Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

nghiên cứu văn hóa chăm nhằm phục vụ phát triển du lịch tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Búp

NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CHĂM NHẰM
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ: Địa lí học

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Thị Búp

NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CHĂM NHẰM
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH NINH THUẬN
Chuyên ngành: Địa lí học (trừ ĐLTN)
Mã số: 60 – 31 - 95

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC (TRỪ ĐLTN)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRỊNH THANH SƠN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2011



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức kinh điển,
nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trịnh
Thanh Sơn.
Các số liệu và những kết quả trong luận văn là trung thực, xuất phát từ thực tiễn
và kinh nghiệm, chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào trước khi trình và
bảo vệ.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định sự trung thực của lời cam kết này.

Tác giả luận văn
Võ Thị Búp


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giáo viên hướng dẫn khoa học TS.
Trịnh Thanh Sơn - Trưởng phòng Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Sau đại học, Khoa Địa lí Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cùng quý thầy cô trong Khoa Địa lí đã
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Sở Văn hóa Thể thao và
Du lịch, Cục thống kê, Sở Tài nguyên và Môi trường Tỉnh Ninh Thuận, Bảo tàng Văn
hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận, Ủy ban nhân dân huyện Ninh Phước đã cung cấp cho tôi
nguồn tài liệu, tư liệu hữu ích phục vụ cho đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn.



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... 2
MỤC LỤC ................................................................................................................ 3
DANH SÁCH CÁC BẢNG ..................................................................................... 6
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ................................................................................. 6
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ .................................................................................. 6
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................................7
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................7
3. Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................................8
4. Lịch sử nghiên cứu ...............................................................................................................8
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu ..............................................................................9
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................................9
7. Cấu trúc luận văn................................................................................................................10

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VĂN HÓA VÀ DU LỊCH VĂN HÓA .... 11
1.1. Khái niệm văn hóa ...........................................................................................................11
1.1.1. Văn hóa ....................................................................................................................11
1.1.2. Các đặc trưng và bản chất của văn hóa ..................................................................13
1.1.3. Phân biệt văn hóa và văn minh ................................................................................14
1.1.4. Các loại hình văn hóa ..............................................................................................15
1.2. Khái niệm du lịch và du lịch văn hóa ..............................................................................16
1.2.1. Khái niệm du lịch .....................................................................................................16
1.2.2. Khái niệm du lịch văn hóa .......................................................................................20


1.2.3. Các nguyên tắc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa ........................................21

1.3. Lược sử hình thành và phát triển du lịch văn hóa ở một số nước trên thế giới và Việt
Nam ........................................................................................................................................23
1.3.1. Một số nước trên thế giới .........................................................................................23
1.3.2. Ở Việt Nam ...............................................................................................................25

CHƯƠNG 2: VĂN HÓA CHĂM NHẰM PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH NINH THUẬN ................................................................................................ 28
2.1. Giới thiệu chung ..............................................................................................................28
2.1.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu ..................................................................................28
2.1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Chăm ...............................29
2.2. Các điều kiện tác động đến sự hình thành và phát triển văn hóa Chăm .........................31
2.2.1. Vị trí địa lí ................................................................................................................31
2.2.2. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................................32
2.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội .........................................................................................34
2.2.4. Nét đặc sắc trong văn hóa Chăm .............................................................................38
2.3. Thực trang phát triển du lịch văn hóa Chăm ở Ninh Thuận ...........................................67
2.3.1. Các di tích đền tháp Chăm.......................................................................................67
2.3.2. Lễ hội truyền thống ..................................................................................................77
2.3.3. Các làng nghề thủ công truyền thống ......................................................................79
2.4. Kết quả đạt được từ phát triển du lịch văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận .........................85

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁT PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN
HÓA CHĂM TỈNH NINH THUẬN ........................................................................ 91
3.1. Định hướng phát triển du lịch văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận ......................................91
3.1.1. Cơ sở đưa ra định hướng .........................................................................................91
3.1.2. Định hướng phát triển..............................................................................................96


3.2. Giải pháp phát triển .........................................................................................................98
3.2.1. Thu hút đầu tư, phát triển cơ sợ hạ tầng - kĩ thuật phục vụ du lịch ........................98

3.2.2. Giữ gìn và tôn tạo những giá trị văn hóa của dân tộc Chăm .................................99
3.2.3. Tiếp thị, quảng bá du lịch ......................................................................................101
3.2.4. Nâng cao nhận thức và đời sống của cộng đồng địa phương ...............................101
3.2.5. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ...................................................................102
3.2.6. Phát triển du lịch văn hóa gắn với phát triển cộng đồng ......................................103

KẾT LUẬN- ĐỀ XUẤT ...................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 110
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH ....................................................................................... 112


DANH SÁCH CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tổng người Chăm ở Việt Nam ........................................................... 30
Bảng 2.2. Phân bố người Chăm tỉnh Ninh Thuận ................................................ 38
Bảng 2.3. Lượng khách tham quan tháp Po Klaung Garai .................................. 84
Bảng 2.4. Doanh thu từ hoạt động thu phí ở tháp Po Klaung Garai ................... 86
Bảng 2.5. Biểu mẫu quyết định 2502 ................................................................... 95
Bảng 2.6. Tỉ lệ khách tham quan tháp Po Klaung Garai so với tỉnh ninh Thuận 97
Bảng 2.7. Tỉ lệ doanh thu tháp Po Klaung Garai so với doanh thu toàn tỉnh Ninh Thuận
98
Bảng 3.1. Doanh thu toàn ngành du lịch Ninh Thuận 2006 –2009 .................... 103
Bảng 3.2. Tổng lượng khách đến Ninh Thuận 2006 – 2009 .............................. 104

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Hình 2.1. Biểu đồ phân bố người Chăm tỉnh Ninh Thuận ................................... 39
Hình 2.2. Biểu đồ lượng khách quốc tế và nội địa đến tháp Po Klaung Garai .... 85
Hình 2.3. Biểu đồ doanh thu từ hoạt động thu phí tháp Po Klaung Garai .......... 87
Hình 3.1. Biểu đồ tốc độ tăng trưởng lượng khách và doanh thu toàn ngành du lịch tỉnh
Ninh Thuận ......................................................................................................... 104


DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ
Bản đồ hành chính Ninh Thuận
Bản đồ tuyến – điểm du lịch tỉnh Ninh Thuận


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi con người Việt Nam chúng ta luôn cảm thấy tự hào về một đất nước Việt Nam
giàu truyền thống và tinh thần dân tộc. Một đất nước với 54 thành phần dân tộc cùng chung
tay xây dựng một Việt Nam tươi đẹp. Mỗi dân tộc là một bông hoa cùng nhau tô màu cho
nét đặc sắc của 54 dân tộc anh em. Nếu như người Kinh chúng ta vốn rất giàu truyền thống
văn hóa làng xã, cuộc sống luôn gắn bó với miền sông nước, với ruộng vườn bao la thì
người dân tộc miền núi Gia Rai, Ê-đê, Ba-na đến các dân tộc Chăm, Khmer với những
phong tục tập quán, văn hóa đặc sắc. Người Chăm ở Việt Nam sinh sống chủ yếu ở vùng
đồng bằng miền Trung với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Một dân tộc hiền
hòa, chân chất và cuộc sống của họ với sự đa dạng màu sắc nghệ thuật, những nghi lễ trang
trọng luôn trải dài trong lịch sử. Tấc cả đều tạo nên bản sắc văn hóa của người Chăm.
Từ những hình ảnh, những tài liệu mà tôi đã được đọc, được nghe về dân tộc Chăm,
một dân tộc với những phong tục, lễ nghi rất thu hút mọi người, từ tháng ăn kiêng
(Ramadan) đến lễ hội Katê luôn làm cho du khách ước muốn được nghiên cứu, tìm hiểu về
nó. Tại sao cùng là người Chăm nhưng có sự khác nhau giữa người Chăm ở An Giang và
người Chăm ở Ninh Thuận? Về tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm như thế nào và ý
nghĩa của tháng Ramadan đến lễ hội Katê hàng năm, sự huyền bí ở những ngôi tháp,... Tấc
cả những vấn đề đó đã thôi thúc tôi quyết định nghiên cứu đề tài luận văn “Nghiên cứu văn
hóa Chăm nhằm phục vụ phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận”.
Đây không chỉ là một luận văn tốt nghiệp mà hơn thế nữa đây chính là niềm đam mê,
khao khát được nghiên cứu, tìm hiểu về nền văn hóa của một dân tộc anh em. Chính thế, tôi
mong rằng đề tài nghiên cứu của mình sẽ đem lại kết quả tốt hơn đến việc giữ gìn và phát
huy văn hóa Chăm, góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch văn hóa Chăm trong phát triển

du lịch chung của đất nước.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là thu thập, xây dựng cơ sở lý luận về du lịch văn
hóa mà cụ thể là nghiên cứu văn hóa Chăm để phục vụ du lịch. Từ đó đưa ra những định


hướng và đề xuất những giải pháp nhằm khai thác tốt hơn văn hóa Chăm trong phát triển
kinh tế xã hội mà cụ thể là phát triển du lịch.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
Phần cơ sở lý luận là làm rõ những khái niệm về văn hóa, du lịch văn hóa và các loại
hình du lịch văn hóa.
Lịch sử hình thành dân tộc Chăm và những nét độc đáo trong văn hóa Chăm. Thực
trạng khai thác du lịch văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận và đưa ra những đánh giá, nhận định.
Nêu ra những định hướng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa
vai trò của người Chăm trong phát triển du lịch đặc biệt là du lịch văn hóa.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Phân tích những nét độc đáo trong văn hóa Chăm phục vụ phát triển du
lịch tỉnh Ninh Thuận. Đánh giá và đưa ra những đề xuất nhằm bảo tồn, duy trì và khai thác
tốt hơn giá trị văn hóa của người Chăm.
Về không gian: Địa bàn cư trú của người Chăm tỉnh Ninh Thuận.
Về thời gian: Tài liệu nghiên cứu về du lịch văn hóa Chăm từ năm 2000 đến 2010 (các
số liệu thu thập để phục vụ cho đề tài).
4. Lịch sử nghiên cứu
Ngày nay, đất nước ta đang từng bước tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa, mở
rộng giao lưu, hợp tác quốc tế. Chính vì vậy, nền kinh tế đất nước đang có sự chuyển đổi từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Những năm gần đây, ngành du lịch nước ta đang
dần khẳng định vị trí của mình trong phát triển kinh tế, xã hội. Giá trị mà ngành du lịch
đóng góp vào GDP ngày càng tăng và nhà nước đã có những chủ trương, chính sách nhằm

thúc đẩy ngành du lịch phát triển, khai thác có hiệu quả lợi thế du lịch của từng địa phương.
Du lịch văn hóa là một hình thức trong các loại hình du lịch. Đã có nhiều nghiên cứu
khoa học về văn hóa Chăm như “ Văn hóa Chăm- Nghiên cứu và phê bình” của Sakaya
(2010), “Lễ hội người Chăm” của Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội (2003), “Nghề gốm cổ
truyền của người Chăm” của Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội (2001), “Nghề dệt cổ truyền
người Chăm” của Nxb Dân tộc Hà Nội (2003), “Văn hóa-xã hội Chăm, nghiên cứu và đối
thoại” của Nxb Văn học (2008), “ Luật tục người Chăm và Raglai” của GS Phan Đặng


Nhật chủ biên, Nxb Văn hóa dân tộc (2003), “Văn hóa Chăm”, “Người Chăm ở Thuận
Hải”, của Phan Xuân Biên, Nxb Khoa học xã hội, 1991, “Tháp Chăm sự thật và huyền
thoại”, của Ngô Văn Doanh, Nxb Văn hóa thông tin. Tấc cả những đề tài nghiên cứu trên sẽ
là cơ sở, là nền tảng giúp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu sắp tới.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm
5.1.1. Quan điểm tổng hợp - hệ thống
Nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận trên cơ sở tổng hợp về văn hóa của người
Chăm ở Nam Trung Bộ. Từ những nét nổi bật về văn hóa Chăm để rút ra những nét tiêu
biểu, đặc thù về văn hóa Chăm ở Ninh Thuận. Đó là những cơ sở, căn cứ cho định hướng
phát triển du lịch trên nền tảng văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận.
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Quá trình nghiên cứu văn hóa Chăm lấy cơ sở nền tảng từ người Chăm ở toàn bộ trên
lãnh thổ Việt Nam nói chung và Ninh Thuận nói riêng. Từ đó, đi sâu nghiên cứu ở các khu
vực mang nét đặc trưng điển hình về văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận. Qua đó khai thác thế
mạnh về văn hóa để phục vụ du lịch.
5.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng đều trải qua quá trình phát triển, vận động và biến đổi theo thời
gian và không gian. Để thấy được những nguyên nhân phát sinh, quá trình diễn biến của
một nhân tố trong một giai đoạn, một khoảng thời gian và không gian cụ thể, chúng ta cần
vận dụng quan điểm lịch sử viễn cảnh vào trong nghiên cứu. Từ đó đánh giá quá trình phát

triển của hệ thống du lịch, du lịch văn hóa ở Việt Nam.
5.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững cần gắn liền với bảo vệ môi trường, bảo
tồn và phát huy những truyền thống văn hóa quí giá của người Chăm trong phát triển du lịch
đặc biệt là du lịch văn hóa. Đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa yếu tố con người với tự
nhiên và môi trường.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp phân tích tổng hợp


Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho phù hợp
với nội dung nghiên cứu. Qua quá trình tổng hợp tôi mới có cái nhìn bao quát hơn về phạm
vi, hoạt động sản xuất của người Chăm và đưa ra những định hướng, giải pháp phát triển.
6.2.2. Phương pháp thống kê toán học
Sau khi thu thập thông tin, số liệu, tiến hành thống kê, sắp xếp dữ liệu cho phù hợp với
cấu trúc đề tài, trình tự thời gian và lập ra các bảng số liệu về quá trình phát triển du lịch văn
hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận
6.2.3. Phương pháp thực địa
Đây là một phương pháp quan trọng, không thể thiếu đối với một bài nghiên cứu khoa
học đặc biệt là ngành Địa lí. Với phương pháp này tôi có thể thu thập thêm những thông tin,
diễn biến về những hoạt động văn hóa - xã hội của người Chăm trong quá trình hòa nhập
chung cùng cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam. Qua đó giúp tôi có cái nhìn thực hơn về
truyền thống văn hóa của người Chăm để đánh giá mức độ tin cậy của thông tin, số liệu cập
nhật.
6.2.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp này dùng để so sánh các số liệu thống kê qua các năm. Mục đích của
phương pháp này là đánh giá sự phát triển trong hoạt động kinh tế với hoạt động phát triển
du lịch của người Chăm trong những năm qua.
6.2.5. Phương pháp biểu đồ, bản đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của ngành Địa lí, sử dụng phương pháp biểu đồ, bản đồ

làm tăng tính trực quan của đề tài nghiên cứu.
7. Cấu trúc luận văn
Đề tài “Nghiên cứu văn hóa Chăm nhằm phục vụ phát triển du lịch tỉnh Ninh
Thuận”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về văn hóa và du lịch văn hóa.
Chương 2: Văn hóa Chăm nhằm phục vụ phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận.


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VĂN HÓA VÀ DU LỊCH VĂN HÓA
1.1. Khái niệm văn hóa
1.1.1. Văn hóa
Đã có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn hoá
đưa ra các khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại chưa có một khái niệm
nào về văn hoá được thống nhất tuyệt đối. Theo E.B. Taylor (1832-1917) cho đến thời ông
đã có hơn 256 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Mỗi định nghĩa phản ánh một quan niệm,
một khía cạnh riêng của văn hóa con người. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm và
định nghĩa về văn hoá như sau:
Theo Taylor “văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm
có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán và một số năng lực và thói
quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Taylor chưa phân tích rạch ròi giữa văn hóa, văn minh nhưng trong định nghĩa của ông
đã hàm chứa nhiều yếu tố mà các nhà nghiên cứu đi sau nhắc đến như “tín ngưỡng”, “nghệ
thuật”, “đạo đức”, “tập quán”, “năng lực” và “thói quen” được con người chiếm lĩnh với tư
cách là một thành viên của xã hội”.
Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô (1982) để bắt đầu thập kỷ văn hoá UNESCO.
Đã thống nhất đưa ra một khái niệm về văn hoá như sau:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong
xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản

của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”.
Theo GS Federico Mayor khi ông đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể
hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng
đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ,
nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống thẫm mỹ và lối sống mà dựa trên đó
từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình".
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề
cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm


của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ
thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Ở Việt Nam, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn
hóa), lối sống (nếp sống văn hóa). Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một
giai đoạn (văn hóa Đông Sơn,..). Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tấc cả, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động.
Tuy nhiên, từ cách hiểu rộng thì văn hóa có rất nhiều khái niệm khác nhau:
“Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
[Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục
và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1998]
Theo PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [9, tr.19 – 20].
Nhìn chung, mọi định nghĩa đều thống nhất văn hoá có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn hóa là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì không do
con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hóa. Từ đó, văn hóa là đặc trưng căn bản
phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm
nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hóa xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và
có ý thức của con người với tự nhiên, nên văn hóa cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
Thứ hai, sự thích nghi này là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên nó không phải là

sự thích nghi máy móc mà thường là sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với giá trị chân thiện - mỹ.
Thứ ba, văn hóa bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không chỉ
riêng tinh thần mà thôi.
Thứ tư, văn hóa không chỉ có nghĩa là văn học nghệ thuật như thông thường người ta
hay nói. Văn học nghệ thuật chỉ là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực văn hóa mà thôi.
Trên cơ sở phân tích các quan niệm trên có thể kết luận: Văn hóa là sản phẩm của loài
người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội.
Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật
tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của
con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội. Nó được biểu hiện


trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong
giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
1.1.2. Các đặc trưng và bản chất của văn hóa
Tính hệ thống: đặc trưng này tạo mối quan hệ giữa các hiện tượng, các sự kiện thuộc
một nền văn hóa, phát triển các quy luật hình thành và phát triển của văn hóa. Nhờ có tính
hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội.
Tính giá trị: Là thước đo mức độ nhân bản của con người và xã hội. Các giá trị văn
hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị văn hóa vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất)
và giá trị văn hóa tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành
giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân biệt giá trị vĩnh
cửu và giá trị nhất thời.
Vì vậy, cùng một đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có nhiều giá trị hay ít tùy theo
góc nhìn. Muốn kết luận hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối
tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi giá trị”. Tùy từng giai đoạn lịch sử, cùng một
hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng gia
đoạn lịch sử.
Tính nhân sinh: đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội

(do con người sáng tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên nhiên tạo ra). Văn hóa là cái tự nhiên
được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật
chất hoặc tinh thần.
Tính giai cấp: Giống như tấc cả các lĩnh vực của đời sống văn hóa, một lĩnh vực được
xem xét khác nhau dưới các góc độ khác nhau. Nhìn chung, tấc cả các hiện tượng được nhìn
nhận theo quan điểm văn hóa học đều phụ thuộc vào những yếu tố chủ quan, đặc biệt là
quyền lợi kinh tế, quan điểm và định kiến chính trị, bản chất tâm lý. Đó là những lý do
khiến người ta hay nhấn mạnh đến cái gọi là tính giai cấp của văn hóa. Văn hóa với tư cách
là một hiện tượng khách quan và những cách lý giải văn hóa, bao giờ cũng mang tính chủ
quan.
Tính lịch sử: Các hiện tượng văn hóa không chỉ được đánh giá tuỳ theo các yếu tố chủ
quan mà còn tuỳ thuộc vào các điều kiện và hoàn cảnh khách quan.Ở mỗi thời điểm lịch sử,
giá trị của một hiện tượng văn hóa cũng như ảnh hưởng của nó phụ thuộc và những điều


kiện khách quan và tương quan các điều kiện khách quan ấy. Nếu lần theo dòng lịch sử,
chúng ta sẽ thấy rằng những giá trị đó cũng luôn luôn biến đổi. Bao giờ cũng có những giá
trị mới đang và sẽ sinh ra để thay thế những giá trị đã và đang lỗi thời. Chính vì thế, chúng
ta có thể nói rằng văn hóa có tính lịch sử.
Văn hóa là sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh
như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho
văn hóa có bề dày, một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên điều chỉnh, tiến hành phân
loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền
thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng
người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu của xã hội và cố
định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghi lễ,…
1.1.3. Phân biệt văn hóa và văn minh
Từ lâu, không ít người vẫn sử dụng văn minh (civilization) như một từ đồng nghĩa
với văn hóa. Song thật ra, đây là hai khái niệm rất khác nhau.
Theo học giả Đỗ Trọng Huề phân tích văn hóa theo bốn nghĩa, hai nghĩa hẹp và hai

nghĩa rộng. Nghĩa hẹp thứ nhất, văn hóa chỉ kiến thức hay học vấn. Khi khen một người có
văn hóa cao là khen người đó có kiến thức hay học vấn cao. Khi chê một người thiếu văn
hóa có nghĩa là người đó ít học hay kiến thức kém.
Theo nghĩa hẹp thứ hai, văn hóa dùng để chỉ văn chương và nghệ thuật, trong đó có đủ
các bộ môn ca, nhạc, vũ, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, kịch trường, điện ảnh. Nghĩa này
được dùng khi nói tới một công trình văn hóa, tác phẩm văn hóa, trung tâm văn hóa, nhà
văn hóa, đêm văn hóa, trình diễn văn hóa, triển lãm văn hóa.
Nghĩa thứ ba là nghĩa rộng, văn hóa chỉ phần sinh hoạt của loài người trong lãnh vực
tinh thần. Đó là những học thuyết, những triết thuyết đưa dẫn suy tư của con người lên một
bình diện cao hơn đời sống vật chất hàng ngày. Những Khổng Tử, Lão Tử, Socrates,
Platon… là những người đã nâng cao trình độ văn hóa của nhân loại. Thêm vào đó là những
tìm tòi và tin tưởng có tính cách tâm linh, hay nói nôm na là những niềm tin tôn giáo, những
tin tưởng về những gì xảy ra trong thế giới vô hình, có khả năng chi phối ngay trong và sau
cuộc đời hiện tại. Văn hóa thăng hoa của tinh thần khác biệt với những tiến bộ về vật chất
được gọi là văn minh.


Văn minh là những tiến bộ về kỹ thuật nhằm cải thiện đời sống vật chất của con
người. Văn hóa gồm đạo đức, luân lý, tôn giáo nâng con người lên trong lãnh vực tinh thần.
Văn minh là một phần của văn hóa, đặc biệt văn minh là tình trạng tiến bộ của con người
trong phạm vi kỹ thuật và những cải tiến đời sống vật chất.
Ngoài ra, trong các từ điển, từ “văn minh” có thể được định nghĩa theo nhiều cách,
song chúng thường có một nét nghĩa chung là “trình độ phát triển”; trong khi văn hóa luôn
có bề dày của quá khứ (tính lịch sử). Văn minh cho biết trình độ phát triển của văn hóa ở
từng giai đoạn khác nhau. Nói đến văn minh, người ta còn nghĩ đến các tiện nghi, hiện đại.
Như vậy, văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính giá trị. Trong khi văn hóa chứa cả các
giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh chủ yếu thiên về các giá trị vật chất mà thôi.
Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến sự
khác biệt về phạm vi. Văn hóa mang tính dân tộc còn văn minh có tính quốc tế, nó đặc trưng
cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại.

Sự khác biệt tiếp theo là về nguồn gốc. Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông
nông nghiệp, còn văn minh gắn nhiều hơn với phương Tây đô thị. Cụ thể, trong quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại, tại cựu lục địa Âu – Á đã hình thành hai vùng văn hóa lớn là
“phương Đông” và “phương Tây”. Ở các ngôn ngữ phương Tây, từ “văn hóa” bắt nguồn từ
chữ cultus tiếng Latinh có nghĩa là trồng trọt, còn từ “văn minh” bắt nguồn từ chữ civitas có
nghĩa là “thành phố”.
1.1.4. Các loại hình văn hóa
Theo PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm, văn hóa thường được chia thành văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần. Bên cạnh đó, văn hóa có thể chia thành ba nhóm: Văn hóa vật chất –
văn hóa xã hội – văn hóa tinh thần; văn hóa vật chất – văn hóa tinh thần – văn hóa nghệ
thuật; sinh hoạt kinh tế - sinh hoạt xã hội – sinh hoạt trí thức. Một số tác giả còn có sự phân
chia như: văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật;…[9,
tr.16].
Văn hóa vật chất: Là sản phẩm của con người tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất
vật chất như các công trình kiến trúc, trang phục, văn hóa ẩm thực…Văn hóa vật chất là một
tiêu chí đánh giá sự tiến bộ xã hội.


Văn hóa tinh thần: Xét về mặt tư tưởng và tư duy của con người ở các thời kì. Văn hóa
tinh thần là cách gọi tổng quát chỉ những sản phẩm tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình phát triển và hoạt động sản xuất như âm nhạc, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ
hội,…
1.2. Khái niệm du lịch và du lịch văn hóa
1.2.1. Khái niệm du lịch
Thuật ngữ du lịch ngày nay được sử dụng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, có nhiều ý
kiến khác nhau về nguồn gốc của thuật ngữ này.
Năm 1881, định nghĩa về du lịch xuất hiện lần đầu tiên ở Anh: “Du lịch là sự phối hợp
nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. Khái
niệm này tương đối đơn giản và coi giải trí là động cơ chính của hoạt động du lịch.
Năm 1925, hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (Internation of Union Official

Travel Organization) được thành lập ở Hà Lan, đánh dấu bước ngoặc trong việc thay đổi,
phát triển các khái niệm du lịch.
Năm 1930, Glusman người Thụy Sĩ định nghĩa: “Du lịch là sự chinh phục không gian
của những người đến một địa điểm, mà ở đó họ không có chổ cư trú thường xuyên”.
Hai học giả Hunziker và Krapf, những người đặt nền móng cho lý thuyết cung - cầu du
lịch, đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tập hợp của các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh
trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó
không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”. So với các
quan niệm trên, quan niệm của Hunziker và Krapf đã thể hiện tương đối đầy đủ và bao quát
các hiện tượng du lịch. Tuy nhiên quan niệm này chưa làm rõ được đặc trưng của các hiện
tượng và các mối quan hệ du lịch (kinh tế, chính trị, xã hội…).
Năm 1985, I.I Pirojnik đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư
trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú
thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ
nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tự nhiên, kinh tế và
văn hóa”.
Tháng 6/1991, tại Otawa (Canada), Hội nghị quốc tế và thống kê du lịch cũng đưa ra
định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường


xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian
đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến
hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm”.
Năm 1993, Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra khái niệm: “Du lịch là hoạt
động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên của con người và ở
lại đó để tham quan nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hoặc các mục đích khác ngoài các hoạt động
để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn 1 năm”.
Trong Luật Du lịch Việt Nam (ban hành 2005) định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động
có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất

định”.
Như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau về quan niệm du lịch. Tuy nhiên theo thời gian,
các quan niệm này dần hoàn thiện. Trong điều kiện nước ta hiện nay, quan niệm được trình
bày trong Luật Du lịch Việt Nam được sử dụng phổ biến nhất.
1.2.1.1. Khách du lịch
Có nhiều khái niệm khác nhau về khách du lịch. Theo một số nhà nghiên cứu, định
nghĩa đầu tiên về khách du lịch xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII tại Pháp: “Khách du lịch là
những người thực hiện một cuộc hành trình lớn”.
Vào thế kỉ XX, nhà kinh tế học người Áo, Josef Stander định nghĩa: “Khách du lịch
là những hành khách đi lại, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thỏa mãn các
nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục đích kinh tế”.
Theo Khadginicolov (người Bungari): “Khách du lịch là người hành trình tự nguyện,
với những mục đích hòa bình. Trong cuộc hành trình của mình, họ đi qua những chặng
đường khác nhau hoặc thay đổi một hoặc nhiều lần nơi cư trú của mình”.
Hội nghị quốc tế về du lịch tại Hà Lan năm 1989 đã đưa ra quan niệm:
Khách du lịch quốc tế (International tourist) là những người trên đường đi thăm một
hoặc một số nước khác với nước mà họ cư trú thường xuyên với mục đích của chuyến đi là
tham quan, thăm viếng, nghỉ ngơi với thời gian 3 tháng, nếu trên 3 tháng phải được phép gia
hạn. Khách du lịch không được làm bất cứ việc gì để được trả thù lao tại nước đến do ý
muốn của khách hay do yêu cầu của nước sở tại, sau khi kết thúc đợt tham quan hay lưu trú,
phải rời khỏi nước đến tham quan để trở về nước thường trú của mình hoặc đi đến một nước
khác.


Khách du lịch trong nước (Internal tourist): gồm những người là công dân của một
quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ quốc gia đó đi du lịch trong
nước.
Ở nước ta, theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), tại điều 4, chương I thì “Khách du
lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành
nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du

lịch quốc tế.
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra
nước ngoài du lịch.
1.2.1.2. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách dựa trên cơ sở khai
thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị, một
trải nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng.
Theo Michael M. Coltoman: “Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành
phần không đồng nhất hữu hình và vô hình”.
Theo Luật Du lịch Việt Nam: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để
thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến đi du lịch”.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, sản phẩm du lịch là sự kết hợp nhiều dịch vụ và
phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tài nguyên du lịch đáp ứng nhu cầu của khách
du lịch.
Điểm chung nhất mà sản phẩm du lịch mang lại cho du khách chính là sự hài lòng vì
được trải nghiệm một khoảng thời gian thú vị, tồn tại trong kí ức của du khách khi kết thúc
chuyến du lịch.
1.2.1.3. Tài nguyên du lịch
Theo I.I Pirojnik [Cơ sở địa lí dịch vụ và du lịch, 1985], “Tài nguyên du lịch là những
tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng giúp cho việc phục hồi,
phát triển thể lực, khả năng lao động và sức khỏe của con người mà chúng được sử dụng
trực tiếp hoặc gián tiếp để tạo ra dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu ở thời điểm hiện tại
hay tương lai và trong điều kiện kinh tế - kĩ thuật cho phép”.


Theo Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005): “ Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên
nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị

nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành
các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.
Như vậy, cách tiếp cận đối với tài nguyên du lịch giữa các nhà nghiên cứu có sự khác
nhau. Tuy nhiên tấc cả đều cùng đề cập đến các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội, văn hóa do
con người và tự nhiên tạo ra nhằm thu hút khách du lịch.
Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) cùng nhóm tác giả đã đưa ra định nghĩa tài nguyên du
lịch: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử cùng các thành phần của
chúng có sức hấp dẫn với du khách; đã, đang và sẽ được khai thác, cũng như bảo vệ nhằm
đáp ứng nhu cầu của du lịch một cách hiệu quả và bền vững” [8, tr. 31].
Tài nguyên du lịch rất đa dạng và có nhiều cách phân loại khác nhau. Tuy nhiên, mỗi
cách phân loại đều dựa vào những tiêu chí khác nhau.
Năm 1997, Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã phân chia tài nguyên du lịch thành
3 loại, với 9 nhóm gồm: loại cung cấp tiềm tàng (3 nhóm: văn hóa kinh điển, tự nhiên kinh
điển, vận động); loại cung cấp hiện tại ( 3 nhóm: giao thông, thiết bị, hình tượng tổng thể)
và loại tài nguyên kĩ thuật (3 nhóm: khả năng hoạt động, cách thức và tiềm lực khu vực).
Theo G. Cazes – R. lanquar – Y. Raynouard [Đào Đình Bắc (2000), Quy hoạch du
lịch, ĐH Quốc gia Hà Nội] đã phân loại tài nguyên du lịch như sau:
Tài nguyên thiên nhiên như khí hậu (thuận lợi hay khó khăn cho việc phát triển các
loại hình du lịch này hay loại hình du lịch khác), địa hình (tạo ra phong cảnh núi, phong
cảnh hồ hoặc bãi biển), động vật và thực vật.
Tài nguyên văn hóa – xã hội như các cuộc trình diễn nghệ thuật, liên quan âm nhạc,
hòa nhạc quốc tế, triển lãm, hội thảo văn học, trình diễn thể thao, khoa học công nghệ, các
thành phố hiện đại, các điểm khảo cổ và lịch sử.
Tài nguyên thuộc nhóm kinh tế như các nhà máy, các trung tâm kĩ thuật.
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), tài nguyên du lịch được chia thành hai nhóm cơ
bản sau:
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: địa hình (các dạng địa hình đặc biệt), khí hậu,
thủy văn (trên đất liền và biển), sinh vật.
Tài nguyên du lịch nhân văn gồm có: di tích các loại, lễ hội, làng nghề, văn hóa – văn
nghệ dân gian, ẩm thực…



Hiện nay, cách phân chia này được xem là phù hợp nhất trong điều kiện ở Việt Nam
và trong bài nghiên cứu này, tôi đã vận dụng cách phân loại tài nguyên du lịch ra hai nhóm
như trên.
1.2.1.4. Các loại hình du lịch
Hoạt động du lịch rất phong phú và đa dạng. Tùy theo yêu cầu và mục đích khác nhau
mà hoạt động đó được phân loại thành các loại hình khác nhau.
Phân loại theo tài nguyên du lịch: Du lịch văn hóa và du lịch sinh thái.
Phân loại theo mục đích chuyến đi: Du lịch tham quan, du lịch giải trí, thể thao, du lịch
chữa bệnh, du lịch tôn giáo,…
Phân loại theo lãnh thổ hoạt động: du lịch trong nước và du lịch quốc tế.
Phân loại theo vị trí địa lí: du lịch biển, du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch đồng quê.
Phân loại theo thời gian của cuộc hành trình: du lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày.
Phân loại theo việc sử dụng các phương tiện giao thông: du lịch xe đạp, du lịch ô tô,
du lịch máy bay, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy.
Phân loại theo hình thức tổ chức: du lịch tổ chức theo đoàn, du lịch cá nhân, du lịch
gia đình.
Ngoài các cách phân loại trên, người ta còn sử dụng các cách phân loại khác như: theo
lứa tuổi – đối tượng khách (du lịch thiếu nhi/ học sinh; du lịch thanh niên; du lịch người lớn
tuổi; du lịch tuần trăng mật); theo phương thức hợp đồng (du lịch trọn gói, du lịch từng
phần).
1.2.2. Khái niệm du lịch văn hóa
Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 tại Khoản 1, Điều 4, Chương I: “Du lịch văn
hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống”. Du lịch văn hóa là loại hình du
lịch nhằm nâng cao hiểu biết cho du khách về lịch sử, kiến trúc, kinh tế - xã hội, lối sống,
phong tục tập quán ở nơi họ đến thăm. Địa điểm đến thăm của du khách có thể là các di tích
văn hóa – lịch sử, bảo tàng, lễ hội địa phương, liên hoan nghệ thuật, thể thao.
Theo Trần Văn Thông: “ Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà du khách muốn được

cảm nhận bề dày văn hóa của một nước, một vùng thông qua các di tích lịch sử, văn hóa,
những phong tục tập quán còn hiện diện” [11, tr.20].


Tóm lại: Du lịch văn hoá là một loại hình du lịch sử dụng những giá trị văn hoá của
địa phương, thông qua các vật dẫn hoặc phương thức biểu đạt, cung cấp cho du khách cơ
hội để chiêm ngưỡng, thử nghiệm và cảm thụ văn hoá của các địa phương. Vật hấp dẫn bao
gồm các công trình kiến trúc mỹ thuật, các di tích lịch sử, hoạt động tôn giáo, nghi thức xã
hội đặc thù, đồ ăn, thức uống, biểu diễn âm nhạc kịch, vũ điệu địa phương, nghệ thuật sản
xuất thủ công truyền thống và làng nghề, lễ hội, phong tục tập quán.
Khách du lịch văn hóa: là du khách có trình độ hiểu biết về các vấn đề văn hóa, mĩ
thuật, nghệ thuật, kiến trúc, phong tục tập quán, tín ngưỡng… đi du lịch nhằm mục đích
tham quan hoặc nghiên cứu. [12, tr.10].
Sản phẩm du lịch văn hóa là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách trên cơ sở
khai thác tiềm năng du lịch văn hóa như các lễ hội truyền thống của các dân tộc, các sản
phẩm thủ công mĩ nghệ tại các làng nghề truyền thống, các hoạt động văn nghệ, thể thao
truyền thống nhằm mục đích đem đến sự hấp dẫn của du khách trong chuyến du lịch.
Các loại hình du lịch văn hóa hiện nay:
Du lịch lễ hội truyền thống.
Du lịch tham quan các di tích lịch sử - văn hóa.
Du lịch tham quan các bản sắc văn hóa, các làng nghề truyền thống của các dân tộc.
1.2.3. Các nguyên tắc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
Bản thân lĩnh vực văn hóa là rất rộng lớn và người ta thường gắn khái niệm "bảo tồn
văn hóa" với những đối tượng cụ thể như: bảo tồn văn hóa truyền thống, bảo tồn văn hóa vật
thể, bảo tồn văn hóa phi vật thể, bảo tồn di sản văn hóa phật giáo, bảo tồn văn hóa nông
thôn… Hiểu theo nghĩa chung nhất thì bảo tồn văn hóa là gìn giữ, lưu lại những giá trị văn
hóa.
Việc bảo tồn các giá trị văn hóa luôn đi kèm với tiến trình phát triển của xã hội. Để
những giá trị văn hóa còn tồn tại theo thời gian thì cần có những chính sách, những qui định
dành cho công tác bảo tồn nhằm phát huy hiệu quả của các giá trị văn hóa.

Đối với di sản văn hóa truyền thống, một trong những nguyên tắc cần phải quan tâm
đó là tiến hành điều tra, sưu tầm, thu thập, ghi chép lại các dạng thức văn hóa, những kĩ
năng, những tri thức do nghệ nhân sử dụng trong trình diễn các loại hình nghệ thuật hay chế
tác sản phẩm bằng việc ghi chép, ghi âm, ghi hình. Việc sử dụng máy ghi âm, máy ảnh giúp


chúng ta lưu giữ và tái hiện lịch sử một cách đầy đủ hơn, đặc biệt là trong việc lưu giữ các
loại hình nghệ thuật biểu diễn như múa, ca nhạc, sân khấu và chế tác sản phẩm thủ công
truyền thống.
Sưu tầm và ghi chép là cách thức quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị di sản văn
hóa truyền thống. Tuy nhiên bảo tồn không chỉ dừng lại ở việc lưu giữ các ấn phẩm, băng
hình, băng tiếng, trưng bày ở bảo tàng, sân khấu hóa các loại hình nghệ thuật truyền thống,
mà quan trọng hơn là lưu giữ trong môi trường sản sinh ra chúng. Nguyên tắc này còn gọi là
bảo tồn sống. Tức là bảo tồn các hiện tượng văn hóa phi vật thể ngay chính trong đời sống
cộng đồng.
Một loại hình di sản văn hóa phi vật thể được coi là thành công trong việc lưu giữ khi
nó vẫn tồn tại sống động trong môi trường nơi nó sinh ra, tức là đưa di sản văn hóa trở lại
với chủ thể văn hóa và tạo điều kiện tốt nhất để cho nó tồn tại. Đây là nguyên tắc được
UNESCO và nhiều quốc gia trên thế giới đề xuất. Cộng đồng là môi trường sản sinh ra các
hiện tượng văn hóa, là nơi nuôi dưỡng và làm phong phú nó trong đời sống.
Văn hoá phi vật thể tồn tại trong trí nhớ của một số người mà chúng ta thường gọi là
nghệ nhân. Bởi vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể cũng có nghĩa là
“bảo vệ” người kế thừa di sản văn hoá - những nghệ nhân dân gian. Thực tế đã chứng minh
rằng, “chỉ cần những người kế thừa di sản văn hoá phi vật thể vẫn còn sống thì những di sản
văn hoá truyền thống sẽ không bị biến mất; chỉ cần những người kế thừa di sản văn hoá phi
vật thể vẫn còn tràn đầy sức sống thì di sản văn hoá phi vật thể sẽ không ngừng được sáng
tạo trong quá trình trao truyền và kế thừa; chỉ cần người kế thừa di sản văn hoá phi vật thể
vẫn thu nhận đồ đệ để truyền nghề, thì di sản văn hoá phi vật thể có người kế thừa, kéo dài
mãi mãi”.
Để “bảo vệ” những báu vật nhân văn sống, ngoài việc thừa nhận những tài năng, Nhà

nước và cộng đồng cần tôn vinh và tạo mọi điều kiện tốt nhất về vật chất và tinh thần để họ
có thể phát huy mọi khả năng trong việc bảo tồn các di sản văn hoá truyền thống. Và quan
trọng hơn là để họ có ý thức trao truyền những giá trị vô giá kết tinh trong di sản văn hóa
truyền thống của dân tộc cho thế hệ tương lai.
Những giá trị văn hóa truyền thống tồn tại trong nhân dân và chỉ có thể được bảo vệ,
gìn giữ bởi nhân dân. Chính phủ dẫu có đầu tư bao nhiêu tiền của cũng sẽ bất lực nếu như
không chú ý đến việc bồi dưỡng ý thức cũng như huy động nhân dân tham gia trong công
việc này. Điều quan trọng là làm cho người dân ý thức được rằng biện pháp huy động sức


dân chỉ có hiệu quả trên một nền tảng ý thức về giữ gìn di sản văn hóa truyền thống. Người
dân chính là chủ thể của mọi hoạt động bảo vệ di sản văn hóa. Họ là người đóng vai trò
quyết định trong việc bảo tồn một cách bền vững di sản văn hoá của chính họ. Họ có đủ
năng lực và thẩm quyền để đánh giá các giá trị của di sản văn hóa, quyết định lựa chọn các
hiện tượng văn hóa phi vật thể nào là cần thiết để bảo tồn.
Thực tế là mọi hoạt động bảo tồn di sản văn hoá truyền thống chỉ có thể mang lại hiệu
quả và thành công khi có sự tham gia tự nguyện của người dân, thu hút và huy động tối đa
mọi nguồn lực của chủ thể văn hoá. Thời gian gần đây, các ý kiến bàn về vấn đề bảo tồn di
sản văn hóa truyền thống được đề cập khá nhiều trên các diễn đàn học thuật cũng như trên
các phương tiện truyền thông đại chúng. Một số nhà khoa học và quản lý cho rằng cần bảo
vệ tính nguyên gốc của di sản văn hóa, số khác lại cho rằng cần phải bảo tồn theo hướng
phát triển. Nhiều ý kiến bàn về vai trò của cộng đồng, vai trò của chủ thể trong việc bảo tồn
và phát huy di sản. Có ý kiến chống lại xu hướng “sân khấu hóa” di sản, mà yêu cầu bảo tồn
di sản trong môi trường nguyên gốc của nó. Có một thực tế là di sản văn hóa phi vật thể rất
phong phú và đa dạng, sự tồn tại và đời sống của từng di sản là rất khác nhau, do vậy những
nỗ lực để có một phương án duy nhất đúng trong công việc bảo tồn di sản chỉ đem lại thất
bại. Các di sản khác nhau sẽ phù hợp với những phương cách bảo tồn và phát triển khác
nhau. Mặt khác, với mỗi di sản, cũng có thể có nhiều phương án bảo tồn đồng thời được áp
dụng. Di sản thích nghi với càng nhiều hình thức sống, nhiều không gian khác nhau sẽ càng
có sức sống mãnh liệt hơn trong bối cảnh ngày một biến đổi của xã hội đương thời.

1.3. Lược sử hình thành và phát triển du lịch văn hóa ở một số nước trên thế giới và
Việt Nam
1.3.1. Một số nước trên thế giới
Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch nghĩ dưỡng, du lịch
mạo hiểm... gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang
phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản
phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục, tín ngưỡng để tạo
sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có
sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là
cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ.


×