time, The Guardian, The Telegraph (Anh), tạp chí Outlook (Ấn Độ) và
Giải phóng (Pháp).
1.2.2. Tác phẩm

1.2.2.1. Tóm tắt tác phẩm
Ram Mahammad Thomas là một cậu bé mồ côi bị bỏ rơi trước nhà thờ St
Mary vùng Paharganj, ngay đêm Giáng sinh. Suốt hai năm sau cậu vẫn nằm
trong danh sách chờ được nhận nuôi và vẫn chưa được đặt tên. Sau, gia đình
Thomas nhận cậu về nuôi, nhưng chỉ được ba ngày thì ông Thomas đem cậu trả
lại nhà thờ vì bà Thomas đã bỏ theo người đàn ông khác. Ram tiếp tục sống với
cha Timothy ở nhà thờ. Cậu được đặt tên là Ram Mohammad Thomas, một cái
tên của sự tổng hòa tôn giáo nhằm tránh khỏi cuộc xung đột tôn giáo đang lăm le
diễn ra. Khi Ram được 8 tuổi, cha Timothy bị cha John, một cha xứ trẻ thiếu đạo


đức, bắn chết. Cậu bé bị đưa vào trung tâm giáo dưỡng dành cho trẻ vị thành
niên ở Delhi.
Nơi đây, Ram đã gặp Salim, một cậu bé theo đạo Hồi. Gia đình của Salim
đã bị thiêu chết trong một cuộc bạo động tôn giáo. Salim có ngoại hình, năng
khiếu ca hát và ước mơ trở thành một diễn viên. Hai đứa trẻ đã nhanh chóng kết
thân với nhau. Trong một lần đi chơi, Ram đã được nhà tiên tri tặng một đồng xu
có thể đem đến may mắn cho cậu.
Một lần nọ, Ram đã giúp Salim thoát khỏi sự quấy rối của tên quản trại
Gupta và làm lộ bí mật của hắn. Cho nên, khi tên chăn dắt trẻ em tên Sethji
(Maman) đã tìm đến trại - với danh nghĩa hoạt động từ thiện, cứu giúp trẻ em và mua Salim, Gupta đã “khuyến mãi” thêm Ram. Hai đứa trẻ được đưa đến
Mumbai, Salim hứng khởi vì nghĩ ước mơ được hoạt động nghệ thuật đã sắp
thành hiện thực. Tại đây chúng đã gặp nhiều đứa trẻ tật nguyền với công việc kể
chuyện, ca hát hay làm trò để xin ăn. Salim được dạy bài hát Bhaian của thi sĩ
mù Surdas. Khi phát hiện Maman chỉ là tên chăn dắt, bóc lột sức lao động trẻ em
bằng cách làm chúng bị tật nguyền và buộc chúng đi ăn xin, Ram và Salim đã bỏ

trốn.
Thoát khỏi tay Maman, Ram và Slim bắt chuyến tàu hỏa địa phương tới
Juhu. Ram được nhận vào giúp việc cho nữ hoàng phim bi kịch Neelima
Kumari, Salim sống tại khu Chawl. Được một thời gian, nữ diễn viên này tự sát
do không chấp nhận được sự thật rằng mình đã có tuổi và xuống dốc trên con
đường nghệ thuật. Ram đến khu ổ chuột ở Ghatkopar và sống cùng Salim.
Salim đam mê phim điện ảnh đặc biệt là những phim có nam tài tử
Armaan Ali, thần tượng của cậu tham gia. Salim bỏ ngoài tai thậm chí phản ứng
mạnh mẽ trước những bài báo, những lời đồn đại về thần tượng của mình. Một
lần khi đến rạp xem phim, Salim đã bị một người đàn ông quấy rối. Hụt hẫng,
thất vọng, sụp đổ, căm giận khi Salim nhận ra kẻ đó chính là Armaan Ali.


Shantaram, một nhà thiên văn học cùng vợ và con gái là Gudya chuyển
đến sống cạnh phòng của Ram. Ram và Gudiya đã kết thành bạn thân. Ông
Shantaram do thất nghiệp nên sinh ra nghiện rượu hay bạo hành và cưỡng bức
con gái mình. Ram vì thương Gudiya, trong nhất thời đã xô ngã ông Shantaram
nơi cầu thang gỗ. Ngỡ mình đã phạm tội giết người, Ram trốn khỏi Mumbai đến
thành phố Delhi.
Ram vào làm người giúp việc cho vị đại tá người Australia tên Taylor.
Nhà ngoại giao này thật sự tinh ranh, gian manh trong việc quản lí vợ con, người
ăn, kẻ ở bằng camera quay lén. Tại đây Ram đã có cơ hội học tiếng Anh. Khi
phát hiện ông chủ mình là gián điệp, Ram đã giả giọng người Australia gọi cảnh
sát đến bắt quả tang và tước quyền ngoại giao của ông Taylor. Ram được nhận
tiền công làm thuê là 52.000 rupi, cậu rời Delhi về Mumbai gặp lại Salim.
Trên chuyến tàu từ Delhi về Mumbai, Ram đã bị cướp hết tiền. Khi một
tên cướp còn lại định cưỡng bức Meenakshi, cô gái cùng toa với Ram, trước khi
rời tàu, cậu đã lao vào giằng co cùng hắn và ngộ sát tên cướp ấy. Sợ bị cảnh sát
bắt, Ram nhảy khỏi tàu và trốn đến thành phố Agra.
Tại Agra, nhờ vào vốn tiếng Anh và sự nhanh nhạy của mình, cậu làm

hướng dẫn viên du lịch tại đền Taj Mahal. Ram gặp cậu bé câm Shankar, được
hướng dẫn đến thuê phòng ở trong khu nhà phụ của cung điện Swapna, chủ nhân
là phu nhân Rani Sahiba. Ram lấy tên là Raju Sharma. Ở đây, Ram nhanh chóng
trở thành bạn của người tớ gái Lajwanti và những người khác. Ram đã 17 tuổi và
theo các thanh niên là khách du lịch đến mua vui nơi khu đèn đỏ. Ram đã gặp
Nita và họ yêu nhau. Ram luôn cố gắng làm việc để chuộc Nita ra khỏi nơi ô
nhục nhưng anh trai của Nita luôn đưa ra cái giá quá cao, thậm chí khi Nita bị
Prem Kumar hành hạ phải nhập viện, gã anh trai ấy cũng không mềm lòng.
Lajwanti muốn có của hồi môn cho em gái nên đã trộm tiền của phu nhân
Rani và đã bị bắt. Shankar bị bệnh dại. Ram phát hiện ra cậu bé này chính là con
của phu nhân Rani Sahiba. Bà đã đánh con trai mình, khi cậu bé phát hiện bà


đang âu yếm cùng người tình, khiến cậu bé bị câm và loạn trí. Giờ Shankar lại bị
bỏ mặc và chết. Nita bị hành hạ phải nhập viện mà Ram không thể làm gì để
giúp người mình yêu. Tất cả điều đó khiến Ram đau buồn, căm giận, cậu rời
khỏi Agra, quyết tâm tham gia chương trình truyền hình Ai là triệu phú.
Trở lại Mumbai, Ram vô tình gặp lại Salim, cậu bạn giờ đã 16 tuổi. Salim
kể cho Ram nghe về những ngày đã qua. Salim vô tình đã được vào làm người
giúp việc cho tên Ahmed, một gã mê môn cricket và là một tên sát thủ. Hắn nhận
một phong bì gồm chân dung, tên tuổi, địa chỉ của nạn nhân để biết rõ về đối
tượng và hành động. Salim dần khám phá ra công việc của ông chủ mình. Cậu
thật sự hoảng hốt khi biết đối tượng sắp tới của Ahmed là nhà sản xuất phim
Adbas Rivi, người đã hứa sẽ cho Salim một vai nam chính. Salim đã đến cảnh
báo để Rivi bỏ trốn. Cậu thay hình của Maman, kẻ chăn dắt trẻ em lâu nay vẫn
tìm kiếm cậu và Ram vào chiếc phong bì. Maman bị Ahmed bắn chết, Salim lẩn
trốn, sau đó Ahmed cũng chết trong cuộc đọ súng với cảnh sát.
Ram giấu Salim, một mình tham gia Ai là triệu phú. Cậu đã trả lời xuất
sắc 12 câu hỏi nhờ những biến cố, sự kiện cuộc đời in sâu trong ký ức. Tham gia
trò chơi, Ram cũng le lói ý nghĩ giết người dẫn chương trình, Prem Kumar,

chính là kẻ đã hành hạ Nita. Nhưng việc chiến thắng để cứu Nita và giúp nhiều
người khác quan trọng hơn nên trong WC, Ram đã không nổ súng bắn Prem
Kumar. Đổi lại, hắn đã ngầm cung cấp cho Ram đáp án của câu hỏi số 13. Việc
Ram tung đồng xu chỉ là hành động theo thói quen, cá tính và đánh lừa khán giả.
Ram đã chiến thắng, phần thưởng là một tỷ Rupi.
Ram Mohamad Thomas bị cảnh sát bắt do nhà sản xuất không đủ khả
năng trao giải thưởng cho cậu nên vu khống cậu đã gian lận trong cuộc chơi. Tại
trụ sở cảnh sát, Ram bị hành hạ dã man và bị ép cung. Một nữ luật sư tên Smita
đã chủ động tìm đến can thiệp. Ram kể lại cuộc đời của mình cho luật sư nghe.
Mỗi đoạn đời đi qua đã lưu lại, ám ảnh và trở thành kiến thức cho anh chiến
thắng trong trò chơi Ai là triệu phú.


Sau khi đã chắc chắn rằng Ram trong sạch, nữ luật sư mới thú nhận mình
chính là Gudiya, người bạn, người chị kết nghĩa của cậu ở khu Chawl. Cha của
cô không chết, ông chỉ bị què một chân và sau sự việc đó, ông đã tỉnh táo, biết
sống tốt hơn.
Sau 4 tháng đấu tranh, nhờ sự giúp đỡ của Gudya, Ram đã thắng kiện và
được nhận một tỷ Rubi sau khi đã bị trừ “thuế trò chơi truyền hình”.
Câu chuyện kết thúc rất có hậu: Ram trở thành triệu phú và kết hôn cùng
Nita; ước mơ làm diễn viên của Salim đã thành hiện thực; Lajwanti ra tù và được
Ram giúp đỡ;…
Đồng xu may mắn của Ram có hai mặt hoàn toàn giống nhau. Thành công
của con người không phải hoàn toàn ở may mắn mà chính yếu là ở ước mơ và
niềm tin.
1.2.2.2. Từ tác phẩm văn học đến kịch bản điện ảnh
Tiểu thuyết Triệu phú khu ổ chuột đã được đạo diễn Danny Boyle, biên
kịch Simon Beaufoy chuyển thể thành phim điện ảnh có nhan đề Slumdog
Millionaire. Bộ phim này đã giành được tám giải Oscar năm 2009. Khi làm
phim, nhà biên kịch và đạo diễn đã giữ lại tình huống một chàng trai nghèo tham

gia chương trình Ai là triệu phú và trả lời đúng toàn bộ câu hỏi. Bị nghi ngờ gian
lận, anh ta bị bắt và buộc phải giải trình vì sao một người thất học lại có thể trả
lời đúng đáp án như vậy. Từ đây, mỗi câu trả lời đã lần mở ra một câu chuyện.
Hệ thống nhân vật trong phim đã được giảm tải đi rất nhiều cho phù hợp
với thể loại điện ảnh. Chúng ta không bắt gặp sự xuất hiện của cha Timothy,
Gudya, Shankar, Lajwanti, nữ hoàng bi kịch Neelima, những người hàng xóm
của khu nhà trọ ở Agra… trong phim Slumdog Millionaire. Trong tiểu thuyết,
nhân vật chính Ram và Salim là hai người bạn. Ram bị bỏ rơi từ nhỏ, gia đình
Salim thì chết trong cuộc bạo động tôn giáo. Nita là người tình của Ram và
không có mối liên hệ nào với Salim. Trong phim, nhân vật chính là Jamal Malik
và là em trai của Salim. Salim là người mạnh mẽ, bạo lực nhưng vì cuộc sống


×