Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian bến tre qua một số thể loại tiêu biểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.87 KB, 161 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Thanh Sang

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN BẾN TRE
QUA MỘT SỐ THỂ LOẠI TIÊU BIỂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Thanh Sang

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN BẾN TRE
QUA MỘT SỐ THỂ LOẠI TIÊU BIỂU
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG



Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

2


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Mục lục
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………. 3
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu…………………………... 3
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………….. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………... 15
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………. 16
5. Đóng góp của luận văn……………………………………………… 17
6. Kết cấu của luận văn………………………………………………… 17
PHẦN NỘI DUNG …………………………………………………… 18
Chương 1: Khái quát về vùng đất và con người Bến Tre…………... 18
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển…………………………………… 18
1.2. Đặc điểm vùng đất và con người…………………………………... 25
Chương 2: Khái quát về diện mạo văn học dân gian Bến Tre……… 37
2.1. Diện mạo văn học dân gian Bến Tre qua tư liệu…………………… 37
2.1.1. Nhận xét tình hình chung………………………………………37
2.1.2. Quá trình chọn lọc tác phẩm………………………………….. 41
2.2. Diện mạo văn học dân gian Bến Tre dưới góc độ cơ cấu và phân bố
thể
loại………………………………………………………………………. 56
2.3. Diện mạo văn học dân gian Bến Tre qua các hình thức sinh hoạt.. 61
2.3.1. Qua lễ hội dân gian………………………………………..... 61


3


2.3.2. Qua tín ngưỡng địa danh……………………………………... 62
Chương 3: Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Bến Tre
qua một số thể loại tiêu biểu…………………………………………. 66
3.1. Những đặc điểm cấu trúc và giá trị nội dung của thể loại truyền
thuyết…………………………………………………………………. . 66
3.1.1. Vấn đề phân loại……………………………………………... 66
3.1.2. Truyền thuyết địa danh………………………………………. 67
3.1.3. Truyền thuyết lịch sử………………………………………… 74
3.1.4. Truyền thuyết sáng tạo văn hóa……………………………… 78
3.2. Những đặc điểm cấu trúc và giá trị nội dung của thể loại cổ tích…. 81
3.2.1. Truyện cổ tích thần kì………………………………………… 82
3.2.2. Truyện cổ tích sinh hoạt………………………………………. 89
3.3. Những đặc điểm cấu trúc và giá trị nội dung của thể loại truyện cười6
3.3.1. Nhận xét về đề tài……………………………………………... 96
3.3.2. Nhận xét về cấu trúc…………………………………………. 112
3.4. Một số đặc điểm và giá trị của thể loại ca dao………………….. 117
3.4.1. Nhận xét về các hình thức diễn xướng………………………. 117
3.4.1. Nhận xét về đề tài……………………………………………. 121
3.4.2. Nhận xét về kết cấu………………………………………….. 140
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………… 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………… 154

4


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu.
Bến Tre là một trong những vùng đất được hình thành và phát triển
sớm ở Nam Bộ - dãi đất luôn nhoài ra biển Đông và mang nhiều điểm đặc biệt
về nhiều phương diện của Tổ Quốc. Từ thế kỉ XVII, trên vùng đất này đã có
những lớp lưu dân đến khai phá và lập nghiệp. Theo thời gian, bằng ý chí và
nghị lực phi thường, họ đã biến vùng đất nê địa sình lầy, hoang vu, hiểm trở
thành một vùng trù phú. Lịch sử gian khổ và khắc nghiệt đó đã hình thành ở
con người nơi đây những nét tính cách, tâm lí riêng góp phần qui định sự đa
dạng và phong phú về văn hóa vùng “Địa linh nhân kiệt này”. Văn học dân
gian Bến Tre hình thành và phát triển trong quá trình đó nên ngoài những
điểm chung, nó còn mang những dáng vẻ khá riêng biệt. Những thể loại văn
học dân gian tiêu biểu như: truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, ca dao
sẽ góp phần cho thấy những đặc trưng riêng đó. Đó cũng chính là lí do mà
chúng tôi sẽ tập trung khảo sát kĩ những thể loại này nhằm gợi lên một số đặc
trưng cơ bản của văn học dân gian vùng đất Bến Tre.
Bến Tre được coi là “một vùng văn hóa lâu đời”. Nhiều nhà khoa học,
nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã tiếp cận vùng văn hóa dân gian Bến Tre
với những mục đích và phương pháp khác nhau. Không ít tác phẩm văn học
dân gian Bến Tre được các nhà nghiên cứu sưu tầm, giới thiệu trong những
công trình công phu về lịch sử, văn hóa vùng đất này: [78], [96], [100]. Cũng
có nhiều công trình nghiên cứu Văn học dân gian vùng đất Bến Tre ở nhiều
giác độ khác nhau trong những mục đích chung là: Sưu tầm và hệ thống hóa
tác phẩm văn học dân gian; Tìm hiểu những nét đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật của thể loại hay tác phẩm. Nhìn chung các công trình nghiên cứu của
các thế hệ đi trước đã phác họa chân xác diện mạo văn hóa, văn học dân gian

5


Bến Tre. Tuy nhiên, hầu hết các công trình (ngoài thể loại ca dao – dân ca

được khảo sát chi tiết và có chiều sâu) đều tập trung vào công việc sưu tầm,
giới thiệu tác phẩm. Những thể loại có trữ lượng tác phẩm khá lớn và rất tiêu
biểu như: truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười chưa được xem xét chi
tiết. Do đó, thiết nghĩ đi sâu vào xem xét, khám phá những thể loại tiêu biểu
này nhằm khái quát một số đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian Bến Tre là
một công việc rất cần thiết. Đó cũng là mục đích chính mà luận văn muốn
hướng đến.
2. Lịch sử vấn đề.
Tìm hiểu và khảo sát các tư liệu sẽ giúp cho chúng tôi định hướng được
hướng tiếp cận và giải quyết vấn đề. Chúng tôi còn xác định rằng ngoài các tư
liệu về văn học dân gian, các tư liệu về địa lí, văn hoá, lịch sử Bến Tre cũng
có liên quan và tác động không nhỏ đến sự tồn tại của văn học dân gian vùng
đất này. Do đó, tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi tiếp cận khảo sát tài liệu
theo các hướng sau đây: Thứ nhất là các tài liệu viết về đề tài mà luận văn
thực hiện: các tài liệu ghi chép tác phẩm văn học dân gian Bến Tre, những
công trình nghiên cứu về các thể loại, tác phẩm văn học dân gian Bến Tre;
Thứ hai, các tư liệu về lịch sử, địa chí, văn hoá ở Bến Tre nếu có liên quan
đến đề tài cũng được khảo sát. Từ những cứ liệu này, chúng tôi sẽ định hướng
cụ thể hơn cho nhiệm vụ khoa học của đề tài.
Sức sống của một vùng đất có nhiều truyền thống văn hoá đã có những
ảnh hưởng sâu rộng đến lòng nhiệt thành của các nhà nghiên cứu khiến việc
sưu tầm nghiên cứu văn học dân gian Bến Tre có từ rất sớm. Có thể chia quá
trình sưu tầm nghiên cứu ấy thành hai thời kỳ: trước và sau năm 1975.
Theo Nguyễn Phương Thảo – một người chuyên nghiên cứu văn hoá,
văn học dân gian ở Bến Tre thì người sưu tầm văn học dân gian Bến Tre sớm
nhất là Trương Vĩnh Ký với những công trình ra đời ở nữa cuối thế kỷ XIX

6



như: Truyện đời xưa (1865), Truyện khôi hài (1882), Hát, Lý, Hò An Nam
(1886). Trong đó, Nguyễn Phương Thảo cũng cho rằng: “Khó có thể xác định
được rạch ròi đâu là văn học dân gian Bến Tre, đâu là văn học dân gian của
vùng khác”. Ông cũng cho rằng cùng chung mục đích này có các công trình
sưu tầm của các tác giả như: Truyện tiếu đàm (1912) của Phụng Hoàng Sang
và Dương Nhiếp; Truyện Ông Ó (1913) của Bùi Quang Nho; Chuyện vui (2
tập) của Huỳnh Khắc Trường [114; 24].
Đến năm 1965, với tâm niệm “Chúng tôi thích làm văn hoá, viết sách,
sưu khảo, tìm hiểu non sông gấm vóc, ghi lại các sự kiện lịch sử từng địa
phương, làm sống lại công nghiệp của tiền nhân có những trang sử oai hùng
làm vẻ vang cho dân tộc” [78; 3], Huỳnh Minh cho xuất bản cuốn sách Kiến
Hoà xưa và nay [78; 3]. Trong công trình này, ông viết về lịch sử hình thành
phát triển, đặc điểm về địa lí tự nhiên, các di tích lịch sử, nhân vật lịch sử và
tín ngưỡng của con người vùng đất Bến Tre xưa. Theo ông quan niệm : “Bến
Tre xưa là một vùng đất quan trọng tại Đồng bằng sông Cửu Long về mặt
kinh tế, văn hoá, tại sao không viết thành quyển sách?” [78; 5]. Trong
chương 3 của công trình này, ông đã giới thiệu một số truyện dân gian Bến
Tre, đa số là giai thoại và những truyện chỉ dừng lại ở mức độ tư liệu ghi chép
lịch sử, cũng có một số truyện đáp ứng được phong cách thể loại.
Năm 1971, Nguyễn Duy Oanh cho ra đời cuốn sách có giá trị lớn về
mặt lịch sử Bến Tre – Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ 1757 đến
1945) [96]. Do mục đích làm sử học như ông đã định hướng từ đầu “Chúng
tôi nghiêng về phần lịch sử, nhất là tiểu sử các danh nhân trong tỉnh, vì
chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là một dịp để nhắc nhở và nhớ ơn các vị tiền
nhân ấy” [96; 10] nên trong quyển sách này, ông chủ yếu nhấn mạnh về các
phương diện lịch sử. Tuy nhiên, ông cũng dành riêng một chương để nói về
Văn chương bình dân ở Bến Tre. Ở các chương viết về lịch sử vùng đất Bến

7



Tre, ông đã cung cấp một cái nhìn khá toàn diện và chi tiết về tỉnh Bến Tre
(từ 1757 đến 1945) ở các mặt như: hình thể,, nhân văn, lịch sử, hành chánh,
kinh tế, giáo dục, y tế, kể cả lịch sử về văn chương, các nhân vật lịch sử, danh
nhân trong tỉnh. Trong đó, ông đưa ra một số nhận định khá chi tiết về con
người Bến Tre và những điều kiện sinh hoạt của họ: “Họ sống về nghề trồng
tỉa, nhứt là làm ruộng, làm vườn, trồng giồng nhiều hơn đánh cá, thủ công
nghệ và thương mại. Họ có đức tính cần cù nhẫn nại. Với sức cần cù nhẫn nại
truyền thống ấy, họ lần lượt biến những rừng rậm thành ruộng đất phì nhiêu,
những giồng khô cằn cỗi thành vùng đất đai mầu mỡ”[96;24]. Về đặc điểm
địa lí Bến Tre, ông nhận xét: “Toàn vùng là một miền phẳng thấp nếu so với
mực nước biển thì cao độ không chỗ nào cao hơn năm thước. Điểm cao nhất
ở tỉnh này nằm ở vùng duyên hải Ba Tri và Thạnh Phú, nơi các dãi đất được
bồi lên tạo thành những “giồng” liên tiếp” [96; 24]. Trong chương giới thiệu
về văn chương bình dân, tác giả không đi vào phân tích đầy đủ về hình thức
cũng như nội dung mỗi tác phẩm. Theo tinh thần đó, tác giả giới thiệu 10
truyện dân gian (mà tác giả gọi là huyền thoại). Bên cạnh đó, tác giả còn giới
thiệu một số câu đố, ca dao, tục ngữ được tác giả chia theo từng thời kì: thời
kì quân chủ (1757 – 1867), thời kì Pháp thuộc ( 1867 đến đầu 1945), thời kì
chuyển mình (1945). Tuy chưa đi vào phân tích cụ thể các tác phẩm văn học
dân gian do mục đích tiếp cận vấn đề, thế nhưng những kiến thức khoa học đã
đưa ra trong công trình này thật sự có ý nghĩa đối với công việc nghiên cứu,
tìm hiểu văn học dân gian trên vùng đất Bến Tre.
Từ sau năm 1975, công việc sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian
có bước phát triển rất rõ. Nhiều nhà nghiên cứu với tâm huyết, lòng nhiệt
thành và tình cảm yêu mến vùng đất đã cho ra đời nhiều công trình có giá trị
lớn. Có thể nhắc đến các công trình sau:

8



Sau nhiều năm sưu tầm nghiên cứu, năm 1981, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và
nhà thơ Lê Giang đã cho ra đời quyển sách Dân ca Bến Tre [134]. Tập sách
dày khoảng hơn 100 trang là công trình đầu tiên giới thiệu một cách bao quát
các thể loại dân ca Bến Tre: hò, lí, nói thơ Lục Vân Tiên, hát huê tình, hát sắc
bùa Phú Lễ mà hai tác giả đã sưu tầm và nghiên cứu. Ở đây các tác giả chú ý
đến phương diện cấu trúc âm nhạc của các làn điệu dân ca Bến Tre, qua đó
các tác giả đã làm rõ một số đặc trưng của các thể loại dân ca ở Bến Tre là
chính. Những giá trị nội dung của ca dao – dân ca đã được khái quát: “Những
bài dân ca Bến Tre được sưu tập, giới thiệu bước đầu trong tập sách này đều
mang nội dung trữ tình trong sáng và chất phác, đề cập đến tình yêu trai gái,
muốn phá vỡ khuôn khổ lễ giáo hà khắc. Một số bài trách móc những ông
chồng phụ bạc, nói lên thân phận người phụ nữ bị ràng buộc bởi tập tục của
chế độ phong kiến, đã kích và châm biếm thói hư tật xấu trong xã hội cũ, vạch
trần những mưu mô thủ đoạn của bọn thống trị, ca ngợi thiên nhiên và lao
động sản xuất, đã góp phần nói lên tiếng nói đấu tranh cho tự do và độc lập
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ vừa qua”
[134; 117]. Ngoài ra, hai tác giả còn dành một chương để nói về “Dân ca Bến
Tre với sự giao lưu nghệ thuật”. Trong chương này, Lư Nhất Vũ và Lê Giang
dành khá nhiều trang để bàn về mối quan hệ, giao lưu giữa dân ca Nam Bộ (ở
Bến Tre) với Trung Bộ qua nghệ thuật âm nhạc; mối quan hệ giao lưu dân ca
từ Bắc chí Nam trên cơ sở phân tích, so sánh cấu trúc, làn điệu của một số bài
hò, lí… ở Bến Tre với các vùng khác. Chẳng hạn như: “Những điệu lí con sáo
Bến Tre, tuy mới nhập vào “đàn sáo Việt Nam”, nhưng tỏ ra cũng có những
dòng máu lâu đời đúng tính qui luật âm nhạc học mà giới nghiên cứu rất
quan tâm “là những thực thể dân tộc âm nhạc học” các bài lí nằm trong hệ
thống lí con sáo đều có những nét chung và nhiều nét khu biệt khá độc đáo
mang sắc thái địa phương vô cùng phong phú. Các điệu lí con sáo ở Bình Đại

9



và Mỏ Cày tỉnh Bến Tre trong gia đình lí con sáo ở Nam Bộ đều đạt được
trình độ thẩm mĩ như vậy, chúng là đặc sản của vùng Đồng bằng Cửu Long,
có tiếng nói riêng, có hình vóc riêng, có hơi thở và sức sống của người Nam
Bộ ở phía Nam đất nước” [143; 106]. Những so sánh này dựa trên nền âm
nhạc là chính. Tuy nhiên có thể tham khảo được một số vấn đề về lịch sử
chuyển hóa văn học dân gian vùng ngoài vào đàn trong từ nhiều thế kỉ trước.
Cũng trên cơ sở đó, các tác giả còn bước đầu đưa ra mối quan hệ, giao lưu
văn hoá Việt – Chăm và Việt – Khmer qua một vài làn điệu dân ca Nam Bộ ở
Bến Tre, đây thực sự là một gợi ý tích cực, quí báu. Có thể nói đây là công
trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt ở góc độ âm nhạc. Tuy nhiên những đóng
góp tích cực của công trình còn có ý nghĩa lớn đối với những nhà nghiên cứu
văn học dân gian nói chung trên vùng đất Bến Tre. Nó có tác dụng mở đầu
cho những công trình sưu tầm, nghiên cứu tiếp sau rộng và sâu hơn.
Ở cấp độ rộng hơn, năm 1984 hai tác giả Lê Giang và Lư Nhất Vũ tiếp
tục cho ra mắt bạn đọc quyển sách Tìm hiểu dân ca Nam Bộ [135]. Tuy
nhiên, phần sưu tập những làn điệu dân ca ở Bến Tre trong công trình này
không có gì mới so với tư liệu được công bố năm 1981 trong công trình Dân
ca Bến Tre chúng tôi đã nói ở trên. Cũng trong năm 1984, các tác giả Bảo
Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị đã cho ra đời
quyển Ca dao Nam Bộ [34]. Công trình có một số bài nghiên cứu về ca dao –
dân ca Nam Bộ. Phần sưu tầm các bài ca dao – dân ca khá phong phú, trong
đó có một số bài nhắc đến địa danh của tỉnh Bến Tre, con người Bến Tre. Tuy
nhiên, các tác giả không ghi cụ thể nơi sưu tầm các bài ca dao – dân ca.
Đáng kể nhất là công trình nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu một cách
khá toàn diện về diện mạo văn học dân gian ở Bến Tre của Nguyễn Phương
Thảo và Hoàng Thị Bạch Liên năm 1988 – công trình Văn học dân gian Bến
Tre [114]. Sau gần 10 năm tiến hành nghiên cứu, sưu tầm điền giả, hai tác giả


10


đã công bố rất nhiều tác phẩm văn học dân gian Bến Tre ở tất cả các thể loại.
Những tác phẩm này được tác giả phân thành các mục: truyện cổ; truyện cười
truyện trạng; ca dao; dân ca; vè; phương ngôn, tục ngữ, câu đố. Trong bài tiểu
luận ở phần đầu, Nguyễn Phương Thảo đã giới thiệu một cách khái quát về
hoàn cảnh tự nhiên và xã hội vùng đất Bến Tre, tình hình sưu tầm và nghiên
cứu văn học dân gian ở Bến Tre – một vùng văn học dân gian. Đáng chú ý
nhất là phần giới thiệu về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của văn học dân
gian Bến Tre. Trong phần này, thứ nhất tác giả đã khái quát một số nội dung
chính của văn học dân gian Bến Tre như: bài ca tự hào về công cuộc khai phá
gian lao; tinh thần chống phong kiến và thái độ phê phán những thói hư tật
xấu; tình cảm đối với quê hương đất nước; khát vọng và hạnh phúc tình yêu
lứa đôi. Trong đó tác giả chỉ ra một số nét riêng về nội dung của văn học dân
gian vùng đất này như: “Trong văn học dân gian Bến Tre không có những
nhân vật như Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, Ông Đùng, Bà Đà, mà phổ biến là những
bài ca những câu chuyện về một thời cầm phảng phát cỏ, đào mương lên liếp,
cầm mác đánh cọp, cầm lao đâm cá sấu. Dấu vết của công cuộc khai phá
gian lao nhưng anh dũng in đậm trong văn học dân gian ở Bến Tre”[114;
37]. “Nơi cùng trời cuối đất, nét tính cách phóng khoáng ngang tàng lại như
một chất men khiến cho tinh thần chống thực dân phong kiến và sự phê phán
những thói hư tật xấu của người dân Bến Tre thêm gai gắt và quyết liệt”[114;
40]. “Tình cảm với quê hương của người Bến Tre thể hiện trước hết ở lòng tự
hào về quê hương giàu có. Phương ngôn ở Bến Tre giới thiệu sản vật các
vùng từ đặc sản nhân tạo đến đặc sản tự nhiên từ bánh tráng, bánh phồng
đến cam quýt…”[114; 47]. “Thái độ vượt lên trên lễ giáo phong kiến của các
chàng trai cô gái trong ca dao Bến Tre có phần dứt khoát hơn cương quyết
hơn. Nhìn ở phương diện khác đó là chất dân chủ trong văn học dân gian Bến
Tre” [114; 58]. Tuy nhiên, do mục đích tiếp cận vấn đề nên tác giả chưa đi


11


sâu vào phân tích cụ thể các tác phẩm văn học dân gian để lí giải những nét
đặc trưng đó. Thứ hai, tác giả giới thiệu và chỉ ra một số đặc trưng về nghệ
thuật của một số thể loại văn học dân gian Bến Tre như: truyện cổ, truyện
cười, ca dao, đồng thời tác giả thể loại đó. Ở truyện cổ tác giả cho rằng: “Yếu
tố thần kì trong truyện cổ Bến Tre không đậm nét như truyện cổ vùng trung
châu và đồng bằng Sông Hồng, nơi dân tộc Việt định cư và xây dựng quốc
gia lâu đời. Chất hiện thực đậm nét hơn, ngay cả với hệ thống truyện về thời
kì khai phá” [114; 58]. Ở truyện cười, truyện trạng tác giả đánh giá: “Nét đặc
trưng truyện cười, truyện trạng ở Bến Tre là sự ngắn gọn. Tình tiết ít, tập
trung vào việc làm bật ra tiếng cười ở cuối truyện (…). Mặt khác biện pháp
phóng đại được dùng khá phổ biến trong truyện cười dân gian” [114; 59]. Về
ca dao ông nhận xét một số đặc trưng về thể thơ và ngôn ngữ: “Ca dao Bến
Tre tuy sử dụng những thể quen thuộc của dân tộc nhưng ở mức độ không
nhiều. Ngược lại một hiện tượng phải lưu ý khi xem xét ca dao Bến Tre về mặt
hình thức là hiện tượng những bài ca chỉ có ba dòng lời” [114; 60]. “Ca dao
Bến Tre đa số là những bài ca giàu chất xông xáo, phóng túng, tự do. Tính
cách, tâm lí của con người trên cù lao này rõ ràng tác động mạnh đến ngôn
ngữ của ca dao Bến Tre” [114; 69]. Tuy chưa đi vào phân tích và lí giải cụ
thể những đặc trưng đó, song những gợi ý tích cực trên thật sự có ý nghĩa đối
với người nghiên cứu văn học dân gian. Đó là những gợi ý quí báu giúp
chúng tôi tìm hiểu và gải quyết các vấn đề trong luận văn này.
Năm 1991 cuốn sách Địa chí Bến Tre [100] do Thạch Phương và Đoàn
Tứ chủ biên ra mắt bạn đọc. Đây là một quyển sách “thực sự có tầm cỡ”
(chữ dùng của GS. Lê Trí Viễn) giới thiệu một cách hệ thống, bao quát và
rành mạch về các đặc điểm tự nhiên, dân cư, lịch sử, kinh tế, văn hoá trong
tỉnh Bến Tre. Trong phần thứ tư , có một chương tác giả nói về văn hóa Bến

Tre. Trong đó, các tác giả đã giới thiệu một cách bao quát về tám thể loại văn

12


học dân gian Bến Tre: truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, truyện trạng,
tục ngữ và phương ngôn, vè, câu đố, ca dao. Tác giả có dừng lại phân tích sơ
lược nội dung của các thể loại trên, tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở tính chất tập
hợp, giới thiệu, miêu tả tư liệu là chính. Trong phần phụ lục về văn hoá các
tác giả giới thiệu một số tác phẩm văn học dân gian ở tất cả các thể loại trên.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy phần lớn tác phẩm này trùng với các tác
phẩm mà Nguyễn Phương Thảo và Hoàng Thị Bạch Liên đã giới thiệu trong
công trình văn học dân gian Bến Tre trước đó. Tuy nhiên với việc giới thiệu
bao quát về các thể loại văn học dân gian ở Bến Tre đã cung cấp cho người
đọc, người nghiên cứu một cái nhìn khái quát. Những phân tích cụ thể và chi
tiết về đặc điểm tự nhiên, xã hội, văn hoá ở Bến Tre thật sự là những đóng
góp quí báu.
Cũng trong năm 1991, đặc san nền văn hoá nghệ thuật “Nghiên cứu
văn hoá nghệ thuật” số 5 (năm 1991) đăng một loạt bài về văn hoá nghệ
thuật Bến Tre. Tiêu biểu là các bài như: Nét riêng của dân ca Bến Tre [136]
của Lư Nhất Vũ, Miệt vườn và văn hoá miệt vườn [6] của Nguyễn Chí Bền,
Phác thảo diện mạo Folklore của người Việt ở Bến Tre [86] của Thạch
Nguyễn. Đáng lưu ý nhất là bài của Thạch Nguyễn. Ở bài viết này tác giả đã
cung cấp một cái nhìn khái quát về văn học dân gian Bến Tre. Trong đó, tác
giả có những nhận xét về những nét riêng tiêu biểu của văn học dân gian Bến
Tre. Chẳng hạn tác giả cho rằng: “Cảm quan thẩm mĩ chính của hệ thống
truyện cổ ở đây hướng tới những sự vật, con người của của phương Nam”
(.…). “Có thể một cái nhìn suy nguyên về sự vật, cái nhìn vốn có trong tư duy
thần thoại của người Việt cổ nay vẫn thấy có trong khát vọng muốn cắt nghĩa,
lí giải cuộc sống của người Việt nơi đây”. “Có thể thấy rõ hai mảng ca dao

cũ và mới đan xen vào nhau và cùng tồn tại trong ca dao nơi đây (….). Mảng
thứ hai là những sáng tác xuất hiện trong quá trình con người khai phá, xây

13


dựng vùng đất mới. Thường thì loại ca dao thứ hai này ít chất mượt mà hơn,
óng chuốt hơn loại ca dao thứ nhất. Bù lại, loại thứ hai này lại có những nét
độc đáo riêng trong cách phô diễn, cấu trúc và vốn từ ngữ” [86; 63 – 67]. Tất
cả cung cấp thêm một cái nhìn toàn diện hơn về văn học dân gian Bến Tre.
Không đi vào nghiên cứu trên diện rộng, Huỳnh Ngọc Trảng tiến hành
sưu tầm và nghiên cứu một thể loại dân ca được cho là mang dáng vẻ riêng
của Bến Tre so với khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Năm 1992, ông công
bố công trình Hát sắc bùa Phú Lễ [123]. Trong công trình này tác giả đi vào
phân tích đặc điểm và nguồn gốc của Hát sắc bùa Phú Lễ trên cơ sở phân tích
so sánh các bài hát sắc bùa ở đây trong mối tương quan với Hát sắc bùa miền
Nam Trung Bộ. Tác giả chỉ ra rằng: “Như vậy, qua các cứ liệu trình bày trên
cho thấy hát sắc bùa Phú Lễ có nguồn gốc từ hát sắc bùa miền Nam Trung Bộ
và có thể có gốc gác trực tiếp với hát sắc bùa Nghĩa Bình. Đây là những
chứng tích biểu hiện rõ nhất mối giao lưu văn hoá Trung Bộ - Nam Bộ”.
“Mặt khác sự xác định nguồn gốc Nam Bộ của hát sắc bùa Phú Lễ cũng
không nhằm phủ định những sáng tạo mới của hình thức diễn xướng này trên
vùng đất mới Phú Lễ” [123; 9]. Trong phần sau của công trình, tác giả công
bố một số bài Hát sắc bùa Phú Lễ đã sưu tập. Những đóng góp của Huỳnh
Ngọc Trảng trong công trình này làm phong phú thêm cho nền văn học dân
gian Bến Tre. Đồng thời, công trình này là tư liệu quí báu cho những người
nghiên cứu tìm hiểu văn học dân gian Bến Tre sau đó.
Theo hướng tiếp cận về văn hoá dân gian, năm 1997 Nguyễn Phương
Thảo cho ra mắt bạn đọc quyển Văn hoá dân gian Nam Bộ những phác thảo
[116]. Tuy viết về văn hoá dân gian Nam Bộ, song trong công trình này

Nguyễn Phương Thảo dành rất nhiều trang để nói về văn hoá và văn học dân
gian ở Bến Tre. Điều đó được thể hiện ở chỗ những cứ liệu tác giả dùng để so
sánh, phân tích, dẫn chứng đa số lấy từ văn học dân gian Bến Tre. Nét tiêu

14


biểu về văn hoá và văn học dân gian Bến Tre trong công trình này được thể
hiện qua hai bài viết: Miệt vườn và văn hoá miệt vườn Bến Tre và Truyện Ông
Ó. Đáng chú ý trong bài viết về Truyện Ông Ó tác giả đã đưa ra một vài nhận
xét có ý nghĩa khoa học: “Đến với Truyện Ông Ó là đến với những tiếng cười
nhằm vạch mặt sự ngu dốt, tham ăn của giai cấp thống trị, thói hám lợi của
con người. Nhân vật Truyện Ông Ó đề cập tập trung nhất là những kẻ trong
giai tầng thống trị. Tiếng cười của Ông Ó Xóm Dưa không hề nể nan một kẻ
nào trong thế lực vương quyền, không buông tha một nhân vật nào đại diện
cho vương quyền ở Xóm Dưa, ở làng Hội Phước, ở tổng Minh Đạt cũng như
ở kinh kì” [116; 94]. “Tiếng cười của Truyện Ông Ó hướng con người tới chỗ
tự hoàn thiện mình, phơi bày những cái đáng cười của xã hội phong kiến.
Những biện pháp nghệ thuật của Truyện Ông Ó cũng khiến cho tiếng cười ấy
rõ ràng hơn, sảng khoái hơn. Sự lưu hành, tồn tại truyện Ông Ó cho đến hôm
nay chứng tỏ sức sống của tiếng cười ấy” [116;109]
Năm 1997, Khoa Ngữ Văn - Đại học Cần Thơ cho ra mắt độc giả
quyển Văn học dân gian Đồng bằng Sông Cửu Long [69]. Trong công trình
này, các tác giả giới thiệu một số tác phẩm văn học dân gian đã sưu tầm ở các
thể loại văn xuôi dân gian và văn vần dân gian. Căn cứ vào phần ghi địa điểm
sưu tầm chúng tôi tuyển chọn được một số tác phẩm ở các thể loại: truyền
thuyết, ca dao, tục ngữ, câu đố. Ngoài ra, công trình này còn có hai bài nghiên
cứu về các thể loại văn xuôi dân gian và các thể loại văn vần dân gian. Đáng
lưu ý trong phần viết về văn xuôi dân gian các tác giả có đề cập và phân tích
truyện Ông Ó ở Bến Tre: “Ông Ó và Ba Phi vừa là hai nhân vật có thật vừa

là hai nhân vật “trạng” trong văn học dân gian ĐBCL. Nếu như Truyện Ông
Ó hướng vào xã hội với chủ đề gần với truyện trào phúng thì Truyện Bác Ba
Phi hướng về tự nhiên với quê hương U Minh giàu có sản vật, gần gũi với
truyện bông đùa. Trong dòng chảy của truyện trạng từ Bắc vào Nam, có thể

15


xem truyện Ông Ó là sự nối tiếp truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn” [69; 15 –
16].
Năm 2009, Lư Hội giới thiệu tập sách Di sản văn hoá Bến Tre [50].
Trong tập sách này tác giả giới thiệu một số nét về văn hoá Bến Tre như tín
ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo và phong tục của người Bến Tre. Ngoài
ra, tác giả còn trình bày về các hình thức diễn xướng dân gian ở Bến Tre như:
hò, lí, hát ru, hát sắc bùa, vè, nói thơ Vân Tiên và đờn ca tài tử. Trong đó, tác
giả giới thiệu một số tư liệu sưu tầm, tuy nhiên phần lớn tư liệu đều trùng với
các tài liệu trước đó.
Gần đây nhất, trong luận văn Thạc sĩ với đề tài Khảo sát ca dao – dân
ca Bến Tre [25], Đặng Thị Thuỳ Dương đã đi vào khảo sát, phân tích khá chi
tiết nội dung và nghệ thuật của ca dao – dân ca Bến Tre. Về nội dung, tác giả
luận văn cho rằng ca dao – dân ca Bến Tre phản ánh sinh động cảnh quan
thiên nhiên như: địa hình, cây cối, loài vật và những đặc sản trên vùng đất. Ca
dao – dân ca Bến Tre còn phản ánh đậm nét chân dung con người Bến Tre
trong lao động sản xuất, trong chiến đấu và trong đời sống tình cảm hàng
ngày. Về nghệ thuật, tác giả đi vào khảo sát một số phương diện: thể thơ,
ngôn ngữ và kết cấu. Ở luận văn này tác giả quan tâm đi vào khảo sát khá chi
tiết đặc điểm chủ yếu về nội dung và nghệ thuật của ca dao Bến Tre. Vì mục
đích đó, tác giả không đi sâu vào phương diện nổi bật nhất trong nội dung và
nhệ thuật của ca dao – dân ca Bến Tre, vấn đề mà người viết sẽ cố gắng tìm
hiểu trong luận văn này.

Từ những bài viết, công trình đã phác thảo trên, có thể thấy rằng, văn
học dân gian Bến Tre đã được quan tâm nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ,
bình diện. Điều đó được thể hiện qua sự phong phú về tư liệu trên. Tuy vậy
cũng có thể thấy rằng, phần lớn các công trình đều tập trung vào công việc
sưu tầm giới thiệu tác phẩm văn học dân gian Bến Tre. Những bài nghiên cứu

16


về các thể loại tiêu biểu như truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười…đều
dừng lại ở tính chất giới thiệu khái quát. Trong tình hình đó, đi sâu vào tìm
hiểu, phân tích cơ cấu của một số thể loại tiêu biểu để có thể thấy được những
đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Bến Tre thiết nghĩ là một công việc
cần thiết. Đó cũng chính là nhiệm vụ cần giải quyết của chúng tôi trong luận
văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Ở mục này, chúng tôi sẽ giới hạn phạm vi cho đề tài theo hướng
- Tìm hiểu những nét cơ bản về bối cảnh, địa lí, lịch sử, văn hoá xét
thấy có liên quan đến cơ cấu, phong cách của văn học dân gian Bến Tre.
- Vì giới hạn của luận văn nên chúng tôi chỉ đề cập đến các thể loại tiêu
biểu và xét thấy có vấn đề. Đó là các thể loại truyền thuyết, truyện cổ tích,
truyện cười, ca dao.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng và vận dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp thống kê:
Trước hết phương pháp này giúp chúng tôi thống kê tác phẩm văn học
dân gian Bến Tre để thấy được phần nào diện mạo văn học dân gian vùng đất
này, qua đó đi vào khảo sát các tác phẩm ở một số thể loại tiêu biêu. Việc sử
dụng phương pháp này còn giúp chúng tôi tính toán được số lượng nhiều hay
ít của một số tình tiết, từ ngữ, công thức… trong các tác phẩm văn học dân

gian, từ đó dẫn đến những kết luận khách quan.
- Phương pháp phân tích và so sánh:
Phân tích và so sánh để bước đầu thấy được những điểm tương đồng và
dị biệt của văn học dân gian Bến Tre so với các vùng khác và trong nền văn
học dân gian dân tộc.
- Phương pháp loại hình lịch sử:

17


Tìm hiểu tác phẩm trong cơ cấu thể loại của nó để khám phá những nét
riêng của văn học dân gian Bến Tre.
- Phương pháp hệ thống:
Đặt những tác phẩm văn học dân gian Bến Tre trong cùng một hệ thống
như hệ thống tác phẩm văn học dân gian Nam Bộ hoặc cả nước để thấy được
nét chung cũng như nét riêng của nó.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành:
Những kiến thức của nhiều ngành khác nhau như: địa lí, lịch sử, dân
tộc học, văn hóa học… giúp chúng tôi lí giải những đặc điểm riêng của một
số thể loại văn học dân gian tiêu biểu ở Bến Tre.
5. Đóng góp của luận văn.
Dựa trên sự tổng hợp các công trình tản mạn trước đó, luận văn sẽ tập
trung giải quyết được:
- Phác hoạ diện mạo chung của Văn học dân gian Bến Tre.
- Làm rõ một số đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian Bến Tre thông
qua việc chỉ ra đặc trưng cấu trúc và giá trị nội dung của một số thể loại tiêu
biểu như truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, ca dao.
6. Kết cấu luận văn.
Luận văn bao gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong đó, phần nội dung gồm ba chương:

Chương 1: Khái quát về vùng đất và con người Bến Tre (19 trang).
Chương 2: Khái quát về diện mạo văn học dân gian Bến Tre (29 trang).
Chương 3: Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Bến Tre qua
một số thể loại tiêu biểu (89 trang).

18


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI BẾN
TRE
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Bến Tre là một vùng đất mới, lịch sử hình thành và phát triển của vùng
đất này gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của khu vực Đồng Nai Gia Định - Cửu Long xưa mà ngày nay ta thường gọi tên chung là đất Nam
Bộ. Các tài liệu sử còn lưu giữ cho ta thấy rằng cho đến đầu thế kỷ XVII,
vùng đất Bến Tre ngày nay cơ bản vẫn còn là một vùng đất hoang vu, rừng
rậm, đầm lầy. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, Lê Quí Đôn còn nhận xét: “Ở phủ
Gia Định đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Tạp, Cửa Đại, Cửa
Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng dặm”. [Dẫn theo Địa chí Bến Tre; 283].
Theo cuộc Nam tiến của dân tộc, những lưu dân đến vùng đất nơi đây định cư
và khai phá trong tinh thần mở rộng biên cương, bờ cỏi để đất nước giàu
mạnh hơn. Vào năm 1757 vùng đất Bến Tre được sát nhập vào dinh Long Hồ,
phủ Gia Định và chính thức có tên trong bản đồ Việt Nam sau sự kiện vua
Châu Lạp là Nặc Nguyên chết. Chú Nặc Nguyên là Nặc Nhuận xin hiến đất
Tra Vang (Trà Vinh, Bến Tre), và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu) để được Võ
Vương Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua. Kể từ đó, đất Bến Tre dần được
người dân khai phá, mở rộng phát triển. Có thể khái quát trình đó như sau:
Thời kỳ khai phá (từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX)
Là một phần của lãnh thổ Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII, tuy nhiên
trước đó khá lâu đã có một bộ phận cư dân người Việt đến định cư và “lập ở

đó những tổ chức”. Sách Gia Định thành thông chí viết: “Chúa Nguyến Phúc
Tần (1648 – 1686) sai tướng vào khai thác phong cương ở nơi bằng thẳng,

19


rộng rãi, đặt dinh Tân Thuận, cất nha thự cho các qua giám quân, cai bộ và
ký lục ở. Ngoài ra, còn cho dân trưng chiếm, chia làng, lập xóm, chợ phố”
[Dẫn theo Địa chí Bến Tre; 242]. Jules Sien cũng đã nhận xét rằng “Trước
khi Nam Kỳ trở thành một bộ phận của Việt Nam, người Việt đã lập ở đó
những tổ chức, những nóm người di cư đã xây dựng làng xóm, hay tới ở
chung với người Cao Miên” [117; 10]. Cùng với đó, còn có một nhóm lưu
dân người Hoa xin được đến nơi đây để cư trú và sinh sống. “Năm 1679,
chúa Nguyễn Phúc Tần lại cho phép 3.000 người Hoa “phản Thanh phục
Minh” theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch đến cư trú
chính trị và định cư ở vùng Biên Hòa và Mỹ Tho” [100; 242]. Như vậy, có thể
nói rằng kể từ thế kỷ XVII trở đi vùng đất Bến Tre đã bắt đầu có sự biến đổi
mạnh. Đây cũng là một đặc điểm chung của nhiều vùng đất khác ở Nam Bộ.
Các tài liệu lịch sử cho biết rằng những lưu dân người Việt đến vùng
đất cù lao Bến Tre không sớm cũng không muộn hơn bao nhiêu so với các
điểm định cư ở phía Bắc sông Tiền, hay các vùng Tân Bình, Biên Hòa, Bà
Rịa. Họ hầu hết là những người từ các tỉnh miền Trung, gồm nhiều thành
phần khác nhau. Đó là những người nông dân nghèo khổ bị chế độ phong
kiến đàn áp làm cho bần cùng lại phải gánh chịu bao phen chà xát của cuộc
nội chiến phong kiến liên miên giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn.
Có thể nói đây là thành phần đông đảo nhất. Một thành phần khá lớn khác
cũng lưu lạc đến nơi đây sinh sống, đó là những người “trốn lính và lính
trốn”, những tù nhân bị lưu đày viễn xứ. Thành phần còn lại trong số lưu dân
người Việt đến đây là những người có tiềm lực kinh tế theo lời kêu gọi của
chúa Nguyễn, họ vào nơi đây để mở rộng kinh doanh, gia tăng sản xuất để tạo

nên cơ nghiệp mới.
Cũng trong thời gian này, sau sự kiện nhà Thanh thay thế nhà Minh ở
Trung Quốc, có khoảng hơn 3000 quân trung thành với triều nhà Minh, không

20


chấp nhận sự thống trị nhà Thanh đến xin được cư trú trên đất Việt Nam. Như
vậy theo chủ trương của nhà Nguyễn lưu dân người Hoa này đến khai khẩn
đất hoang và làm ăn sinh sống ở vùng đất Nam Bộ. Đi vào Nam Bộ họ chia
thành hai nhóm, một nhóm do Trần Thượng Xuyên dẫn đầu đến vùng Biên
Hòa khai phá, lập phố; nhóm còn lại do Dương Ngạn Địch dẫn đầu đến vùng
đất Mỹ Tho định cư. Và trong nhóm thứ hai này chắc chắn đã có một số
người vượt sông sang cù lao An Hóa (thuộc Huyện Châu Thành ngày nay),
nhất là vùng ven sông Ba Lai đối diện với Mỹ Tho thuộc xã Phước Thạnh để
sinh sống.
Trong suốt các thế kỷ thứ XVII, XVIII nhiều đợt chuyển cư liên tục
diễn ra. Đến giữa thế kỷ XVII, vùng đất đã có đông người đến ở, do vậy tuy
mới sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam năm 1757 nhưng đến 1759 chính quyền
nhà Nguyễn đã ban bố lệnh lập làng nơi đây. Năm 1779 Nguyễn Ánh tiến
hành chia lại địa giới hành chính và tổ chức lại việc cai trị ở vùng đất Nam
Bộ,lúc này vùng đất Bến Tre được đặt thành tổng Tân An, thuộc Châu Định
Viễn, dinh Long Hồ, vùng đất Bến Tre thời kỳ này gồm hai cù lao, đó là cù
lao Bảo và cù lao Minh.
Trong các thế kỷ XVII, XVIII này, những lớp lưu dân đã dần dần mở
rộng bản đồ khai phá. Các tài liệu lịch sử cho biết, vùng ven biển Ba Tri là
một trong những nơi được khai phá sớm nhất bởi lẽ đây là điểm dừng chân
đầu tiên của lưu dân từ miền Trung theo đường biển đi vào. Được khai phá
cùng thời với vùng đất Ba Tri còn có khu vực Cái Mơn, Cái Nhum nằm ven
sông Hàm Luông của nhóm người phần lớn theo đạo Thiên Chúa , và vùng

đất Phước Thạnh (thuộc Châu Thành) của nhóm người Hoa vượt sông từ Mỹ
Tho đến định cư. Trong thế kỷ XVIII có một vùng đất được khai phá mạnh và
là vùng đất trù phú bậc nhất của Bến Tre, đó là vùng Ba Việt (tức vùng Ba
Vát, huyện Mỏ Cày ngày nay). Tuy nhiên, vào thập niên 70 của thế kỷ XVIII

21


vùng đất này bị suy tàn dần vì cuộc chiến tranh giữa quân Tây Sơn và chính
quyền phong kiến Nguyến Ánh. Một số vùng đất khác cũng được mở rộng
khai phá vào thế kỷ XVIII như vùng ven rạch Sóc Sãi, rạch Mỹ Lung (Bến
Tre) trên cù lao Bảo, vùng ven sông Mỹ Tho, sông Ba Lai, song Bình Đại trên
cù lao An Hóa. Như vậy, đến cuối thế kỷ XVIII vùng đất Bến Tre đã được
khai phá khá rộng.
Sang đầu thế kỷ XIX, công cuộc khẩn hoang mở đất, lập phố trên vùng
đất Bến Tre càng được phát triển hơn. Công cuộc tự khai phá của nhân dân
vẫn được tiếp tục trong lúc chính quyền nhà Nguyễn bấy giờ đứng ra tổ chức
việc khai hoang, trồng trọt dưới hình thức đồn điền, khai hoang, lập ấp. Từ đó
đất Bến Tre càng được phát triển hơn. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh
Hoài Đức có viết: “Ở phía Đông sông Hàm Luông, cách phía đông trấn 103
dặm rưỡi, rộng 18 tầm, sâu 11 thước ta. Vào sông này đi xuống hườn đông ba
dặm, nơi phía bờ bắc là chợ Bến Tre (Trúc Tân), quán xá dày đặc; 3 dặm
rưỡi bên bờ nam là chợ Mỹ Lồng, phố xá liền nhau, buôn bán đông đúc. Có
những vườn cau rậm như rừng, quả lớn lại sai, nên cau Mỹ Lồng rất nổ tiếng.
Xuốn phía đông năm dặm chảy ra cửa sông Phước Thạnh (Tục gọi là Cái
Sậy, thuộc địa phận thôn Phước Thạnh) cửa sông rộng 3 tầm, sâu 2 tầm vào
nam chảy ra biển Ba Lai” [Dẫn theo tài liệu 117; 13]. Điều đó chứng minh
rằng sang thế kỷ XIX diện mạo vùng đất Bến Tre đã có bước phát triển khá
mạnh mẽ.
Về mặt địa lí hành chính, sang đầu thế kỷ XIX vùng đất Bến Tre cũng

có một số thay đổi. Năm 1808 tổng Tân An (tức đất Bến Tre ở thế kỷ XVIII)
được nâng lên thành Huyện (phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh) gồm tổng An
Bảo và tổng Tân Minh cũng nằm trên hai cù lao: cù lao Bảo và cù lao Minh.
Năm 1823 huyện Tân An được nâng lên thành phủ lấy tên là phủ Hoằng An
gồm hai huyện Tân Minh và An Bảo. Năm 1851, đất Bến Tre được mang tên

22


là phủ Hoằng Trị gồm bốn huyện trên cù lao Bảo và cù lao Minh thuộc tỉnh
Vĩnh Long.
Như vậy từ một vùng đất hoang vu, rừng rậm đầy thú dữ, những lớp
lưu dân bằng bàn tay, khối óc và nghị lực phi thường đã biến chúng thành một
vùng ruộng vườn trù phú. Đến giữa thế kỷ XIX Bến Tre đã là một trong
những vùng đất được khai phá nhiều nhất trong sáu tỉnh Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Thời kỳ chống ngoại xâm Pháp - Mỹ (từ năm 1858 đến 1975)
Như vậy cho đến giữa thế kỷ XIX, trên vùng đất Bến Tre đất đai đã
được khai phá về căn bản, làng mạc đã được hình thành. Trong hoàn cảnh đó
tưởng chừng như xã hội đi vào bước ổn định để phát triển thì thực dân Pháp
tràn vào xâm lược. Như một điều tất yếu những lớp lưu dân vốn đã quen với
công việc khai hoang, lập đất nay lại đứng lên cầm gươm đao để chống lại kẻ
thù. Có thể nói tinh thần chống ngoại xâm của nhân dân Bến Tre rất mạnh
mẽ. Khi thực dân Pháp bắt đầu đến đây, lớp lớp người con xứ dừa đã dũng
cảm đứng lên đánh đuổi chúng. Trên mảnh đất cù lao này đã diễn ra nhiều
cuộc khởi nghĩa với qui mô lớn, nhỏ khác nhau cùng một mục đích chung là
giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu có thể
kể đến như khởi nghĩa của hương giáo Phan Công Tòng, khởi nghĩa Phan
Tôn, Phan Liêm, khởi nghĩa Tán Kế… Do chưa được tổ chức chặt chẽ, chưa
có một đường lối đúng đắn, trang bị vũ khí còn thô sơ nên các cuộc khởi
nghĩa lần lượt bị thất bại hoặc tan rã. Biết bao người đã ngã xuống trong các

cuộc chiến đấu ấy, tuy nhiên, không vì thế mà người dân Bến Tre nản lòng.
Tinh thần yêu nước và ý chí chống giặc ngoại xâm vẫn âm ỉ cháy trong lòng
bao thế hệ con người vùng đất xứ dừa kiên cường. Và với tinh thần, ý chí
mãnh liệt ấy, cùng với sự dũng cảm, mưu trí nhân dân Bến Tre đã góp chung
niềm vui chiến thắng cùng cả nước khi giành lại được chính quyền từ tay thực
dân Pháp vào tháng 8 năm 1945.

23


Độc lập, tự do chưa được bao lâu, đất nước lại phải đối diện với muôn
vàn khó khăn. Tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp lại nổ súng xâm lược đất
nước ta lần hai, nhân dân Bến Tre lại một lần nữa nhất tề đứng lên chống
giặc. Nhân dân Bến Tre bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp lần hai trong
điều kiện đã được chuẩn bị tương đối về nhiều mặt trên nền chính trị là khối
đại đoàn kết toàn dân. Trong hoàn cảnh tương đối thuận lợi ấy, nhân dân Bến
Tre đã thể hiện tinh thần xung kích mạnh mẽ. Với nhiều trận đánh và bước
đầu mang lại những thắng lợi nhất định tiêu biểu như trận đánh tiêu diệt căn
cứ Vàm Nước Trong ở Định Thủy huyện Mỏ Cày năm 1947, chiến thắng
Thạnh Phú năm 1953… Như vậy từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 7 năm 1954
nhân dân bến Tre cùng với đồng bào cả nước tiến hành cuộc kháng chiến đầy
gian khổ nhưng vô cùng anh dũng. Có thể nói những chiến thắng ở Bến Tre
và các tỉnh Nam Bộ khác đã góp tiếng nói mạnh mẽ buộc thực dân Pháp ký
hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7 năm 1975 lập lại hòa bình ở Đông Dương, công
nhận độc lập chủ quyền của đất nước Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc, nhân dân Bến Tre
lại cùng cả nước tiếp tục chống đế quốc Mỹ. Tinh thần anh dũng, kiên cường
lại tiếp tục được phát huy trên vùng đất xa xôi phương Nam này. Trong
những năm đầu củ cuộc kháng chiến quân dân Bến Tre tiến hành đấu tranh
chính trị, đòi Mỹ, Diệm thực thi đúng theo Hiệp định Giơ-ne-vơ đồng thời đòi

các quyền dân sinh, dân chủ, đồng thời tranh thủ phát huy lực lượng làm cơ
sở và tiền đề để bước vào cuộc chiến đấu ác liệt những năm sau đó. Nhân dân
Bến Tre đã đi đầu trong cuộc đấu tranh vũ trang toàn miền Nam chống Mỹ Diệm bằng phong trào Đồng Khởi ngày 17 tháng Giêng năm 1960 do nữ
tướng Nguyễn Thị Định lãnh đạo. Tiếp đó quân dân Bến Tre cùng cả nước lần
lượt đánh bại các cuộc “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và
“Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - Ngụy để tiến tới thắng lợi cuối cùng

24


cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Địa lí hành chính trên vùng đất Bến Tre thời kỳ từ năm 1858 đến năm
1975 cũng có một số thay đổi do những biến cố lớn về chính trị. Có thể nói
ngắn gọn một số điểm chính như sau: Năm 1867 khi đã hoàn thành việc
chiếm đóng Nam Kỳ lục tỉnh, Pháp đổi phủ Hoằng Trị (vùng đất Bến Tre
triều Nguyễn) thành hạt Hoằng Trị và chia ra hai sở tham biện là Bến Tre và
Mỏ Cày. Lúc này cù lao An Hóa vẫn thuộc vùng đất Mỹ Tho. Trong thập niên
70 của thế kỷ XIX, sau khi nhập hai sở tham biện Bến Tre và Mỏ Cày thành
sở tham biện Bến Tre, Pháp gọi Bến Tre là hạt , gồm 23 tổng , 205 làng. Lúc
này hạt Bến Tre thuộc khu vực Vĩnh Long (năm 1876, Pháp bãi bỏ cấp tỉnh,
chia Nam Kỳ thành 4 khu vực: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bacssac). Năm
1899, hạt Bến Tre được đổi thành tỉnh Bến Tre cũng gồm có 2 cù lao: cù lao
Minh và cù lao Bảo.
Sau khi giành độc lập bằng cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945, Bến Tre được chính quyền Cách Mạng đổi thành tỉnh Đồ Chiểu năm
1945, đến năm 1946 gọi là tỉnh Bến Tre. Năm 1948 quận An Hóa (cù lao An
Hóa) của tỉnh Mỹ Tho được sát nhập về tỉnh Bến Tre , kể từ đây tỉnh Bến Tre
gồm 3 cù lao: cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hóa.
Có thể nói, tiến trình lịch sử của nhân dân Bến Tre trong ba thế kỷ qua

vừa mang những nét chung của lịch sử dân tộc, đồng thời nó lại vừa mang
những nét riêng do hoàn cảnh lịch sử nơi đây quy định. Văn học dân gian Bến
Tre phát triển trong tiến trình lịch sử ấy tất yếu sẽ phản ánh diện mạo xã hội,
con người mà nó đi qua.

25


×