BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----o0o-----
NGUYỄN XUÂN HÙNG
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ
CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2012
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----o0o-----
NGUYỄN XUÂN HÙNG
NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ
CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: TÂM
LÝ HỌC
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ HẠNH NGA
Thành Phố Hồ Chí Minh – 2012
2
LỜI CẢM ƠN
Người nghiên cứu xin được bày tỏ lòng biết ơn Qúy Thầy/ Cô giáo đã
giảng dạy và hướng dẫn em trong suốt thời gian học chương trình cao học tại
Đại học sư phạm TP.HCM. Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.
Đỗ Hạnh Nga đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình thực hiện luận văn
tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu cùng quý thầy cô trường
CĐSPTW TP.HCM đã hỗ trợ về vật chất và tinh thần giúp tôi hoàn thiện
chương trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn Phòng Sau Đại học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập và bảo vệ luận văn.
Xin cảm ơn các bạn học viên Tâm lý học K20 đã quan tâm chia sẻ và
động viên trong quá trình học tập và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng người nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu
và giáo viên các trường: MN Bé Ngoan Q.I; MN Tuổi Ngọc, MN Thỏ Ngọc,
MN Tư Thục Hoàng Mai I, MN Tư Thục Sao vàng Q.8; Trường MN Rạng
Đông 9, Q6; Trường MN Q11; Trường MN Trường Thạnh, MN Long
Trường Q.9; MN Tư Thục Thanh Tâm, MN Tư Thục Hạnh Phúc Q. Thủ Đức
và trường MN Thị Trấn Củ Chi đã nhiệt tình cộng tác trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
LỜI CAM ĐOAN
Người nghiên cứu xin cam đoan công trình nghiên cứu này do chính tôi thực
hiện. Các số liệu trong luận văn này là có thực. Nếu có vi phạm, người nghiên cứu
xin chịu mọi trách nhiệm theo qui định của Phòng Sau Đại Học – Trường Đại học
sư phạm TP.HCM.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ .............................................5
CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON ..................................................................................5
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề về tham vấn tâm lý ................................................5
1.1.1 Các công trình nghiên cứu về tham vấn tâm lý ở nước ngoài .....................5
1.1.2 Các công trình nghiên cứu về tham vấn tâm lý ở Việt Nam .....................10
1.2 Một số khái niệm cơ bản..................................................................................15
1.2.1 Nhu cầu ......................................................................................................15
1.2.2 Tham vấn tâm lý ........................................................................................26
1.2.3 Nhu cầu tham vấn tâm lý ...........................................................................36
1.3 Giáo viên mầm non và nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ......38
1.3.1 Giáo viên mầm non và đặc điểm nghề giáo viên mầm non ......................38
1.3.2 Nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ....................................45
CHƯƠNG 2 ..............................................................................................................53
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ
CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON ................................................................................53
2.1
Thể thức nghiên cứu ....................................................................................53
2.1.1 Khách thể nhóm nghiên cứu .....................................................................53
2.1.2. Mô tả công cụ nghiên cứu ........................................................................54
2.1.3 Cách thức thu và xử lý số liệu ..................................................................56
2.2 Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non tại Thành Phố Hồ
Chí Minh ................................................................................................................58
2.2.1 Nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ....................................58
2.2.2 Nhu cầu của giáo viên về các lĩnh vực cần được tham vấn tâm lý ...........59
2.2.3 Các nội dung cần được tham vấn tâm lý ...................................................62
2.2.4 Các hình thức giải quyết khi có xung đột tâm lý và nhu cầu sử dụng các
dịch vụ tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non tại TP.HCM ..........................82
2.2.5 Các nguyên nhân làm nảy sinh nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên
mầm non TP.HCM .............................................................................................85
2.2.6 Các hình thức tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ...........................91
2.2.7 Đề xuất các biện pháp đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên
mầm non .............................................................................................................92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................98
1 Kết luận ...............................................................................................................98
2 Kiến nghị...........................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Cao đằng
Cao đẳng sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Có con
Công lập
Đại học
Điểm trung bình
Độc thân
Đôi khi
Hiếm khi
Không bao giờ
Không có con
Không ý kiến
Lớn hơn
Nhỏ hơn
Nội thành
Ngoại thành
Rất thường xuyên
Tham vấn tâm lý
Thành phố Hồ Chí Minh
Tư thục
Thường xuyên
Trung cấp
Viết tắt
CĐ
CĐSP TP.HCM
CC
CL
ĐH
ĐTB
ĐT
ĐK
HK
KBG
KH
KYK
>
<
NT
Ng.T
RTX
TVTL
TP.HCM
TT
TX
TC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Đặc điểm nhóm khách thể nghiên cứu ......................................................53
Bảng 2.2 Nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ....................................58
Bảng 2.3 Các lĩnh vực cần được tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ..............59
Bảng 2.4 So sánh các lĩnh vực cần được tham vấn tâm lý theo trình độ .................60
tuổi và tình trạng hôn nhân........................................................................................60
Bảng 2.5 So sánh các lĩnh vực cần được tham vấn tâm lý .......................................61
theo loại hình trường và khu vực ..............................................................................61
Bảng 2.6 Các nội dung lĩnh vực giao tiếp, ứng xử trong hôn nhân, gia đình, bạn bè
và hàng xóm ..............................................................................................................62
Bảng 2.7 Các nội dung lĩnh vực giao tiếp, ứng xử trong ..........................................65
các mối quan hệ nơi làm việc ....................................................................................65
Bảng 2.8 Các nội dung lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp .....................................66
Bảng 2.9 Các nội dung liên quan đến lĩnh vực quản lý cảm xúc và sức khỏe ..........69
Bảng 2.10 So sánh các nội dung lĩnh vực giao tiếp, ứng xử trong đời sống hôn nhân,
gia đình, bạn bè và hàng xóm theo trình độ và tình trạng hôn nhân .........................72
Bảng 2.11 So sánh các nội dung lĩnh vực giao tiếp, ứng xử trong các mối quan hệ
nơi làm việc theo loại hình trường và khu vực. ........................................................73
Bảng 2.12 So sánh các nội dung lĩnh vực chuyên môn ............................................75
nghề nghiệp theo trình độ, năm trong nghề và khu vực. ...........................................75
Bảng 2.13 So sánh các nội dung liên quan đến việc quản lý cảm xúc và sức khỏe
theo trình độ, năm trong nghề và loại hình trường ...................................................81
Bảng 2.14 Cách giải quyết khi có xung đột tâm lý ...................................................82
Bảng 2.15 Các nguyên nhân liên quan đến vấn đề cá nhân ......................................85
Bảng 2.16 Các nguyên nhân liên quan đến công việc ..............................................88
Bảng 2.17 Các hình thức tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non..........................91
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên ................................................58
Biểu đồ 2.2 Các lĩnh vực cần được tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ..........60
Biểu đồ 2.3 Cách giải quyết khi gặp khó khăn, xung đột tâm lý ..............................84
Biểu đồ 2.4 Các hình thức tham vấn tâm lý ..............................................................92
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền
móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ em Việt Nam. Vì
vậy, phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và toàn
xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu phát
triển đất nước, nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn mới, tại phiên họp Chính
phủ tháng 11 năm 2005, Chính phủ đã quyết định về Đề án phát triển giáo dục mầm non
giai đoạn 2006 – 2015 [71]. Sau đó, ngày 09 tháng 02 năm 2010 Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi giai đoạn
2010 – 2015 [71]. Đề án này đang từng bước triển khai thực hiện, đặt ra yêu cầu đối
với việc xây dựng đội ngũ giáo viên cho bậc học mầm non là nhiệm vụ cấp bách
trong quá trình đổi mới và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà.
Trong lĩnh vực nghề nghiệp, nghề nào cũng có những khó khăn, trở ngại và
tạo ra những áp lực tâm lý trong quá trình thực hiện công việc. Với nghề giáo viên
mầm non thì áp lực tâm lý trong công việc lại càng lớn hơn. Bởi vì nghề giáo viên
mầm non do tính chất đặc thù của nghề, có đối tượng lao động là trẻ em dưới 6 tuổi
- đây là giai đoạn đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách
nên đòi hỏi các cô giáo phải thực hiện cùng lúc nhiều vai trò trong hoạt động nghề
nghiệp của mình. Gắn liền với đối tượng lao động, giáo viên mầm non không chỉ có
nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhà trường, mà còn phải phổ
biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ em cho các bậc phụ huynh và phối hợp với họ
để thực hiện mục tiêu giáo dục đã đặt ra.
Với những nhiệm vụ và yêu cầu trên, trong một ngày giáo viên mầm non phải giải
quyết các vấn đề nảy sinh từ các mối quan hệ như: mối quan hệ với trẻ, với phụ
huynh, với đồng nghiệp và với ban giám hiệu… Nghiên cứu của Trần Thị Quốc
1
Minh về “Những khó khăn nổi bật trong công tác của giáo viên mầm non các tỉnh,
thành phố phía Nam” cho thấy giáo viên mầm non có 100 khó khăn [51]. Như vậy
có thể thấy, áp lực công việc của giáo viên mầm non cực kỳ lớn. Chính những áp
lực này có thể trở thành tác nhân tạo ra những cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống và
hoạt động nghề nghiệp nếu không được hỗ trợ tham vấn để giúp họ vượt qua những
khó khăn đó.
Thực tế hiện nay cho thấy, tình trạng giáo viên mầm non bỏ nghề ngày càng nhiều.
Theo Vụ Giáo dục Mầm non, Bộ Giáo Dục – Đào Tạo, cả nước còn thiếu trên
20.000 giáo viên mầm non để thực hiện đề án phổ cập cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015,
riêng tại TP.HCM thiếu hơn 2.000 giáo viên, nhiều trường đã phải đưa bảo mẫu lên
thay thế [76].
Trưởng Phòng Giáo dục Mầm non của Sở Giáo Dục và Đào Tạo TP.HCM, cho biết
giáo viên làm việc trong lớp đông trẻ thường bị áp lực cao, nhất là những ngày đầu
tiếp nhận trẻ mới ở các lớp mầm và nhóm nhà trẻ. Lãnh đạo Phòng Giáo dục Mầm
non cũng cho biết thêm, không ít trường vì hiệu trưởng muốn tiết kiệm không xin
thêm giáo viên cho các lớp tăng sĩ số, lại không có bảo mẫu nên giáo viên phải làm
việc rất vất vả, dễ căng thẳng [74]. Nhiều tạp chí cũng như nhiều trang web đã ghi
nhận những khó khăn mà giáo viên mầm non gặp phải trong công việc như: nhiều
phụ huynh không thông cảm với giáo viên, thanh tra thiếu thiện chí, không công
bằng, đồng nghiệp ích kỷ, không không hợp tác, công việc nặng nhọc …
Từ thực trạng ở trên, có thể thấy đời sống và hoạt động nghề nghiệp của giáo viên
mầm non gặp quá nhiều áp lực, bên cạnh đồng lương cơ bản khá thấp làm cho cuộc
sống của họ khó khăn thì những áp lực gặp phải trong công việc lại càng làm cho
giáo viên mầm non luôn ở trạng thái tinh thần căng thẳng, mệt mỏi. Nếu họ không
có sự thông cảm, thấu hiểu từ phía phụ huynh cũng như những người quản lý thì
những cảm xúc tiêu cực ấy sẽ làm giảm sút hiệu quả công việc và có thể ảnh hưởng
xấu đến thể chất và tinh thần của trẻ.
Thực trạng về sức khỏe tinh thần của giáo viên mầm non ở trên cho thấy giáo viên
mầm non cần có được sự hỗ trợ của các nhà tham vấn tâm lý – những người có thể
giúp họ giải tỏa được những căng thẳng trong công việc.
2
Ý thức được vai trò của tham vấn tâm lý trong hoạt động giáo dục và đào
tạo, từ năm 2005, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban hành chỉ thị số 9971/ BGD&ĐT –
HSSV về việc yêu cầu nhà trường triển khai công tác tư vấn cho học sinh, sinh viên
về: hướng nghiệp, chọn nghề, thông tin tuyển sinh, tình yêu, giới tính, … [9]. Tuy
nhiên, Chỉ thị này lại không đề cập đến việc tư vấn cho những người làm công tác
giáo dục, trong đó có ngành Giáo dục mầm non.
Hiện nay, rất ít các công trình nghiên cứu quan tâm đến nhu cầu tham vấn tâm lý
của những người đang làm trong ngành mầm non.
Từ những lý do nêu trên cho thấy nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên ngành
mầm non là một nhu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, người nghiên cứu chọn nghiên cứu đề
tài: “Nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non tại một số
trường mầm non ở TP.HCM. Trên cơ sở đó, đề ra một số biện pháp nhằm đáp ứng
nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non.
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Giáo viên mầm non và Ban Giám hiệu tại một số trường mầm non ở
TP.HCM.
4. Giới hạn nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non ở một số
vấn đề như sau:
- Về nội dung: Đề tài tập trung vào các lĩnh vực tham vấn, nội dung tham vấn,
nguyên nhân và hình thức tham vấn tâm lý.
- Về địa bàn: Nghiên cứu tại một số trường mầm non Công lập và Tư thục Quận 8,
9, 11, Quận Thủ Đức và Củ Chi ở TP.HCM.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Giáo viên mầm non tại TP.HCM có nhu cầu tham vấn tâm lý.
3
- Có sự khác biệt ý nghĩa về nội dung tham vấn tâm lý thuộc lĩnh vực chuyên môn
nghề nghiệp giữa các nhóm giáo viên theo khu vực và năm trong nghề.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hoá tài liệu để làm cơ sở lý luận của đề tài
6.2. Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non tại
TP.HCM
6.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo
viên mầm non.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp chủ yếu của
đề tài.
Thể thức: Yêu cầu giáo viên trả lời những câu hỏi trên các phiếu điều tra.
Gồm có 2 bảng hỏi:
+ Bảng hỏi mở (bảng thăm dò ý kiến): gồm có 6 câu hỏi điều tra trên 10
chuyên gia và 30 giáo viên mầm non tại TP.HCM.
+ Bảng hỏi đóng: gồm có 7 câu hỏi điều tra trên 310 giáo viên mầm non và
Ban Giám hiệu ở một số trường mầm non tại TP.HCM.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn:
Tìm hiểu sâu hơn về nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên và các biện pháp
cần thiết để đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của giáo viên mầm non.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
Thu thập những thông tin ban đầu để làm cơ sở cho việc xây dựng phiếu
khảo sát và các biện pháp tác động đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của
giáo viên mầm non.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS for Windows 11.5 để xử lý số liệu
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ
CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề về tham vấn tâm lý
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về tham vấn tâm lý ở nước ngoài
Từ thế kỷ XIX, nhiều hoạt động khác nhau như phong trào vận động cải cách
xã hội với những thay đổi trong phương thức giúp đỡ người nghèo, người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, trong lĩnh vực y tế có những phương pháp điều trị nhân
văn hơn cho các bệnh nhân tâm thần, việc ứng dụng ngày càng rộng rãi các liệu
pháp tâm lý trong giáo dục – hướng nghiệp và trong trợ giúp các đối tượng có khó
khăn về tâm lý trong cộng đồng … tất cả đã góp phần xây dựng nên ngành tham vấn.
Cuối thế kỷ thứ XIX công tác trợ giúp tập trung vào việc cung cấp những phúc lợi
căn bản cho người nghèo, hướng đến việc cho lời khuyên và cung cấp thông tin
mang tính giáo dục cho mọi người nói chung và giới trẻ nói riêng có cuộc sống tốt
hơn và có kỹ năng thích ứng với lao động công nghiệp. Trong giai đoạn này, công
tác hướng dẫn nghề – tham vấn nghề với sự phát triển của phong trào sử dụng các
thang đo – trắc nghiệm, của các lý thuyết nghiên cứu về tâm lý cá nhân và sự ứng
dụng đầu tiên của thuyết phân tâm học vào quá trình trị liệu những rối loạn tâm lý
của con người. Những người đóng góp cho sự ra đời của tham vấn hướng nghiệp
trong giai đoạn này là: Francis Galton, Wilheim Wundt, James Catell, G. Stanley
Hall, Alfred Binet, Jesse Davis, Frank Parsons, Robert Yerkers.
Trong suốt thế kỷ XIX, kết quả nghiên cứu của khoa học thực nghiệm ứng dụng cho
con người là sự phát triển của các trắc nghiệm tâm lý và giáo dục. Francis Galton
(1822 – 1911) và Wilheim Wundt (1832 – 1920), đây là những nhà tâm lý học ứng
dụng người Anh đầu tiên đã phát triển phòng thực nghiệm để kiểm tra sự khác biệt
về thể chất và tâm lý của con người. Định hướng khoa học này trong lĩnh vực tâm
lý học nhanh chóng phát triển ở Mỹ, G. Stanley (1846 – 1924) và James Cattel
(1860 – 1940), những nhà tâm lý học thực nghiệm Mỹ lần đầu tiên đã mở phòng
thực nghiệm tại Đại học Harvard và Đại học Pennsylvania [63; tr.18 – 20]
5
Vào đầu thế kỷ XX, những trắc nghiệm về năng lực như: Trắc nghiệm đánh giá
thành tựu đạt được ở trường học và trắc nghiệm đánh giá nhân cách được phát triển.
Công tác hướng nghiệp phát triển dựa trên khoa học trắc nghiệm kiểm tra sự khác
biệt tâm - sinh lý của các cá nhân đã đánh dấu giai đoạn ứng dụng rộng rãi ban đầu
của các công cụ đo lường và nhanh chóng được sử dụng để trợ giúp các cá nhân
trong việc ra quyết định chọn nghề.
Năm 1907, Jesse Davis (1817 – 1955) đã xây dựng cơ sở đào tạo đầu tiên về
công tác hướng dẫn nghề tại Michigan. Jesse B. Davis có thể được xem là một trong
những người đầu tiên trong lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “Những
hướng dẫn về nghề nghiệp và đạo đức” cho học sinh các trường học công. Tuy
nhiên người có ảnh hường lớn nhất đến công tác hướng nghiệp ở Mỹ là Frank
Parsons (1854 – 1908), được xem như cha đẻ của nghề Hướng dẫn đã viết cuốn
sách “Chọn lựa một nghề” vào năm 1909, qua đó trình bày phương pháp kết nối
những đặc điểm tính cách của một cá nhân với một nghề nghiệp. Với lý thuyết
mang tên “Nhân cách và yếu tố”, Frank Parsons cho rằng, thông qua việc làm các
trắc nghiệm tâm lý sẽ phát hiện ra những đặc điểm nhân cách khác nhau của mỗi
người. Sau khi tìm ra các đặc điểm nhân cách của mỗi cá nhân, nhà tham vấn giúp
cá nhân đó tìm hiểu về phân loại các công việc trong thị trường lao động và việc
làm cuối cùng là kết hợp giữa những đặc điểm nhân cách với những công việc làm
phù hợp. Những tư tưởng của F. Parsons trong công tác hướng nghiệp đã thực sự
trở thành nguyên tắc của nghề tham vấn sau này. F. Parsons đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc phải có một người hướng dẫn chuyên nghiệp và người hướng dẫn tốt
không thể đưa ra các quyết định cho người khác, vì tự mỗi người mới biết phải
quyết định điều gì tốt nhất cho chính bản thân mình.
Jesse Davis, Frank Parsons, Eli Weaver và nhiều người khác nữa đã tạo thành một
trào lưu thúc đẩy cho sự phát triển của ngành tham vấn học đường.
Xét ở góc độ phát triển các lý thuyết tâm lý học phải kể đến các nhà tiên
phong của trường phái phân tâm là Sigmund Freud, Anna Freud, Malanie Klein,
Donald Winnicott, Carl Jung … Phép trị liệu phân tâm của S. Freud đều xuất phát
từ những khám phá về các quá trình vô thức và các cơ chế phòng vệ chúng xuất
6
hiện khi con người có xáo trộn về cảm xúc, nhằm để tự vệ trước những kinh nghiệm
đau buồn mà con người không đủ sức ứng phó. Các nhà tham vấn đã vận dụng
những lý thuyết của S. Freud vào việc giúp đỡ phân chủ thoát khỏi những rối nhiễu
tâm lý
Vào giữa thế kỷ thứ XX, tham vấn tâm lý đã phát triển thành một ngành
chuyên nghiệp. Năm 1930, E.G. Williamson đưa ra một lý thuyết hoàn chỉnh về
tham vấn với tên gọi là “Tiếp cận đặc điểm và nhân tố”, ông đã xây dựng các bước
của một hoạt động tham vấn như sau:
- Phân tích đánh giá vấn đề và lập hồ sơ tiếp xúc và trắc nghiệm đối với thân chủ.
- Tổng hợp, tóm tắt và sắp xếp thông tin để hiểu vấn đề
- Chẩn đoán, làm sáng tỏ vấn đề
- Tham vấn, trợ giúp cá nhân tìm cách giải quyết
- Theo dõi sự tiến triển cùng thân chủ
Theo Patterson, sự khác nhau cơ bản của tiếp cận theo đặc điểm và nhân tố
so với tham vần hướng nghiệp giai đoạn đầu thế kỷ là việc xác định được một chuỗi
các bước của một hoạt động trợ giúp. Đây chính là tiền thân của “Quá trình tham
vấn” [17; tr. 65 – 66].
Thập niên 50 của thế kỷ XX, giai đoạn có sự ra đời của rất nhiều học thuyết nghiên
cứu về quá trình phát triển tâm lý con người như: thuyết phát triển tâm lý xã hội,
thuyết phát triển tư duy trẻ em, thuyết phát triển nhu cầu con người, thuyết gắn bó
mẹ – con, thuyết tổn thương tâm lý, thuyết phát triển đạo đức con người đã cho
phép các nhà tham vấn vận dụng để giúp đỡ cho thân chủ của mình. Các học thuyết
này là cơ sở khoa học cho việc nhận biết, giải thích nguồn gốc của hành vi và các
biểu hiện rối loạn tâm lý con người.
Cũng vào những năm 50 của thế kỷ XX, phương pháp thân chủ làm trọng
tâm của C. Rogers (1902 – 1987) là một bước chuyển từ sự tham vấn có định
hướng, tham vấn tập trung vào thân chủ và vấn đề của họ với tập sách Tham vấn và
trị liệu tâm lý, cuốn sách có ảnh hưởng rất lớn đến nghề tham vấn chuyên nghiệp
sau này.
7
Bên cạnh cách tiếp cận phân tâm của S. Freud, tiếp cận thân chủ trọng tâm của C.
Rogers, thập niên 60 của thế kỷ XX đánh dấu sự ra đời của nhiều cách tiếp cận mới
như tiếp cận xúc cảm thuần túy của Albert Ellis, tiếp cận hành vi của Bandura, tiếp
cận ứng xử học của Bern, tiếp cận hiện sinh của Arbuckle… Tất cả các hướng tiếp
cận tham vấn này giúp cho sự phát triển của ngành tham vấn trong suốt thế kỷ XX.
Các kiến thức của tâm lý học thực sự đã ảnh hưởng và trợ giúp rất nhiều cho ngành
tham vấn: Tâm lý học nhân cách giúp làm sáng tỏ các quan điểm về cấu trúc nhân
cách con người đồng thời cũng giúp các nhà tham vấn tôn trọng nhân cách của
người khác trong mối quan hệ tham vấn. Tâm lý học chẩn đoán cung cấp những
phương pháp phổ biến về chẩn đoán tâm lý. Kiến thức tâm lý học hành vi lệch
chuẩn giúp nhà tham vấn nắm được các cách tiếp cận khác nhau về hành vi chuẩn
mực, bệnh lý và sai lệch, phân loại được các hành vi lệch chuẩn căn cứ vào các tiêu
chí khác nhau. Các lý thuyết trong tâm lý học phát triển giúp cho các nhà tham vấn
hiểu được các quá trình phát triển tâm lý của con người trong các giai đoạn phát
triển khác nhau. Các kiến thức này giúp cho nhà tham vấn hiểu được mức độ phát
triển ở từng lứa tuổi và các giai đoạn khủng hoảng mà con người có thể gặp phải
trong các độ tuổi nhất định. Như vậy, các kiến thức tâm lý học đã trở thành nền tảng
cho các nhà tham vấn sử dụng trong nghiên cứu và quá trình tham vấn của mình.
Giai đoạn từ cuối thế kỷ XX cho đến nay, các nhà tham vấn cho rằng sẽ rất
khó khăn trong việc giúp đỡ khách hàng nếu nhà tham vấn không nắm được nền
tảng văn hóa của khách hàng. Vì thế, một trong những thay đổi lớn nhất của tham
vấn tâm lý là tập trung vào lĩnh vực văn hóa hay còn được hiểu là tham vấn xuyên
văn hóa. Những vấn đề văn hóa liên quan đến gen di truyền, màu da, truyền thống,
vị trí xã hội, quyền lực, vấn đề tiên bạc… đều có liên quan đến sự nảy sinh nan đề
của thân chủ. Khi các nhà tham vấn thiếu hiểu biết về nền tảng văn hóa của thân chủ
thì họ dễ đứng trên quan điểm của bản thân để đánh giá thân chủ. Điều này có thể
dẫn đến sự chẩn đoán nhầm và có thể gây ra những tổn thương cho thân chủ. Các
nhà tham vấn Whitfield, McGrath và Coleman chỉ ra các yếu tố xác định một mô
hình văn hóa cụ thể đó là: Đặc điểm bản thân cá nhân, diện mạo và cách ăn mặc, có
niềm tin và hành vi đặc trưng, mối liên hệ với gia đình và với các đặc trưng quan
8
trọng khác, cách dành và sử dụng thời gian nhàn rỗi, cách tiếp thu và sử dụng kiến
thức, cách thức giao tiếp và ngôn ngữ, những giá trị và các tập tục, cách sử dụng
thời gian và không gian sống, thói quen ăn uống và cách chế biến món ăn theo
phong tục tập quán, công việc và cách thức thực hiện công việc [17; tr. 68 – 69].
Sự hiểu biết về nền tảng văn hóa của thân chủ được thể hiện qua thái độ, kỹ năng và
phương pháp tiếp cận thân chủ sẽ giúp cho nhà tham vấn lý giải được lý do nào,
điều gì khiến họ cảm nhận, suy nghĩ và hành động như vậy.
Như vậy, ngành tham vấn tâm lý thật sự trở nên chuyên nghiệp trên thế giới
khi các học thuyết nghiên cứu tâm lý người phát triển, các hướng tiếp cận trị liệu
tâm lý với cá nhân, trị liệu nhóm đã thay đổi và hoàn chỉnh cho phù hợp với ngành
tham vấn. Các tổ chức, các hiệp hội tham vấn ra đời quy định các chuẩn mực đạo
đức và pháp lý cho người làm công tác trợ giúp. Các hiệp hội, trường học đào tạo
nghề tham vấn phát triển mạnh, đa dạng và công tác giám sát tham vấn theo hướng
ngày càng khoa học và kiểm soát chặt chẽ. Những người hoạt động trong lĩnh vực
tham vấn đã được bằng cấp hóa và xây dựng được những mô hình đào tạo nhà tham
vấn chuyên nghiệp theo hướng chuyên sâu. Sự phát triển mạnh của ngành tham vấn
tâm lý ở các nước phương Tây, kể cả một số nước trong khu vực như Singapore,
Thái Lan... Trong mỗi khu dân cư với số lượng vài chục nghìn dân, người ta thường
bố trí một trung tâm tham vấn (Counseling Center) hay văn phòng dịch vụ gia đình
(Family Services) để triển khai các hoạt động trợ giúp xã hội. Singapore với số dân
chưa đến 4 triệu nhưng có tới trên 300 cơ sở thực hiện dịch vụ này. Hệ thống dịch
vụ gia đình hay trung tâm tham vấn tỏ ra rất hữu hiệu trong việc giúp đỡ cá nhân và
gia đình tháo gỡ những khó khăn, đặc biệt là trong quan hệ hôn nhân, gia đình, hay
trong nuôi dạy con cái. Dịch vụ tham vấn còn được đưa vào trong hệ thống các
trường học. Tại các trường phổ thông, người ta sử dụng mô hình Công tác xã hội
học đường (School Social Work) trong đó có hoạt động tham vấn nhằm giúp đỡ
những học sinh, phụ huynh học sinh có con gặp khó khăn trong hành vi và học tập,
giải quyết những mối quan hệ bất đồng giữa thầy cô và học sinh, giữa học sinh và
học sinh. Theo kết quả điều tra của Lim Peng Ann: Năm 1999, có tới 60% số trường
phổ thông Singapore có triển khai công tác xã hội học đường, trong đó có hoạt động
9
tham vấn toàn thời gian hay bán thời gian. Hầu hết các trường đại học, cao đẳng ở
các nước phát triển đều có trung tâm tham vấn (Student’s Councelling Center)
nhằm giúp sinh viên giải toả những khó khăn trong học tập, trong quan hệ bạn bè,
gia đình và các quan hệ xã hội khác. Những khó khăn trong hòa nhập của các sinh
viên sẽ được trung tâm này giúp đỡ tháo gỡ qua loại hình tham vấn nhóm hay tư
vấn cung cấp thông tin. Sự căng thẳng trong học tập ở cường độ cao của các sinh
viên là một trong những vấn đề thường gặp và được các nhà tham vấn tại trung tâm
hỗ trợ giải tỏa thông qua các hình thức tham vấn khác nhau [47].
1.1.2.Các công trình nghiên cứu về tham vấn tâm lý ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, nhiều người đã biết và đã sử dụng các dịch vụ tư vấn
tâm lý. Các dịch vụ này bắt đầu phát triển mạnh từ giữa những năm 90, nhưng trước
đó các kỹ thuật tư vấn đã được các bác sĩ tâm thần, bác sĩ nhi khoa thực hiện trong
quá trình điều trị các bệnh nhân bị rối nhiễu tâm lý hay rối loạn tâm thần. Họ vừa trị
liệu, vừa tư vấn cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân cách khắc phục bệnh tật.
Nhìn từ góc độ hoạt động tâm lý, theo đánh giá của thạc sỹ Nguyễn Thị Oanh,
“Phòng tư vấn tâm lý” đầu tiên được thành lập ở TP.HCM năm 1988, do Tiến Sĩ
Tâm lý Tô Thị Ánh phụ trách. Các đối tượng đến đây xin tư vấn thuộc mọi thành
phần và các nhu cầu trợ giúp cũng đa dạng [17; tr.73].
Vào những năm 1997 – 2000, tại Thành phố Hồ Chí Minh có các phòng tham
vấn HIV xuất hiện. Ngoài ra, các trung tâm tư vấn khác như: Trung tâm tư vấn Tình
yêu, Hôn nhân, Gia đình thuộc Hội Tâm lý giáo dục thành phố, Trung tâm tư vấn
Hướng Dương thuộc Liên đoàn lao động TP.HCM … Nhiệm vụ của các trung tâm
này nhằm cung cấp thông tin, giải đáp thắc mắc và cho lời khuyên, chủ yếu tư vấn
thông qua điện thoại.
Hiện nay, nhiều dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lý xuất hiện ở khá nhiều
công ty, cơ quan và trường học. Có thể kể ra một số cơ sở tham vấn, trị liệu, như:
Cơ sở thăm khám tâm lý trẻ em N-T của cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Trung tâm
Tư vấn và Hỗ trợ tâm lí (Trường học Khoa học Xã hội và Nhân văn), Trung tâm
Ứng dụng Tâm lý học của Viện Tâm lý học, Trung tâm Tư vấn và Dịch vụ Truyền
10
thông, Trung tâm Tham vấn Tâm lý Hoàng Nhân, Công ty Tư vấn An Việt Sơn,
Trung tâm Tư vấn Giáo dục – Tâm lý – Thể chất (1088- TP.HCM)… Tại một số hội
thảo trong nước bàn về vấn đề an sinh xã hội, công tác xã hội... tham vấn được nhắc
tới như một dịch vụ cần thiết mặc dù đã có không ít các tranh luận về khái niệm và
sự phân định với các dịch vụ khác hiện đang có ở Việt Nam.
Trong một số đề tài khoa học, tạp chí chuyên ngành, tài liệu giảng dạy, vấn đề tham
vấn tâm lý được đề cập ngày một nhiều hơn. Trong thực tiễn triển khai các chính
sách, chương trình phát triển xã hội, tham vấn tỏ ra là một trong những kỹ năng
quan trọng, giúp các cán bộ xã hội thực thi nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, vào
những năm gần đây, tại các khoá tập huấn của các ngành Lao động, Thương binh và
Xã hội, Uỷ ban Dân số, Trẻ em và Gia đình, Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ, các khoá
tập huấn của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như của UNDP, UNICEF, Trăng lưỡi
liềm đỏ... nội dung tham vấn đã được đưa vào như một phần quan trọng của chương trình.
Từ những năm 90, với sự trợ giúp kinh phí khoa học của nhà nước và các tổ
chức khác trong nước cũng như quốc tế, các nhà tâm lý học Việt Nam đã tiếp cận
được với những tổ chức tâm lý học các nước trên thế giới như: Mỹ, Úc, Canađa,
Pháp… trong số đó có rất nhiều nhà tâm lý học thực hành thuộc các trường phái
khác nhau: Adler, Phân tâm học, Tâm lý học hành vi … Những cuộc đối thoại về
chuyên môn, nghề nghiệp, định hướng phát triển khoa học tâm lý đã củng cố thêm
những điều kiện cần thiết cho sự hình thành một phân ngành khoa học mới – Tham
vấn tâm lý ở Việt Nam.
Những nghiên cứu về nhu cầu và thực trạng của hoạt động tham vấn
tâm lý ở Việt Nam
Nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động tham vấn tâm lý như:
Những nghiên cứu về lĩnh vực tham vấn học đường, hướng nghiệp, những nghiên
cứu về việc sử dụng các kỹ năng tham vấn của chuyên viên tham vấn, những nghiên
cứu về tham vấn tâm lý trong hoạt động giáo dục phạm nhân trẻ vị thành niên,
những nghiên cứu về nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân.
11
Các nghiên cứu về tham vấn học đường
Nghiên cứu thực trạng tham vấn hướng nghiệp tại Việt Nam của tác giả Đỗ
Thị Lệ Hằng, nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 10, 11, 12 ở 6 trường tại Hà
Nội, Đà Nẵng và TP.HCM. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy: Đã có nhiều hình
thức tư vấn hướng nghiệp được triển khai cho học sinh ở 3 điểm nghiên cứu nhưng
nội dung chủ yếu chỉ là cung cấp thông tin về trường thi, khối thi … mà chưa đi sâu
cung cấp về những đánh giá cụ thể năng lực, tính cách, sở thích của từng cá nhân
việc sử dụng các công cụ trắc nghiệm còn hạn chế. Nguồn lực được đào tạo bài bản
cho công tác tư vấn hướng nghiệp hầu như chưa có [29; tr. 40 – 49].
Nghiên cứu yếu tố giới trong tham vấn học đường của tác giả Trần Thị Minh
Đức, Đỗ Hoàng. Qua kết quả, tác giả kiến nghị các chuyên viên tham vấn cần được
tham gia các khóa học nâng cao nhận thức giới để khuyến khích nhà tham vấn học
đường tích cực nhận ra sự bất bình đẳng giới, khuyến khích sự hợp tác và mối quan
hệ tham vấn bình đẳng [21; tr. 45 – 51].
Nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý và giáo dục dưới góc nhìn của Sinh
Viên Cao Đẳng Sư Phạm TPHCM do tác giả Nguyễn Việt Bắc, nội dung khảo sát
tập trung vào những vấn đề mà sinh viên trường CĐSP TPHCM mong muốn được
tham vấn cũng như những hình thức tham vấn nào là sinh viên cảm thấy thích hợp
nhất [3].
Những nghiên cứu về tham vấn tâm lý cho trẻ vị thành niên phạm pháp
Nghiên cứu “Nhu cầu hoạt động tham vấn ở các trường giáo dưỡng”. Tác giả
Đỗ Ngọc Khanh thực hiện năm 2007 ở 3 trường giáo dưỡng ở 3 khu vực: Bắc,
Trung, Nam, thông qua việc tìm hiểu cảm xúc của trẻ và nhu cầu tham vấn tâm lý
của trẻ vị thành niên trong 3 trường. Kết quả cho thấy, cả giáo viên và học sinh đều
khẳng định: Hoạt động tham vấn tâm lý ở trường rất có ích và có hiệu quả [39; tr.
22 - 26].
Nghiên cứu vai trò của tham vấn tâm lý trong hoạt động giáo dục, cảm hóa
phạm nhân là người chưa thành niên của tác giả Đặng Thanh Nga. Thông qua việc
nghiên cứu phân tích các trường hợp tham vấn trực tiếp, tác giả cho rằng: biện pháp
tham vấn tâm lý cá nhân giữ vai trò quan trọng trong hoạt động giáo dục phạm nhân
12
là trẻ chưa thành niên phạm tội tuy nhiên biện pháp này vẫn chưa có hiệu quả cao.
Vì vậy, người tham vấn phải có sự hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi, các kiến thức
trong lĩnh vực tâm lý và giáo dục, cần thiết lập mối quan hệ cởi mở, tin tưởng lẫn
nhau giữa nhà tham vấn và đối tượng [55; tr. 24 - 30].
Những nghiên cứu về các kỹ năng tham vấn của nhà tham vấn
Nghiên cứu của tác giả Võ Thị Tường Vy về một số kỹ năng tham vấn của
tham vấn viên tâm lý trên địa bàn TP.HCM. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy: Các
tham vấn viên nhận định đã nắm vững và sử dụng thành thạo phần lớn các kỹ năng
trong tham vấn, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những nhận định khá mơ hồ về một số kỹ
năng tham vấn, đặc biệt là kỹ năng hỏi trong tham vấn. Từ đó tác giả đề nghị cần
trang bị cho tham vấn viên tâm lý những kỹ năng thật chuẩn xác và có hệ thống [65;
tr. 31 - 37].
Nghiên cứu thực trạng kỹ năng hỏi trong tham vấn của cán bộ xã hội của tác
giả Bùi Thị Xuân Mai nghiên cứu trên 177 cán bộ xã hội. Kết quả cho thấy các cán
bộ xã hội có nhận thức đúng về mục đích của việc lắng nghe. Tuy nhiên, sự ít quan
tâm đến suy nghĩ, cảm xúc của đối tượng bởi các hành vi ghi chép, suy đoán khi
lắng nghe ở một số cán bộ xã hội vẫn cón hạn chế. Từ đó tác giả đề xuất cần rèn
luyện kỹ năng lắng nghe trong tham vấn cho cán bộ xã hội [48; tr. 31 - 38].
Những nghiên cứu về thực trạng tham vấn và nhu cầu tham vấn
Nghiên cứu “Thực trạng tham vấn tâm lý tại TP.HCM”của nhóm nghiên
cứu: Trần Thị Giồng và Đỗ Văn Bình (2003), Qua kết quả, nhóm nghiên cứu đưa ra
những kiến nghị cần thiết: Cần mở các cơ sở tham vấn tâm lý có chế độ kiểm tra,
giám sát, hỗ trợ. Thành Phố cần đầu tư đào tạo chuyên viên tham vấn tâm lý dài hạn
ở nước ngoài, khuyến khích các trường đại học, Hội Khoa học Tâm lý – giáo dục
mở ngành đào tạo tham vấn tâm lý và bồi dưỡng cho đội ngũ tham vấn hiện nay [4;
tr. 28 - 31].
Nghiên cứu về “nhu cầu tham vấn tâm lý - giới tính cúa học sinh một số
trường trung học tại TP.HCM của tác giả Ngô Đình Qua, Nguyễn Chí Thượng cho
thấy nhu cầu tham vấn tâm lý ngày càng tăng và các em mong muốn có phòng tham
vấn giới tính miễn phí [57].
13
Những nghiên cứu về nhu cầu tham vấn tâm lý trên đối tượng là người lao động
Tìm hiểu stress nghề nghiệp của nữ công nhân một số công ty tại khu công
nghiệp Biên Hòa của tác giả Trịnh Thị Minh Dung. Dựa vào kết quả khảo sát trên
168 nữ công nhân lao động đang làm việc tại các công ty, tác giả đưa ra kiến nghị:
cần thành lập, xây dựng các khu vui chơi, giải trí để công nhân sử dụng thời gian
rỗi, giảm căng thẳng trong giờ làm việc, tổ chức các dịch vụ tư vấn tâm lý cá nhân,
các giải pháp ứng phó với stress [12].
Nghiên cứu nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tham vấn tâm
lý trong doanh nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Tâm nghiên cứu trên 239 người lao
động làm việc tại các doanh nghiệp và 80 nhà quản lý. Thông qua kết quả nghiên
cứu, người nghiên cứu đưa ra kiến nghị, các doanh nghiệp cần quan tâm chăm sóc
đời sống tinh thần cho người lao động, các cán bộ công đoàn cần được trang bị các
kỹ năng, cần có các chuyên viên tham vấn tâm lý trong doanh nghiệp [59].
Nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận
tại TP.HCM của tác giả Phùng Thị Hương Nga. Qua khảo sát tác giả kết luận rằng,
công nhân khu chế xuất Tân Thuận có nhu cầu tham vấn mức cao do xảy ra nhiều
xung đột. Qua đó tác giả đề xuất cần tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để giúp
giảm bớt những xung đột tâm lý cho công nhân. Đồng thời, cần có các hình thức
tham vấn tâm lý phong phú để đáp ứng nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân [54].
Tóm lại: Trong cuộc sống hằng ngày, con người thường phải đối mặt với nhiều tình
huống phức tạp, luôn phải trải qua những cảm xúc tiêu cực như buồn chán, tức giận,
thất vọng, đau khổ … Lúc ấy họ hay tâm sự với những người thân trong gia đình,
với bạn bè, với những người có kinh nghiệm và đáng tin cậy để tìm cách giải quyết
những tình huống khó khăn gặp phải, giải tỏa các cảm xúc tiêu cực đã nảy sinh. Khi
không thể tâm sự với những người thân xung quanh hoặc muốn tham khảo nhiều ý
kiến, họ tìm đến các trung tâm tư vấn nhờ các chuyên gia giúp giải quyết các vấn đề
của bản thân.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế đó của xã hội, tâm lý học tư vấn bắt đầu phát
triển như một chuyên ngành của khoa học tâm lý, cùng với nó là tâm lý học lâm
sàng phát triển như một phân ngành của tâm lý học y học. Có thể nói, tâm lý học tư
14
vấn và tâm lý học lâm sàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Cả hai cùng một mục
đích giúp đỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn của khách hàng. Trong khi tâm lý
học lâm sàng tập trung vào những yếu tố bệnh lý của chứng rối loạn tâm thần hay
các rối nhiễu tâm lý thì tâm lý học tư vấn giúp những người bình thường giải quyết
những khó khăn trong đời sống gia đình, ở cơ quan, ngoài xã hội.
Bên cạnh sự bùng nổ của các trung tâm tham vấn tâm lý, các công trình nghiên cứu
về nhu cầu tham vấn tâm lý ở các lĩnh vực ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa đồng
bộ và rộng khắp ở các đối tượng. Các công trình nghiên cứu trên đối tượng người
lao động chủ yếu là công nhân, còn các đối tượng khác như cán bộ công chức, giáo
viên, đặc biệt là giáo viên mầm non thì chưa được quan tâm nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1 Nhu cầu
1.2.1.1 Khái niệm nhu cầu
Nghiên cứu nhu cầu cá nhân, trong tâm lý học có nhiều cuộc tranh luận về
vấn đề: hành vi của con người có được quy định bằng tác động bên ngoài hay bởi
một số “sức mạnh bên trong”. Xung quanh vấn đề này có nhiều quan điểm khác
nhau:
Quan điểm của chủ nghĩa hành vi, các tác giả đại diện như: V. Koller, E.
Thorndike, N.E. Miller… giải thích hành vi như hệ thống xác định các đáp ứng đối
với tác động bên ngoài [43; tr 549].
Nhà Phân tâm học S. Freud nhìn thấy mọi hành vi của con người có động cơ
từ những đam mê và bản năng. Ông khẳng định: Tất cả hành vi của con người đều
hướng tới việc thỏa mãn những nhu cầu của cơ thể [43].
Nhà tâm lý học nổi tiếng Mac Đaugôn trong cuốn sách “Tâm lý học xã hội” đã
khẳng định rằng: Tư duy và hành vi của con người được xác định bằng các bản
năng, các thái độ mang tính bản năng. Ông phân ra các bản năng sau: ngạc nhiên,
thích đánh nhau, tự hạ mình, tự khẳng định, tái sản xuất, tính bầy đàn, sở hữu và
thiết kế. Những người kế tục Mac Đaugôn bổ sung danh sách này bằng các bản
năng của con người như: cạnh tranh, tính kín đáo, tính kiềm chế, bắt chước, ghen
15
tuông … Mỗi hình thức hành vi được giải thích bằng bản năng đặc biệt (nhu cầu tự
nhiên) [43; tr. 550].
Đại diện học thuyết Nhân cách xã hội, tác giả Erich Fromm (1900 – 1980) có
một cách nhìn khác, ông gọi những khao khát tinh thần nơi mỗi cá nhân là những
nhu cầu của con người. Ông đề nghị năm nhu cầu cơ bản của con người: sự liên hệ,
sáng tạo, nguồn cội, cảm giác mình có một nhân vị, nhu cầu về một khung định
hướng [58; tr. 135 - 139].
Henrry Murray, nhà tâm lý học người Mỹ cho rằng nhu cầu là một động lực
xuất phát từ cơ thể và sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi phải có sự tác động qua lại với
các tình huống xã hội, phải có sự cải tổ chúng nhằm mục đích đạt được sự thích ứng
[26; tr.172].
Nhà tâm lý học nhân văn A.Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong chính bản
tính của con người. Quan điểm đó được thể hiện ở việc giải thích nét đặc thù của
nhu cầu, làm sáng tỏ hệ thống nhu cầu từ sinh lý đến tinh thần được phân định theo
thứ bậc từ thấp lên cao, tất cả tạo thành động lực của hành vi mà động cơ mạnh nhất
là nhu cầu [58; tr. 205 – 209].
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin: “nhu cầu là
những đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định đảm
bảo cho sự sống và sự phát triển của con người” [7; tr. 192].
Như vậy, để tồn tại và phát triển, cá nhân đòi hỏi ở môi trường xung quanh những
cái cần thiết cho mình, sự đòi hỏi ấy được gọi là nhu cầu cá nhân. Nói đến nhu cầu
là nói đến sự đòi hỏi của cá nhân về một cái gì đó ở ngoài nó. Cái đó có thể là một
sự vật, một hiện tượng hoặc những người khác. Như vậy, nhu cầu biểu lộ sự gắn bó
của cá nhân với thế giới xung quanh, sự phụ thuộc của cá nhân vào thế giới đó.
Theo A.N. Leonchiev, nhu cầu là một trạng thái của con người, cần một cái gì
đó cho cơ thể nói riêng, con nguời nói chung để sống và hoạt động. Nhu cầu bao
giờ cũng phải là nhu cầu về một cái gì đó, nghĩa là nhu cầu phải có đối tượng. Với
tính chất là một cá nhân, chủ thể sinh ra đã có nhu cầu nhưng nhu cầu với tính chất
là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt động [43; tr. 161 – 162].
Ông cho rằng, trong tâm lý học về nhu cầu, cần phân biệt rõ hai khía cạnh của nhu cầu:
16