Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chuyên đề 1 : NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.52 KB, 13 trang )

Chuyên đề 1 : NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA TÁC
PHẨM VĂN HỌC
I. VĂN HỌC LÀ GÌ ?
- Văn học là hình thái ý thức xã hội, môn nghệ thuật nhưng khác với các ngành
khác nhờ đặc trưng chất liệu sáng tác văn học : ngôn từ. Ngôn ngữ văn học có
tính hình tượng, được sắp xếp theo một tổ chức nhất định để ngôn từ phát huy
giá trị của nó, đồng thời có tính chuẩn mực ( hàm súc và cô đọng, đa nghĩa, biểu
cảm ).
- Ngôn ngữ văn học tạo nên tác phẩm và gây hiệu quả thẩm mĩ cho văn bản.
Nhưng, giá trị của ngôn từ chỉ đạt giá trị tối đa khi nó được dùng đúng chỗ, đúng
văn cảnh.
- Văn học là gì ? là bộ môn nghệ thuật, lấy con người làm đối tượng nhận thức
trung tâm, lấy hình tượng làm phương thức biểu đạt nội dung và lấy ngôn
từ làm chất liệu xây dựng hình tượng.
II. ĐẶC TRƯNG CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
A, Tác phẩm văn học là bức tranh sinh động về đời sống và con người. Qua bức
tranh đó, người viết luôn muốn gửi gắm những tình cảm, tư tưởng và thể hiện
thái độ của mình trước cuộc sống.


Văn học nhận thức, phản ánh đời sống theo quy luật của cái đẹp nhằm thỏa
mãn những nhu cầu về tình cảm vô cùng phong phú của con người. Dù các tác
phẩm không trực tiếp miêu tả con người (như ngụ ngôn .. ) nhưng con người vẫn
là trung tâm mà văn học hướng tới .
Tác phẩm văn học là sự kết hợp giữa khách quan ( hiện thực đời sống ) và
chủ quan ( tình cảm người viết ). Nhà văn không chỉ tái hiện lại những chi tiết
của đời sống mà mình mắt thấy tai nghe, mà qua đó còn muốn nói một điều gì
mới mẻ, lớn lao hơn. Cái đẹp của nghệ thuật trước hết nằm ở hiện thực được
phản ánh. Điều thu hút độc giả chính là sự chân thật. Sự chân thật ấy nằm ở đời
sống vì độc giả chỉ tin vào những điều có thực và gần với cuộc đời họ mà
thôi. “Một nhà văn không thành thực không bao giờ là nhà văn có giá trị. Nhưng


không phải cứ thành thực là trở nên nghệ sĩ. Nhưng nghệ sĩ không thành thực
chỉ là một người thợ khéo tay thôi” ( Thạch Lam ). Dù văn học phản ánh hiện
thực nhưng nó không phải là bản sao chép nô lệ hiện thực. Nhà văn không phải
là mật thám cuộc đời hay là tên hề lóc cóc chạy theo đuôi đời sống. Qua những
điều mình mắt thấy tai nghe, nhà văn còn thâm nhập, cắt nghĩa hiện thực theo
cách của riêng mình, từ đó nâng lên thành những giá trị có tính chất phổ
quát. Thế giới nứt làm đôi, vết nứt xuyên qua con tim nhà thơ. Nỗi đau ấy, khi
đến với chúng ta đã nhuốm máu” người nghệ sĩ. Cái độc giả cần không phải là
hiện thực được phản ánh một cách xuôi chiều, khách quan ( vì ai sống trong thời
đó cũng biết cả rồi ) mà từ tác phẩm của nhà văn, họ muốn hiểu thêm bản chất
của thời đại mà họ đang sống và những tư tưởng, triết lý được nhà văn chung


đúc và tổng hợp nên từ cuộc sống này. Những tác phẩm lớn không chỉ đem cho
ta cái nhìn khái quát về thời cuộc mà còn cho ta hiểu thêm về lẽ đời, về con người,
về xã hội mà ta đang sống. Những tác phẩm ấy khiến độc giả phải nghiền ngẫm,
suy nghĩ để thấu hiểu những điều mà nhà văn viết trong đó, từ đó tác phẩm mới
neo lại trong trái tim người đọc. Từ những yêu ghét, ngợi ca hay phê phán của
bản thân về thời đại, nhà văn cũng làm cho người đọc đồng cảm, có những suy
nghĩ giống mình. Hơn cả trách nhiệm nhà văn, họ còn mang trách nhiệm cứu
rỗi con người. Chính những điều họ viết sẽ đem con người đến với những chân
trời mới, bầu trời của chân – thiện – mỹ, để cho độc giả biết ước mơ, từ đó mà
sống cao đẹp hơn, tương lai nhân loại cũng nhờ đó mà thêm tuơi sáng.
b) Văn học – nghệ thuật ngôn từ
Nói đến văn học là nói đến quy luật của tình cảm, của con tim. Ở những
tác phẩm thơ, tư tưởng và tình cảm được biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm.
Đối với các tác phẩm truyện thì điều đó được ẩn giấu đi dưới các hình thái ở
ngôn ngữ, tức biểu hiện gián tiếp.
Ngôn từ tồn tại ở hai dạng : nói và viết. Văn học vì thế cũng tồn tại dưới
hai dạng : văn học dân gian và văn học viết.

a. Phân biệt được :
- Ngôn ngữ đời sống : của quần chúng, dùng trong sinh hoạt để nhận và phát
thong tin.


- Ngôn ngữ văn học : là ngôn ngữ quần chúng nhưng được cách điệu hóa nhằm
tạo ra ý nghĩa thẩm mỹ
b. Vì sao văn học là nghệ thuật của ngôn từ ?
Mỗi bộ môn nghệ thuật đều có một chất liệu riêng tạo nên đặc trưng của
hình tượng. Nếu âm nhạc dùng âm thanh, hội họa dùng đường nét và màu sắc,
điêu khắc dùng mảng khối thì văn học chọn ngôn từ làm chất liệu
Ngôn từ văn học vốn không như ngôn từ ta hay dùng trong sinh hoạt
hằng ngày. Ngôn ngữ đời sống dùng trong lao động và sinh hoạt hằng ngày là
chủ yếu, có tác dụng nhận và phát thong tin nên người ta thường đơn giản ngôn
từ đến mức tối đa sao cho người nghe dễ hiểu, dễ tiếp thu là được. Ngôn từ văn
học vốn bắt nguồn từ ngôn ngữ của quần chúng lao động nhưng nó lại không
dùng một cách đơn giản như lời nói thong thường. Từ lời nói thô mộc thong
thường, chỉ có ý nghĩa thong báo nhất thời, nhà văn đã nhào nặn và tái tạo lại
nó, khoác cho nó tấm áo mới. Bấy giờ, lời nói bình thường trở thành ngôn ngữ
nghệ thuật, có tác dụng thể hiện cái vô cùng, vô tận của cuộc đời tâm hồn con
người một cách hình tượng. Nó gợi dậy những cảm xúc nơi độc giả, cho ta cảm
giác mới mẻ và trong ngần. Mỗi từ, mỗi câu như khêu gợi một cái gì lớn hơn,
tràn ra ngoài nó, tạo dựng ý ngoài lời, hình thành một chỉnh thể hình tượng mới
mẻ. Ta có thể lấy ví dụ sau :
Người lên ngựa, kẻ chia bào


Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
Hai chữ “lên ngựa”, “chia bào” vốn là những từ gợi những hành động
thường nhật khi hai người gắn bó thân thiết mà phải xa nhau. Nhưng trong câu

thơ của cụ Nguyễn Du, những chữ ấy đảm nhận một nhiệm vụ mới. Nó không
chỉ gợi hành động đơn thuần mà nó còn gợi cả sự lưu luyến, bịn rịn, muốn níu
kéo cho khoảnh khắc bên nhau dài thêm chút nữa, tức nỗi lòng đầy tâm sự của
nhân vật trong phút chia tay.
Mặt khác, sở dĩ nói văn học là nghệ thuật ngôn từ là vì đó là cách dụng
từ ngữ đầy nghệ thuật của nhà văn. Ngôn từ văn học mang tính tổ chức cao để
khi đọc lên, độc giả có thể cảm nhận được cuộc sống và nỗi lòng người viết, từ
đó tác phẩm nằm lại ở trong tim độc giả. Ngôn ngữ là tài sản chung của xã hội
nhưng việc dùng nó thế nào cho hợp lý là chuyện cá nhân nhà văn :
Phải tổn phí ngàn câng quặng chữ
Chỉ thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài
Từ hàng vạn ngôn từ, nhà văn chứ không phải ai khác, sẽ ngồi gạn lọc lại
nó. Vì không phải ngôn từ nào cũng hay, cũng phù hợp với văn cảnh, đúng người,
đúng việc mà nhà văn định miêu tả. Do đó, nó buộc nhà văn phải lựa chọn từ


ngữ để nó phục vụ ý đồ của mình. Trong lao động nghệ thuật, nhà văn thực sự
là phu chữ. Gia Bảo đời Đường Ba năm chỉ làm được hai câu thơ. Nguyễn Tuân
– nhà văn được coi là kho từ vựng khổng lồ.ấy thế mà cũng có lúc ngồi thâu đêm
bên chiếc bàn trong vẻ tuyệt vọng “thấy nguyền rủa bẽ lũ chữa nghĩa, nó cứ hè
nhau rời mình. Mình bỗng chốc thành kẻ cùng đường bên sông chữ quạng vắng
thê lương”. Nhà văn Tô Hoài kể chuyện có lần ông muốn mô tả sự mệt nhọc của
con người khi làm việc dưới trời nóng bức. Đã có nhiều cách diễn đạt về chuyện
“đổ mồ hôi” này, nào là: mồ hôi nhễ nhại, mồ hôi ướt đầm, mồ hôi như tắm…
Thế rồi một hôm, nhà văn nghe một bà nông dân thốt lên: “Nóng gì mà nóng
khiếp! Mồ hôi mẹ mồ hôi con ở đâu mà tuôn ra lắm thế này!”. Ông mừng như
bắt được vàng vì vừa tìm ra một hình ảnh mới thật hay và đầy ý nghĩa. Vài dẫn
chứng trên cho thấy rằng mỗi từ, mỗi chữ trong tác phẩm đều được nhà văn

chọn lựa và cân nhắc hết sức kĩ càng để nó phát huy hiệu quả cao nhất. Nhà văn
lao tâm khổ trí hàng năm trời chỉ để chọn ra một chữ cho hợp với tác phẩm của
mình. Người viết phải tinh ý và dùng chữ một cách thật nghệ thuật và thần tình,
tác phẩm mới có thể đạt đến cảnh giới cao nhất.
c. Đặc điểm của ngôn từ văn học :
1. Tính chính xác và tinh luyện :
Trong đời sống cũng như trong văn ọc, chính xác là yếu tố rất quan trọng
trong việc dùng ngôn ngữ. Để diễn tả cho ra được đúng và chính xác cái thần
của người và việc thì từng câu từng chữ cũng phải thật chính xác, chi tiết và cụ


thể. Qua cách lựa chọn từ ngữ, ta còn thấy được tài năng của nhà văn : gọi đúng
tên, đúng bản chất đối tượng. Mỗi từ trong văn học là duy nhất, không có từ nào
thay thế. Dù đối tượng anh viết là ai đi nữa thì cũng chỉ có một từ để nói. Các
nhà văn lớn đều là những bậc thầy trong việc dùng từ, chẳng hạn như Nguyễn
Du. Nguyễn Du “giết” Mã Giam Sinh bằng chữ “tót” :
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Chữ “tót” đã phơi bày một cách đầy đủ, rõ nét bản chất giả dối, vô học
của Mã Giam Sinh. Nếu chữ tót đưa Kim Trọng lên đến đỉnh của bậc tài tử giai
nhân thì chữ “tót” lại dìm Mã Giam Sinh xuống tận cùng của sự thô bỉ. Nguyễn
Trãi viết :
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa, bợ cây
Nhưng, có người lại đọc “bợ” thành “bẻ”. Bao nhiêu đó cũng đủ làm thay
đổi toàn bộ ý nghĩa câu thơ rồi. Chữ “bợ” mới gợi đúng phong thái của người
anh hùng nhưng có trái tim nghệ sĩ. Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên. Ngày ngày,
ông bợ hoa vì hoa là cái đẹp mong manh và yếu ớt, cần nâng đỡ. Chữ bợ gợi cốt
cách thanh cao của nhà hiền triết, còn dùng bẻ thì vô tình đày ải thơ Nguyễn
Trãi vào chốn trần tục đầy thô bạo. Ấy mới thấy, ngôn từ trong văn học đòi hỏi
tính chính xác cao độ, đòi hỏi cả người đọc lẫn người viết sự nhạy cảm, tinh tế.

2. Tính hàm súc và đa nghĩa :


Điều này làm nên ý tại ngôn ngoại, tạo dư ba cho tác phẩm. Ngôn từ trong
văn học phải cô đọng, nén chặt ý tồi đa tạo sức nặng, độ thừa và nhiều lượng
ngữ nghĩa.
Từ ngữ tiếng Việt vốn có khả năng chuyển nghĩa tạo nghĩa mới hay do tu từ
nên ngôn từ văn học cũng có tính đa nghĩa. Văn bản văn học, do đó, nó cũng có
tính đa nghĩa. Chẳng hạn bài Thề non nước của Tản Đà. Một mặt, đó là bức
tranh non nước tang thương, một trái núi đứng chơ vơ bên cạnh dòng sông đã
cạn. Mặc khác, bài thơ còn là câu chuyện của hai người tình đã thề nguyền chung
thủy, hiện tại chia phôi và ngày mai gắn bó.
“Ngắn gọn là bà chị của thiên tài” ( Sê khốp ).
“Ý hết mà lời dừng, ấy là lời rất mừng trong thiên hạ. Nhưng lời dừng mà ý
chưa hết lại càng hay tuyệt” ( Lê Qúy Đôn )
“Công phu của thơ là ở ngoài thơ” .
3. Tình hình tượng :
Tính hình tượng là quan trọng nhất. Tính hình tượng biểu hiện ở việc làm
sống dậy hiện thực trong tâm trí độc giả, tái hiện được trạng thái, truyền được
động tác hoặc sự vận động của con người, cảnh vật và toàn bộ thế giới mà tác
phẩm nói tới. Ngoài ra, nó còn biểu hiện ở sự nắm bắt những cái mơ hồ, mong
manh, vô hình chứ không chỉ dừng lại ở những cái hữu hình.


Cơ sở từ trong nội dung của lời nói nghệ thuật nằm ở tính hình tượng. Nhà
văn viết ra những câu chữ ấy, không chỉ để giải tỏa tâm sự mà còn thể hiện tư
tưởng, tình cảm của giai cấp mình, tầng lớp mình. Lời nói tuy là của chủ thể sáng
tạo nhưng lại mang tầm vóc khái quát là ở chỗ đó. Nhà văn đại diện cho giai cấp,
thế hệ mình đang sống, thay họ cất tiếng nói.
Mặt khác, trong văn học, sức mạnh của lời nói nằm ở tầm khái quát của chủ

thể hình tượng, ở khả năng đại diện cho tư tưởng, tình cảm, lương tâm của thời
đại chứ không phải phụ thuộc vào địa vị xã hội của nhà văn. Từ phương trời của
một người mà thành phương trời của nhiều người, tác phẩm từ đó trường tồn
mãi với thời gian.
4. Tính biểu cảm
Nghệ thuật nói bằng thứ tiếng duy nhất : thứ tiếng của cảm xúc. Bản chất
người nghệ sĩ là giài tình cảm và nhạy bén trước cuộc đời. “khi tôi viết là tôi đau
ở đâu đó trong người” ( Rospuchin ). Tố Hữu trong những đêm dài thao thức
triền mien, lòng băn khoăn, không ngủ được thì ông viết. Do đó, ngôn từ văn
học mang tính biểu cảm. Nó biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau : gián tiếp
hay trực tiếp, có hình ảnh hay chỉ là thuần túy, rõ nhất là khi nhấn mạnh những
cảm xúc nội tâm.
Tóm lại, trong văn chương, chữ nghĩa là quan trọng nhất. Không gì bảo vệ
uy tín của nhà văn bằng chính tác phẩm của ông ta. Không có nhà văn nào viết
xong tác phẩm mà lại đến từng độc giả giảng giải, chỉ ra ý đồ nghệ thuật cả. Chỉ


có chữ nghĩa mới có thể cho biết ông ta định nói gì. Từ chữ nghĩa mà ta nhận
ra được hiện thực, tài năng, tâm tính và cả thái độ của nhà văn trước hiện thực
mà ông ta miêu tả
b)Hình tượng văn học
1.Khái niệm
Hình tượng “là phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và tái tạo đời sống theo
quy luật của nghệ thuật”. ( Từ điển Văn học ).
Khác với khoa học, nghệ sĩ không diễn đqạt trực tiếp ý nghĩ và tình cảm
bằng khái niệm trừu tượng, bằng định lý hay công thức mà bằng hình tượng,
tức làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, hiện tượng của đời
sống, làm cho ta suy nghĩ về tính cách, só phận, tình đời, tình người.
Hình tượng nghệ thuật là phương thức giao tiếp đặc biệt giữa nhà văn và
độc giả. Hình tượng là thế giới sống do nhà văn tạo ra bằng sức gợi ngôn từ. Gọi

là hình tượng vì một mặt, nó cũng sống động y và hấp dẫn như thật, nhưng mặc
khác nó chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng con người, nó không phải là sự thật
trăm phần trăm. Nhưng, thật sai lầm nếu chỉ quan niệm hình tượng nghệ thuật
chỉ là phản quang đơn thuần của đời sống. Hình tượng, một mặt nó vừa mang
tính khách quan, mặt khác vừa mang tính chủ quan của nghệ sĩ. Hình tượng
không chỉ là thế giới đời sống, mà còn là “thế giới biết nói”. Thông qua các chi
tiết, nhân vật trong tác phẩm, nhà văn muốn đối thoại với độc giả về quan niệm


nhân sinh nào đó. Hình tượng là kết tinh của những ấn tượng sâu sắc về cuộc
đời làm nhà văn day dứt. Anh viết ra để nói to, để chia sẻ với mọi người. Hình
tượng, như thế nó gắn liền với quan điểm, lí tưởng và khát vọng của nhà
văn. Cuộc sống và con người được miêu tả trong văn học, vừa giống cái đã có và
hiện có, vừa là cái có thể và cần có.
Đặc điểm cơ bản của hình tượng :
- Gắn liền với đời sống.
- Có sự thống nhất giữa hai mặt : khách quan và chủ quan, lí trí và tình cảm.
- Vừa khái quát, vừa cụ thể.
2. Tính “phi vật thể” của hình tượng văn học.
Âm nhạc dùng âm thanh, hội họa dùng đường nét, điêu khắc dùng mảng
khối để xây dựng hình tượng. Những chất liệu đó đều mang tính “vật chất”, tức
có thể nhìn, nghe, cảm nhận được bằng giác quan, nó khác với ngôn từ của văn
học. Ngôn từ tồn tại trong trí óc, không thể sờ, thấy, hay cảm nhận bằng những
cách thong thường, mà buộc độc giả phải thâm nhập, cảm nhận và tưởng tượng
như mình đang sống chung với hình tượng. Độc giả buộc phải nhập cuộc, đau nỗi
đau của người trong cuộc thì mới có thể cảm nhận rõ những gì mà nhà văn viết
ra.


Nhờ dùng chất liệu ngôn từ mà bức tranh đời sống không bị hạn chế về không

gian, thời gian. Những gì tinh vi, mong manh, mơ hồ, ngay cả tâm trạng sâu
thẳm của con người, đều có thể mô tả trực quan, sinh động bằng từ ngữ. Văn
học có thể “họa” lại tâm trạng của người thanh niên khi tiếp nhận ánh sáng của
Đảng ( bài thơ Từ ấy của Tố Hữu ), hay mô tả phong thái ung dung, đường hoàng,
tự tin của người chiến sĩ Cách mạng khi trèo đèo lội suối :
Nhớ chân người bước lên đèo
nhưng hội họa lại bất lực trước điều đó. Thông qua trí tưởng tượng, độc giả
có thể tái tạolại hình tượng cuộc sống, con người. "Hình tượng nhân vật được
sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người
đọc" là vì thế.
III. Tổng kết:
- Hình tượng nghệ thuật :
+ Nghĩa rộng : toàn bộ những gì nhà văn tái hiện, miêu tả trong tác phẩm.
+ Nghĩa hẹp : đặc điểm hay phẩm chất của một sự việc hay nhân vật được nhà
văn tập trung thể hiện ( hình tượng Tổ quốc, hình tượng người mẹ, hình tượng
người anh hùng … )
- Hình tượng nghệ thuật vừa mang tính khái quát, vừa mang những nét cụ thể,
cá biệt. Do đó, vừa phản ánh bản chất đời sống, nó vừa hiện lên y như thật.


- Hình tượng văn học là thước đo giá trị tài năng của nhà văn và là tiêu chí đánh
giá giá trị của mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học.
“Một nhà văn không thành thực không bao giờ là nhà văn có giá trị. Nhưng
không phải cứ thành thực là trở nên nghệ sĩ. Nhưng nghệ sĩ không thành thực
chỉ là một người thợ khéo tay thôi” ( Thạch Lam ).



×