Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học ngữ pháp ở bậc trung học phổ thông (ban cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thủy Tiên

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
VÀO DẠY HỌC NGỮ PHÁP
Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Ban cơ bản)

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Thủy Tiên

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
VÀO DẠY HỌC NGỮ PHÁP
Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Ban cơ bản)

Chuyên ngành

: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn học

Mã số


: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn một cách hoàn chỉnh, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình của quý Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong
suốt thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Đặng Ngọc Lệ, người đã hết lòng
hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời tri
ân nhất đối với những điều mà Thầy đã dành cho tôi.
Tôi cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, những người đã không
ngừng động viên, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập và
thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn các anh chị và bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn một cách hoàn chỉnh.
Dù đã cố gắng thực hiện để hoàn thành luận văn bằng tất cả tâm huyết và nỗ lực của
mình, nhưng luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp xây dựng chân thành của quý Thầy Cô. Tôi xin cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, 30 tháng 9 năm 2013

1



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực
và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc
thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
TP. Hồ Chí Minh, 30 tháng 9 năm 2013
Tác giả luận văn

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................6
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ...............................................................................................7
3. Mục đích, đối tượng của đề tài ....................................................................................12
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................13
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................................14
6. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................................14

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ....................... 15
1.1. Cơ sở lí luận ...............................................................................................................15
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học.............................................................................................. 15
1.1.2. Cơ sở tâm lý - ngôn ngữ ....................................................................................... 15
1.1.3. Cơ sở giáo dục học ............................................................................................... 16
1.1.4. Lý thuyết về giao tiếp và hoạt động giao tiếp ...................................................... 16

1.1.5. Khái niệm phương pháp giao tiếp trong dạy học ................................................. 27
1.2. Cơ sở thực tiễn ...........................................................................................................28
1.2.1. Vị trí, đặc điểm của phân môn ngữ pháp ............................................................. 28
1.2.2. Mục tiêu của việc dạy phân môn ngữ pháp .......................................................... 30

CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ PHÁP THEO QUAN ĐIỂM GIAO
TIẾP ............................................................................................................................ 32
2.1. Dạy học theo quan điểm giao tiếp là gì? ..................................................................32
2.2. Sự thể hiện của quan điểm giao tiếp trong dạy học ngữ pháp ..............................33
2.2.1. Khái quát nội dung chương trình ngữ pháp bậc THPT ........................................ 33
2.2.2. Quan điểm giao tiếp với nội dung dạy học ngữ pháp bậc THPT ......................... 34
2.2.3. Quan điểm giao tiếp với việc lựa chọn sử dụng các phương pháp dạy học ngữ
pháp ................................................................................................................................ 40
2.2.4. Quan điểm giao tiếp với việc lựa chọn, sử dụng các hình thức tổ chức dạy học
ngữ pháp. ........................................................................................................................ 51
2.2.5. Quan điểm giao tiếp với việc kiểm tra, đánh giá.................................................. 58
2.3. Ưu điểm của việc vận dụng quan điểm giao tiếp ....................................................60
3


2.4. Thiết kế giờ học Ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp ............................................61
2.4.1. Hướng khai thác các bài học Ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp ....................... 61
2.4.2. Các bước thiết kế giờ học Ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp ........................... 65
2.4.3. Thiết kế giáo án .................................................................................................... 66

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM ............................................................................... 86
3.1. Mục tiêu thực nghiệm ...............................................................................................86
3.2. Đối tượng thực nghiệm .............................................................................................86
3.3. Phương pháp thực nghiệm .......................................................................................88
3.4. Nội dung thực nghiệm ...............................................................................................88

3.5. Tiến trình thực nghiệm .............................................................................................89
3.5.1. Chuẩn bị thực nghiệm .......................................................................................... 89
3.5.2. Theo dõi tiến trình giờ dạy thực nghiệm .............................................................. 89
3.6. Kết quả thực nghiệm .................................................................................................92
3.6.1. Kết quả thu nhận được từ học sinh ....................................................................... 92
3.6.2. Kết quả thu được từ khảo sát ý kiến giáo viên ................................................... 107
3.7. Đánh giá kết quả thực nghiệm ...............................................................................108
3.7.1. Ưu điểm: ............................................................................................................. 108
3.7.2. Nhược điểm: ....................................................................................................... 109

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 117
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 121

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết thường

Viết tắt

Tiếng Việt

TV

Phương pháp dạy học

PPDH


Giáo viên

GV

Học sinh

HS

Phương pháp

PP

Sách giáo viên

SGV

Sách giáo khoa

SGK

Thực nghiệm

TN

Đối chứng

ĐC

Trung học cơ sở


THCS

Trung học phổ thông

THPT

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cùng với lao động, ngôn ngữ góp phần hình thành và phát triển xã hội loài người.
Ngôn ngữ là một sáng tạo kì diệu của loài người, là phương tiện giao tiếp phổ biến nhất và
thuận lợi nhất. Mặt khác, ngôn ngữ còn là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành dân tộc,
duy trì và phát triển truyền thống văn hoá.
Tiếng Việt (TV) là sản phẩm của dân tộc Việt, góp phần duy trì sự thống nhất quốc
gia.
Trong chương trình phổ thông, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh (HS)
những lý thuyết cơ bản về ngôn ngữ học và tiếng Việt, nhằm giúp HS vận dụng tốt những
quy tắc trong hoạt động giao tiếp nói và viết, tiếp nhận và tạo lập văn bản.
Vì vậy, trong sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn, phần Tiếng Việt đã được chú trọng về
tính hành dụng, tức là khả năng ứng dụng Tiếng Việt vào việc đọc văn và vào các hoạt động
giao tiếp bằng ngôn bản khác.
Riêng phân môn ngữ pháp, trong chương trình Ngữ văn Trung học Phổ thông
(THPT), HS được học tiếp nối những kiến thức về ngữ pháp ở lớp dưới nhưng việc trang bị
kiến thức mới rất ít, chủ yếu là rèn luyện kĩ năng sử dụng câu trong giao tiếp (tập trung ở
chương trình Ngữ văn 11). Nhìn chung, nội dung của các bài học ngữ pháp ở THPT cũng đã
được biên soạn theo hướng chú trọng tính thực hành, có sự tích hợp kiến thức với phần Làm
văn và Đọc hiểu văn bản. Bên cạnh đó, các bài học được thiết kế theo hướng “mở” (việc lựa

chọn ngữ liệu hay những kết luận được rút ra sau khi tìm hiểu ngữ liệu đều không mang tính
bắt buộc, áp đặt), giáo viên (GV) có thể có những sáng tạo riêng trong bài dạy sao cho phù
hợp với đối tượng HS, để HS chủ động, tích cực cùng GV xây dựng bài học.
Tuy nhiên, dù chương trình Ngữ văn THCS đã được triển khai đại trà từ năm 2002,
Ngữ văn THPT là từ năm 2006, nhưng thực tế dạy học cho thấy nhiều HS vẫn cảm thấy
nặng nề khi học và thiếu hứng thú với những bài về Tiếng Việt. Tình trạng dùng từ tuỳ tiện,
viết câu sai, cách diễn đạt xa rời chuẩn mực tiếng Việt vẫn còn nhiều đã ảnh hưởng không
nhỏ đến năng lực tư duy, đọc hiểu văn bản và viết văn nghị luận của các em. Thực tế này đã
đặt ra cho các nhà sư phạm nói chung và những GV dạy Ngữ văn nói riêng nhiều suy nghĩ
6


về hiệu quả của việc dạy tiếng, trong đó có việc dạy học phân môn ngữ pháp. Việc này đòi
hỏi GV khi dạy học ngữ pháp phải vận dụng nhiều phương pháp tích cực, đặc biệt chú trọng
việc dạy học trong giao tiếp và bằng giao tiếp, nhằm hướng HS đến cái đích cuối cùng của
việc học tiếng là để giao tiếp đúng chuẩn mực tiếng Việt.
Từ những điều trên, tôi chọn đề tài “Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học
ngữ pháp ở bậc THPT” nhằm góp một phần nào nâng cao hiệu quả việc dạy và học ngữ
pháp.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, có lẽ lần đầu tiên người dạy tiếng Việt làm quen với thuật ngữ phương
pháp giao tiếp là nhờ giáo trình Phương pháp dạy học tiếng Việt của Lê A và các cộng
sự. Dựa vào việc triển khai sách mới ở bậc THPT, tôi chọn mốc 2006 để xem xét một số
công trình nghiên cứu lý thuyết giao tiếp vào dạy học ngữ pháp.
2.1. Từ năm 1986 đến trước năm 2006
Từ năm 1986, khi Tiếng Việt được xem là một môn học độc lập trong nhà trường,
đến trước năm 2006 chúng ta có nhiều có công trình nghiên cứu về PPDH Tiếng Việt,
nhưng chỉ có một số ít bàn đến việc dạy học ngữ pháp, như: Dạy học Ngữ pháp ở tiểu học
của tác giả Lê Phương Nga, “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” do nhóm tác giả PGS. TS

Lê A, Thành Thị Yên Mĩ, PGS. TS Lê Phương Nga biên soạn chủ yếu dành cho GV bậc
Tiểu học, và quyển “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” (Lê A chủ biên). Nhìn chung, trong
các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã cung cấp cho chúng ta những vấn đề cơ bản
của lí luận dạy Tiếng như: đối tượng, nhiệm vụ của PPDH Tiếng Việt, các nguyên tắc dạy
học Tiếng Việt, cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng PPDH tiếng Việt, việc sử dụng
thiết bị và đồ dùng để dạy học Tiếng Việt, hoạt động ngoại khoá môn Tiếng Việt…
Giáo trình Dạy học ngữ pháp ở tiểu học của tác giả Lê Phương Nga đã nhấn mạnh
vai trò của việc dạy học ngữ pháp trong nhà trường. Ngữ pháp là một bình diện quan trọng
của ngôn ngữ bên cạnh các bình diện khác như ngữ âm, từ vựng, phong cách... Nó có tính
khái quát và trừu tượng cao hơn các bình diện khác vì nó bao gồm toàn bộ các quy tắc cấu
tạo từ, biến đổi từ, kết hợp từ thành cụm từ, câu và cả các quy tắc liên kết câu để tạo thành
đơn vị lớn hơn là đoạn văn và văn bản. “Ngữ pháp có vai trò quan trọng trong việc tổ chức
hoạt động tạo lập và lĩnh hội ngôn bản”. Do vậy, mục tiêu của việc dạy học ngữ pháp chủ
yếu là thực hành nhằm hướng HS đến việc sử dụng thành thạo, có hiệu quả các kĩ năng
7


nghe, nói, đọc, viết. Điều được chú ý ở giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” là
quan điểm dạy học Ngữ pháp theo định hướng giao tiếp: “…việc dạy học tiếng Việt nói
chung và dạy học Ngữ pháp nói riêng cần thấm nhuần quan điểm giao tiếp cả trong phương
pháp dạy học…”. Đây là một quan điểm đúng đắn. Dạy Ngữ pháp sẽ trở nên phiến diện nếu
GV chỉ chú trọng đến việc mô hình hoá các hình thức kết hợp của từ, ngữ…. Mục đích của
việc dạy học Ngữ pháp nói riêng và Tiếng Việt nói chung là phải giúp HS có thể giao tiếp
trong các tình huống khác nhau. Trong hoạt động giao tiếp, do sự chi phối của các nhân tố
giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà các yếu tố ngôn ngữ luôn cần được sử dụng một
cách linh hoạt để phù hợp với hoàn cảnh và đạt được hiệu quả giao tiếp.
Trong chương trình dạy lý thuyết ngữ pháp, bên cạnh các bài về khái niệm còn có
các bài về quy tắc, ví dụ như quy tắc lựa chọn trật tự từ trong câu, quy tắc sử dụng các kiểu
câu trong văn bản… Việc dạy các quy tắc cũng cần theo các bước cụ thể sau: xác định đúng
nội dung của các quy tắc và các khái niệm ngữ pháp có liên quan – nêu rõ mục đích và tác

dụng của từng quy tắc – chú trọng các thao tác trong quá trình thực hiện quy tắc.
Do các quy tắc ngữ pháp vừa liên quan đến khái niệm ngữ pháp, vừa gắn liền với các
hoạt động ngôn ngữ trong thực tiễn sử dụng nên việc dạy học quy tắc ngữ pháp chính là
việc chuyển từ ngữ pháp lí luận sang ngữ pháp thực hành. Vì vậy, khi dạy quy tắc cần
hướng vào các nguyên tắc: gắn lí thuyết với thực hành, hướng vào hoạt động giao tiếp để từ
các quy tắc mà hướng dẫn tạo lập các sản phẩm giao tiếp, chuyển đổi chúng cho thích hợp
với từng hoàn cảnh cụ thể. Với kiểu bài thực hành ngữ pháp, tác giả chú trọng việc hướng
dẫn HS làm các dạng bài tập với các bước thực hiện cụ thể, đó là các kiểu bài tập nhận diện
- phân tích, bài tập chuyển đổi, bài tập tạo lập (sáng tạo), bài tập sửa chữa.. Vai trò của các
bài dạy thực hành ngữ pháp là nhằm làm sáng tỏ thêm và củng cố các khái niệm, các quy tắc
ngữ pháp; rèn luyện các năng lực phân tích các hiện tượng ngữ pháp một cách khoa học,
thực hiện việc lĩnh hội sản phẩm giao tiếp ngôn ngữ một cách chính xác và tinh tế; nâng cao
khả năng nói, viết sao cho phù hợp với quy tắc ngữ pháp, thích hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
Muốn thực hiện được mục đích trên, việc dạy thực hành ngữ pháp ở THPT cần tuân thủ
những nguyên tắc của dạy ngữ pháp: gắn lí thuyết với thực hành, tích cực hoá và ý thức hoá
vốn kinh nghiệm ngôn ngữ của HS, hướng vào hoạt động giao tiếp, kết hợp giữa sự phát
triển tư duy và phát triển ngôn ngữ ở HS…
Khi bàn về lỗi viết câu của HS tiểu học, tác giả nêu lên một vấn đề cần lưu ý khi sửa
lỗi viết câu cho HS: “Trước đây khi nghiên cứu lỗi viết câu, người ta thường xét những câu
8


sai một cách cô lập nên chỉ chú ý đến các lỗi trong cấu trúc nội bộ của câu. Đồng thời
người ta cũng chỉ chú ý đến cấu trúc cú pháp, ít chú ý đến nghĩa khi xem xét câu. Cách làm
trên rõ ràng là chưa thoả đáng. Bởi vì câu chỉ có thể thực hiện chức năng của mình trong
một đơn vị lớn hơn – văn bản. Cho nên khi bàn về lỗi viết câu, chúng ta cần đặt câu trong
văn bản để xem xét và dựa vào yêu cầu về câu trong văn bản làm chuẩn để đối chiếu, xác
định một câu như thế nào bị xem là mắc lỗi”. Quan điểm này hoàn toàn thống nhất với
nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp của việc dạy câu và quan điểm xem xét câu ở
bình diện ngữ nghĩa, ngữ dụng.

Trong bài viết Cần đổi mới mục tiêu môn Tiếng Việt, Ngữ học trẻ, 1997, nhìn nhận
rằng dạy học Tiếng Việt (TV) trong những năm qua chưa có kết quả như mong muốn là do
chương trình thiên về dạy ngôn ngữ học chứ không phải dạy sử dụng tiếng mẹ đẻ, tác giả
Nguyễn Đức Sĩ Tiến cho rằng cần phải thay đổi mục tiêu dạy học TV trong nhà trường.
Theo đó, người viết đề xuất dạy học TV nên hướng tới bốn mục tiêu chính: trang bị những
tri thức về TV, rèn luyện kĩ năng sử dụng TV, rèn luyện và nâng cao năng lực tư duy, hướng
tới cái đẹp. Khi bàn về mục tiêu thứ nhất và thứ hai, tác giả cho rằng chúng ta dạy kiến thức
không phải để các em trở thành một nhà ngôn ngữ học mà để các em vận dụng thực hành,
việc dạy học phải hướng vào mục đích giao tiếp, giúp người học nâng cao năng lực giao tiếp
bằng ngôn ngữ. Muốn thế, dạy tiếng phải rèn luyện cho người học các kĩ năng nghe nói,
đọc, viết để họ có thể tạo lời hay nhận lời trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Cũng vì vấn đề
chính mà tác giả muốn khai thác là đổi mới mục tiêu nên quan điểm giao tiếp chỉ được nhắc
đến chứ không được trình bày thấu đáo.
Hướng giao tiếp trong dạy học phần TV ở sách Ngữ văn 6 của tác giả Thái Kim
Thành đăng trên Ngữ học trẻ, 2003 là bài phân tích nội dung chương trình phần TV lớp 6
dưới góc nhìn của định hướng giao tiếp. Tác giả cho rằng cấu trúc và nội dung SGK Ngữ
văn thể hiện rõ định hướng giao tiếp song cũng có những bài học mà hướng này chưa thực
sự được quan tâm đúng mức. Trong quá trình đánh giá người viết khẳng định dạy học theo
quan điểm giao tiếp sẽ làm cho HS tích cực hơn đồng thời chỉ ra một quy trình dạy học TV
theo hướng giao tiếp, đó là để HS tiếp thu kiến thức theo lối quy nạp rồi làm bài tập từ đó
mà rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Mục đích của bài nghiên cứu chủ yếu là nhận định
về hướng giao tiếp trong sách Ngữ Văn 6 nên các vấn đề về quan điểm giao tiếp chỉ được
tác giả đề cập đến chứ chưa thực sự đi sâu làm sáng tỏ.

9


Cũng trên Ngữ học trẻ, 2003, tác giả Ngô Thị Minh có bài Dạy TV theo hướng hoạt
động giao tiếp ở bậc tiểu học. Bài viết bàn về ba nội dung chính: khái niệm về vấn đề dạy
TV theo hướng hoạt động giao tiếp, cơ sở khoa học và thực tiễn của việc dạy TV hướng vào

hoạt động giao tiếp, sự thể hiện việc dạy TV theo hướng hoạt động giao tiếp ở bậc tiểu học
hiện nay. Trong nội dung thứ nhất, sau khi nêu khái niệm dạy TV theo hoạt động giao tiếp
là dạy để người học sử dụng thành thạo ngôn ngữ, vận dụng tốt các kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết vào tham gia giao tiếp với cộng đồng, tác giả đưa ra các nguyên tắc và phương pháp
dạy tiếng theo hướng giao tiếp. Đến nội dung thứ hai, người viết phân tích rõ cơ sở của việc
dạy tiếng hướng vào hoạt động giao tiếp. Đó là xuất phát từ bản chất của ngôn ngữ là một
hệ thống luôn vận động và phát triển trong cơ chế hoạt động hành chức và xuất phát từ mục
tiêu của môn TV ở tiểu học. Dù bài viết hướng đến bậc tiểu học nhưng người quan tâm vẫn
tìm thấy kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp trong dạy học TV.
Các giáo trình trên đã nghiên cứu việc dạy học ngữ pháp trên cơ sở phân tích chương
trình sách giáo khoa (SGK) và các PPDH Tiếng Việt thường được sử dụng trong nhà
trường. Từ đó, khái quát thành những cơ sở lí luận về vai trò của việc dạy học ngữ pháp,
hình thành cho HS các kỹ năng giao tiếp cơ bản. Đồng thời, GV cũng có thể tìm thấy ở các
giáo trình trên những chỉ dẫn cần thiết về các kĩ năng khi dạy lí thuyết và thực hành ngữ
pháp. Tuy nhiên, do các giáo trình này được viết khi SGK cũ đang được sử dụng nên hiện
nay vẫn còn một số điểm bất cập, hạn chế nhất định cần phải bổ sung kịp thời. Chẳng hạn
như hệ thống ngữ liệu không còn phù hợp, một số hình thức tổ chức dạy học tiếng Việt dù
đã chú trọng đến vai trò chủ động của HS nhưng chưa thật sự thể hiện rõ vai trò hướng dẫn
của GV và sự sáng tạo của HS; hệ thống bài tập còn đơn điệu, thiếu tính liên kết và chưa
được khai thác triệt để các dạng bài tập nhằm phát triển tư duy logic, tư duy khoa học cho
HS…đặc biệt, chưa chú ý đến quan điểm giao tiếp trong việc dạy học ngữ pháp.
2.2. Từ năm 2006 đến nay
Trong tài liệu “Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ
thông”, tác giả Đỗ Ngọc Thống đã giúp GV THPT thấy được những yêu cầu của việc đổi
mới chương trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn và sự cần thiết của việc đổi mới PPDH
Tiếng Việt theo quan điểm “tích cực”. Theo tác giả, mục đích chính của việc dạy tiếng Việt
ở THPT là “hành dụng”, “tức là hình thành và rèn luyện cho HS khả năng vận dụng các
đơn vị ngôn ngữ trong tiếng Việt một cách tổng hợp và thành thạo trong nói cũng như viết
theo một kiểu văn bản nào đó”. Trong sách giáo viên Ngữ văn 10 (Tập 1) – Phần “Những
10



vấn đề chung” , các tác giả đã nêu rõ 3 mục tiêu cơ bản của việc dạy Tiếng Việt cho HS
THPT là hình thành một số kiến thức về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng, rèn
luyện và nâng cao các kỹ năng sử dụng tiếng Việt, giúp HS có ý thức thận trọng khi sử dụng
tiếng Việt, chịu khó tự sửa chữa sai sót để lời nói, câu văn được trong sáng. Về PPDH Tiếng
Việt, các tác giả nhấn mạnh phương châm dạy tiếng Việt “bằng thực hành, thông qua thực
hành và hướng tới thực hành” . Phương châm này cần áp dụng trong cả giờ dạy lý thuyết
cũng như thực hành.
Trong bài Dạy học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp,
Giáo dục, số 175, kì 2 – 10/2007, tác giả Lê Thị Bích Hồng khẳng định sự cần thiết phải sử
dụng tình huống giao tiếp trong dạy Tiếng Việt. Tác giả nhấn mạnh “trong dạy học, để giúp
HS tích cực chủ động, huy động mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt
động tìm kiếm tri thức mới hay giải quyết các tình huống mới, tăng cường khả năng suy
nghĩ độc lập, sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận thức, lời nói và hành vi, GV cần xây dựng
các tình huống giao tiếp”. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những định nghĩa tương đối
đầy đủ về tình huống giao tiếp và xác định các đặc điểm cơ bản cùng những yêu cầu cần
thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ học tiếng. Từ cơ sở đó, tác giả mô tả khái quát
quy trình thực hiện một tình huống giao tiếp trong giờ dạy Tiếng Việt.
Hoạt động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở tiểu học của hai tác giả Phan Phương
Dung, Đặng Kim Nga là công trình nghiên cứu chuyên sâu về dạy TV theo hướng giao
tiếp. Nội dung giáo trình được triển khai theo 3 chương: giao tiếp và hoạt động giao tiếp, từ
và câu trong hoạt động giao tiếp, dạy học TV theo quan điểm giao tiếp. Trong chương 3,
những vấn đề lí luận, những định hướng dạy học tương đối cụ thể ở tiểu học được trình bày
khá cặn kẽ, đem đến cho người quan tâm những tri thức cần thiết về quan điểm giao tiếp
trong dạy TV nói chung, dạy TV ở tiểu học nói riêng. Giáo trình xác định rõ việc dạy TV ở
tiểu học cần phải theo quan điểm giao tiếp, chỉ rõ mối quan hệ giữa quan điểm giao tiếp với
mục tiêu dạy học TV ở tiểu học. Từ những phân tích cặn kẽ, người viết kết luận rằng cả mục
tiêu và chương trình học đều hướng đến nhiệm vụ rèn kĩ năng lời nói cho HS và điều này là
minh chứng cho định hướng giao tiếp trong môn TV ở tiểu học.

Cũng góp tiếng nói về quan điểm giao tiếp trong dạy tiếng trong bài viết Yêu cầu đối
với việc thiết kế bài tập TV dưới ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp, tác giả Trịnh
Thị Lan khẳng định dạy học TV cần phải hướng vào hoạt động giao tiếp để rèn luyện cho
người học những kĩ năng giao tiếp nhất định. Bài viết không lí luận về quan điểm giao tiếp
11


nói chung mà bàn sâu về những yêu cầu khi thiết kế bài tập TV theo quan điểm này. Trong
bài viết, tác giả lưu ý việc ra bài tập cần phải tạo được tình huống kích thích nhu cầu giao
tiếp và định hướng giao tiếp cho người học. Bài tập cũng phải chỉ rõ cho HS hướng giao
tiếp khi áp dụng tri thức TV sẽ thực hành, tức từ bài tập HS sẽ rút ra được hoặc củng cố một
tri thức hay một kĩ năng cần thiết cho hoạt động giao tiếp sau này. Cuối cùng, bài tập cần
phải có những yêu cầu, nhiệm vụ giao tiếp cụ thể để định hướng cho HS tạo lập những phát
ngôn cụ thể. Có thể nói, bài viết đã chỉ ra cho GV một cách làm khoa học để thiết kế những
bài tập thực hành trong dạy học tiếng mẹ đẻ. Song, do mục đích nghiên cứu nên quan điểm
giao tiếp trong bài viết chỉ dừng lại ở vấn đề bài tập, chưa khai thác ở các khía cạnh khác
của hoạt động dạy học.
Các công trình tôi đã đề cập trên đây cho thấy quan điểm giao tiếp đã được khai thác
nhiều ở mặt lí luận và thực tiễn dạy học Tiếng Việt. Song tôi nhận thấy, hầu hết các công
trình đều nghiên cứu lý thuyết giao tiếp trong việc dạy tiếng Việt nói chung, chưa có công
trình nào có sự chuyên sâu nghiên cứu, xem xét cụ thể tính ứng dụng của việc vận dụng
quan điểm giao tiếp vào dạy học phân môn ngữ pháp theo đúng những đặc thù và mục tiêu
mà môn học này đề ra.
Dẫu các tài liệu nêu trên không trực tiếp đề cập đến vấn đề mà chúng tôi quan tâm
nhưng chính các công trình nghiên cứu đó là những gợi ý quý báu về cơ sở lí luận giúp
chúng tôi triển khai đề tài Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học ngữ pháp bậc THPT
(ban Cơ bản).

3. Mục đích, đối tượng của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài

- Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học ngữ pháp ở trường phổ
thông, khi thực hiện đề tài này, người viết hướng vào giải quyết những vấn đề sau:
+ Tìm hiểu, làm sáng tỏ quan điểm giao tiếp trong dạy học ngữ pháp;
+ Hình thành quy trình, phương hướng thiết kế giờ dạy ngữ pháp bậc THPT theo
quan điểm giao tiếp;
+ Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng hiệu quả của dạy ngữ pháp theo quan điểm
giao tiếp;

12


Chọn đề tài này để nghiên cứu, bên cạnh mục đích nâng cao chất lượng học tập của
HS, chúng tôi còn hi vọng giúp một phần cho GV ứng dụng được quan điểm giao tiếp trong
dạy học ngữ pháp ở THPT nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học Tiếng Việt theo
phương pháp tích hợp.
3.2. Đối tượng của đề tài
Có nhiều quan điểm chi phối việc dạy Ngữ pháp trong nhà trường song trong luận
văn này, người viết chỉ nghiên cứu trong giới hạn:
- Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy những bài ngữ pháp ở chương trình THPT
(lớp 10, 11).
- Công việc TN cũng được tiến hành trong chương trình lớp 11, đối tượng TN là HS
lớp 11C1, 11C2 trường THPT Trí Đức, Tân Phú, TP.Hồ Chí Minh và HS lớp 11.1, 11.2
thuộc hệ thống trường dân lập Quốc tế Việt Úc, quận 10, TP.HCM.

4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau:
4.1. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này được chúng tôi ứng dụng để tổng hợp lý thuyết về quan điểm giao
tiếp và phân tích các dữ liệu, từ đó, rút ra kết luận khái quát về việc dạy ngữ pháp theo
hướng giao tiếp

4.2. Phương pháp thống kê
Chúng tôi sử dụng PP này để thống kê, phân loại các phiếu khảo sát HS, GV và
thống kê, phân loại kết quả TN làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả sau cùng.
4.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi cũng so sánh – đối chiếu kết quả thu được ở
lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá về tính khả thi của các giáo án ngữ pháp
được thiết kế theo quan điểm giao tiếp.
4.4. Phương pháp thực nghiệm
Để kiểm chứng tính khả thi của đề tài, xem xét những kết quả thu được của dạy học
ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi tiến hành TN sư phạm 8 tiết ở trường THPT.
13


Công việc được bắt đầu từ khâu xác định mục đích TN đến lựa chọn đối tượng TN, phương
pháp TN, nội dung TN và đánh giá kết quả TN.

5. Đóng góp của luận văn
Thực hiện luận văn này, chúng tôi mong muốn có những đóng góp nhỏ sau:
- Tổng hợp và hệ thống hóa những kiến thức lí thuyết về quan điểm giao tiếp trong
dạy học ngữ pháp.
- Đưa ra quy trình, phương hướng thiết kế giáo án dạy ngữ pháp theo quan điểm giao
tiếp.
- Góp thêm tiếng nói để khẳng định một quan điểm tích cực trong dạy học TV: quan
điểm giao tiếp.
- Đánh thức sự quan tâm của GV đối với quan điểm giao tiếp trong dạy học TV để từ
đó họ có sự tìm tòi sáng tạo trong PP, hình thức tổ chức dạy học TV có hiệu quả.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn còn có ba chương: (1) Cơ sở lý luận và thực
tiễn của đề tài. (2) Tổ chức dạy học ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp. (3) Thực nghiệp sư

phạm. Ngoài phần nội dung chính, luận văn còn kèm theo các phụ lục: phiếu học tập, phiếu
kiểm tra, phiếu khảo sát ý kiến của HS, phiếu dự giờ có nhận xét, đánh giá của giáo viên.

14


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Thuật ngữ “năng lực giao tiếp” tuy xuất hiện sau thuật ngữ “năng lực ngôn ngữ”
nhưng nhờ sự xuất hiện ấy mà “năng lực giao tiếp” đã làm thay đổi quan điểm dạy học
Tiếng Việt hiện nay, trở thành mục đích cuối cùng của việc dạy và học Tiếng Việt. Khái
niệm “năng lực giao tiếp” được hiểu thông qua sự đối lập với khái niệm “năng lực ngôn
ngữ”. Năng lực ngôn ngữ là khả năng của con người tạo ra được những câu đúng trên cơ sở
nắm vững những kiến thức ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm, tu từ…của ngôn ngữ đó. Còn năng
lực giao tiếp đó là việc lựa chọn và hiện thực hóa những chương trình của hành vi lời nói
tùy thuộc vào khả năng định hướng trong hoàn cảnh này hoặc khác, khả năng phân loại các
tình huống sao cho phù hợp với chủ đề, nhiệm vụ và mục đích giao tiếp ở người học trước
khi giao tiếp, trong khi giao tiếp và trong quá trình mô phỏng các tình huống giống và gần
giống như giao tiếp thực. Nói cách khác, năng lực giao tiếp chính là khả năng tham gia vào
giao tiếp. Giao tiếp với tư cách là một dạng hoạt động đặc biệt của con người nhằm củng cố
mối quan hệ và được sử dụng để truyền đạt thông tin giữa người và người. Ở đây, có hai
mặt phản ánh qua lại, mặt ngôn ngữ và mặt xã hội vì bất cứ một phát ngôn nào cũng được
sản sinh trong một tình huống cụ thể có kèm theo một nền rất rộng các điều kiện tạo ra tình
huống ấy. Ngôn ngữ được sử dụng có tính đến tình huống giao tiếp và sự ảnh hưởng tới
những đặc điểm tâm lý cá thể trong việc sử dụng từ ngữ của người tham gia giao tiếp, có
nghĩa là có tính đến hiệu quả ứng dụng, điều đó loại trừ khả năng tồn tại những phát ngôn
riêng biệt được tạo nên ngoài ngữ cảnh giao tiếp. Đơn vị giao tiếp là loại hành động lời nói
nhất định hoặc hành vi lời nói khẳng định yêu cầu hỏi han, xin lỗi, cảm ơn…
1.1.2. Cơ sở tâm lý - ngôn ngữ

Theo quan điểm tâm lý học hoạt động do nhà tâm lý học người Nga L.S.Vư-gootsxki
và trường phái của ông đề xướng thì hoạt động lời nói là một dạng hoạt động đặc biệt của
con người, mà hoạt động thì bao gồm nhiều hành động riêng lẻ và mỗi hành động được tạo
thành từ nhiều thao tác riêng biệt.Từ đó suy ra đơn vị dạy- học ngôn ngữ phải là hành động
lời nói. Dạy hành động lời nói cần phải xem xét trên quan điểm: Dạy ai? Dạy cái gì?, Dạy
để làm gì? và Dạy như thế nào?. Đối với việc dạy hoạt động lời nói, sự thống nhất giữa các
mặt chức năng và hình thức của nó là đều có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì hình thức ngôn
15


ngữ không thể có được nếu thiếu mặt chức năng. Nếu mục đích của việc dạy- học là hoạt
động lời nói thì hình thức và chức năng cần phải được hình thành đồng thời, hơn thế, cơ sở
để hình thành hoạt động lời nói phải là chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Phương pháp dạy
học Tiếng Việt vận dụng rất nhiều thành tựu của Tâm lý học. Đó là các quy luật tiếp thu tri
thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Tâm lý ngôn ngữ học đem lại cho phương pháp những số
liệu về lời nói như một hoạt động, ví dụ như việc xác định tình huống nói năng, các giai
đoạn sản sinh lời nói, tính hiệu quả, sự tác động của lời nói trong giao tiếp giữa cá thể với
nhiều người. Quan hệ của phương pháp học Tiếng Việt và Tâm lý học, đặc biệt là Tâm lý
học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lý người nói chung và tâm lý
học sinh trung học phổ thông nói riêng thì không thể giảng dạy tốt và phát triển ngôn ngữ
cho các em.
1.1.3. Cơ sở giáo dục học
Phương pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ phận của khoa học giáo dục nên nó phụ
thuộc vào những quy luật chung của khoa học này.. Mục đích của phương pháp dạy học
Tiếng Việt cũng như các khoa học giáo dục nói chung là tổ chức sự phát triển tâm hồn và
thể chất của học sinh, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc sống lao động trong xã hội mới.
Quan hệ của phương pháp dạy học Tiếng Việt với khoa học giáo dục thể hiện ở chỗ phương
pháp được một hệ thống giáo dục tạo ra và làm cơ sở. phương pháp dạy học Tiếng Việt sử
dụng các khái niệm, thuật ngữ của Giáo dục học. Nó hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ giáo
dục do Giáo dục học đề ra- phát triển trí tuệ, hình thành thế giới quan khoa học, phát triển tư

duy sáng tạo cho học sinh, giáo dục tư tưởng đạo đức, phát triển óc thẩm mỹ giáo dục tổng
hợp và giáo dục lao động. Trong phương pháp dạy học Tiếng Việt có thể tìm thấy các
nguyên tắc cơ bản của Lý luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học,
nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc gắn liền lý
thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá thể và phân hóa trong
dạy học…
1.1.4. Lý thuyết về giao tiếp và hoạt động giao tiếp
1.1.4.1. Giao tiếp và các hình thức của giao tiếp
Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay truyền đạt
thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo đó, có thể hiểu giao tiếp là hoạt động giữa

16


hai người hay hơn một người nhằm bày tỏ với nhau một thông tin trí tuệ hoặc thông tin cảm
xúc, một ý muốn hành động hay một nhận xét về sự vật, hiện tượng nào đó.
“Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, qua những
phương tiện khác nhau, như ánh sáng, màu sắc, âm thanh, cử chỉ, điệu bộ,…” (Sách GV
TV 5, tập 1, trang 6). Nhưng giao tiếp ngôn ngữ là hình thức giao tiếp cơ bản và quan trọng
nhất của xã hội loài người.
Về nguyên tắc, giao tiếp ngôn ngữ mang tính chất xã hội, trong đó người tham gia
giao tiếp phải có mối quan hệ nhất định với nhau, đó là quan hệ giao tiếp. Quan hệ giao tiếp
được xây dựng trên hệ thống các mối quan hệ xã hội nói chung, tên cấu trúc xã hội và trên
quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp hoặc nhóm người trong xã hội.
Giao tiếp ngôn ngữ có thể thực hiện bằng lời (giao tiếp miệng) hoặc bằng văn tự
(giao tiếp viết).Trong hai dạng trên thì giao tiếp miệng là cơ sở.
1.1.4.2. Chức năng của giao tiếp
a) Chức năng thông tin:
Thông tin là chức năng thường gặp nhất của giao tiếp, có thể được thực hiện qua
nhiều phương tiện. Trong chức năng này, giao tiếp giúp những người tham gia hoạt động

trao đổi cho nhau những tin tức dưới dạng nhận thức, những tư tưởng có được từ hiện thực.
Các cuốn giáo trình, bài giảng của giáo viên, bài thi của học sinh, hệ thống biển báo,…là
những ví dụ về chức năng thông tin của giao tiếp.
b) Chức năng tạo lập quan hệ:
Nhiều khi trò chuyện với nhau không phải vì muốn thông báo với người khác một
nội dung trí tuệ, một hiểu biết, một nhận thức, mà vì muốn thiết lập một mối quan hệ mới
hoặc duy trì một mối quan hệ đã được thiết lập từ trước. Thậm chí, vì ta muốn phá vỡ một
mối quan hệ đã có nhưng nay không muốn duy trì nữa.
Chức năng tạo lập quan hệ bao hàm cả tác dụng phá vỡ quan hệ. Còn trò chuyện
được có nghĩa là có thể tiếp tục duy trì quan hệ thân hữu giữa những người tham gia giao
tiếp. Nhưng cũng có khi giao tiếp lại góp phần phá vỡ mối quan hệ vốn có giữa họ. Sự phá
vỡ này có thể do những người trong cuộc cố tình tạo ra, nhưng cũng có bao gồm mối quan
hệ bị phá vỡ một cách vô tình do ta “chậm miệng” hay lỡ lời, người ta vẫn hay nói: sảy chân
còn đỡ được chứ sảy miệng thì làm sao mà đỡ nổi!
17


Tạo lập quan hệ là chức năng giao tiếp cộng tác giữa người với người. Có thể nhiều
người không biết đến, nhưng ngôn ngữ vẫn luôn đảm nhận chức năng này một cách lặng lẽ,
rất cần cho sự tồn tại của xã hội.
c) Chức năng tự biểu hiện:
Qua giao tiếp, con người tự biểu hiện mình. Một cách có ý thức hoặc không có ý
thức, qua lời nói, ta có thể để lộ tình cảm, sở thích, khuynh hướng, trạng thái tâm hồn,
nguồn gốc địa phương, trạng thái sức khỏe..của bản thân.
d) Chức năng giải trí:
Nghỉ ngơi, giải trí là một nhu cầu của con người, giao tiếp cũng nằm trong những
mục giải trí dó nhưng dễ thực hiện và đỡ “tốn kém” hơn cả, không yêu cầu cao về hoạt động
tổ chức, không cần nhiều thời gian..Nhiều lúc,sau buổi làm việc căng thẳng, ta nói chuyện
phiếm với bạn bè, nhưng câu chuyện lúc tán gẫu, những bài thơ vui hay những câu chuyện
cười mà ta sưu tầm được,..đều làm cho tinh thần ta thư giãn, thoải mái.

e) Chức năng hành động:
Hành động là chức năng thông qua giao tiếp mà người ta thúc đẩy nhau hành động.
Không phải người nghe mới hành động mà người nói cũng phải hành động dưới sự thúc đẩy
của lời nói trong giao tiếp. Sự thúc đẩy này không phải khi nào cũng được thực hiện một
cách chủ động từ nhân vật giao tiếp, mà có thể xuất hiện một cách tự nhiên trong tình huống
giao tiếp cụ thể.
Mặt khác, chức năng hành động của giao tiếp còn thể hiện ở chỗ, qua cuộc giao tiếp,
các nhân vật có thể thay đổi về nhận thức, tình cảm, những thay đổi này, ở những mức độ
khác nhau, sẽ tác động đến hành động của họ.
1.1.4.3. Các nhân tố giao tiếp
Nhân tố giao tiếp là những yếu tố có mặt trong hoạt động giao tiếp và ảnh hưởng đến
hoạt động giao tiếp đó. Hiện thực được nói tới, ngôn ngữ được sử dụng, nhân vật giao tiếp,
mục đích giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp là những nhân tố giao tiếp thông thường.
f) Hiện thực được nói tới
Hiện thực được nói tới bao gồm những sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan,
những tâm trạng, cảm xúc,…được đưa vào ngôn bản. Đó là những hiện thực được đề cập tới
18


trong ngôn bản hoặc những điều người nói, người viết muốn gởi gắm tới người nghe, người
đọc.
Khi thực hiện một cuộc giao tiếp để xác định hiện thực được nói tới. người nói/viết
phải trả lời câu hỏi: Mình sẽ nói/viết vấn đề gì?Mình sẽ gửi gắm điều gì?
g) Ngôn ngữ được sử dụng
Ngôn ngữ được sử dụng là ngôn ngữ được người nói/viết dùng để tạo thành ngôn
bản. Đã có nội dung, nhưng để lựa chọn hình thức ngôn ngữ giao tiếp phù hợp nhất, người
nói/người viết cần trả lời câu hỏi:Nên nói hay viết?/Nên sử dụng ngôn ngữ thế nào?
h) Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào hoạt động giao tiếp. Trong giao tiếp,
các nhân vật giao tiếp luân phiên đảm nhận vai trò người phát (nói/viết). Tùy từng tình

huống cụ thể, người nhận có thể có mặt hay vắng mặt, có thể có một hay nhiều người, tích
cực hay tiêu cực.
Giữa các nhân vật giao tiếp có thể có quan hệ cùng vai, hoặc quan hệ khác vai. Muốn
cuộc giao tiếp đạt kết quả như mong muốn, người phát cần xác định đúng quan hệ vai giữa
mình với người nhận để lựa chọn hình thức giao tiếp phù hợp nhất.
Tuổi tác, quan hệ gia đình, địa vị xã hội, trình độ hiểu biết, trạng thái tâm lý, sinh
lý…của nhân vật giao tiếp, quan hệ vai giữa các nhân vật giao tiếp đều để lại dấu vết trong
lời nói.
i) Mục đích giao tiếp
Mỗi hoạt động giao tiếp diễn ra đều nhằm một số mục đích nào đó. Mục đích giao
tiếp có liên quan đến chức năng của giao tiếp. Giao tiếp có thể nhằm mục đích làm quen,
bày tỏ nỗi vui mừng, lo sợ, thông báo cho người nghe một tư tưởng, một nhận thức nào đó
của mình, đưa ra một lời mời hay một yêu cầu,..Với cuộc giao tiếp có nhiều mục đích, có
đích chính, đích phụ.
Mục đích giao tiếp là một trong những yếu tố chi phối việc lựa chọn nội dung và
cách thức giao tiếp. Khi trò chuyện với một người, sự lựa chọn ngôn ngữ để gây thiện cảm
với người đó không giống với các yếu tố ngôn ngữ mà ta lựa chọn khi muốn chấm dứt cuộc
hội thoại hay chấm dứt một mối quan hệ mà mình không muốn tiếp tục.

19


Do vậy, những người tham gia giao tiếp rất cần xác định đích ngay từ đầu, từ đó lựa
chọn nội dung, cách thức giao tiếp thích hợp để đạt tới đích đó một cách tốt nhất trong thời
gian ngắn nhất.
j) Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh diễn ra cuộc giao tiếp. Có hoàn cảnh giao tiếp rộng
và hoàn cảnh giao tiếp hẹp. Hoàn cảnh giao tiếp rộng bao gồm hoàn cảnh địa lý, xã hội, lịch
sử, kinh tế…chung của dân tộc, của đất nước. Hoàn cảnh hẹp là nơi chốn, thời gian cụ thể
diễn ra giao tiếp.

1.1.4.4. Các dạng lời nói và hoạt động giao tiếp
Căn cứ vào hình thức và phương tiện biểu đạt, có thể chia ngôn ngữ (lời nói) thành hai
dạng: khẩu ngữ (ngôn ngữ nói) và bút ngữ (ngôn ngữ viết). Hai dạng lời nói này có sự khác
nhau đáng kể về phương tiện biểu đạt, cách lựa chọn từ ngữ, hoàn cảnh sử dụng..
k) Khẩu ngữ:
-Đặc điểm: Khẩu ngữ là ngôn ngữ của âm thanh. Nó là một phương tiện trao đổi thông tin
trong xã hội, có khả năng truyền cảm rất lớn. Trong giao tiếp bằng khẩu ngữ, ngữ điệu có
vai trò đặc biệt quan trọng. Nhịp điệu lời nói nhanh hay chậm, độ cao hay thấp của giọng
nói, sự ngắt đoạn, đều có ảnh hưởng tới hiệu quả giao tiếp. Cùng với ngữ điệu, các phương
tiện phụ trợ phi ngôn ngữ như ánh mắt, vẻ mặt, cử chỉ, điệu bộ có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả biểu đạt của lời.
Khẩu ngữ đòi hỏi sự ứng xử linh hoạt với lời nói; so với bút ngữ, khẩu ngữ sử dụng
câu ngắn hơn, có cấu tạo đơn giản hơn. Thậm chí, trong giao tiếp miệng, có những câu
không trọn vẹn về nội dung, nhưng nhờ hoàn cảnh giao tiếp mà người nghe vẫn hiểu được
những điều người nói muốn truyền đạt tới mình một cách chính xác.
Khẩu ngữ có hai dạng: lời đối thoại và lời độc thoại.
- Lời đối thoại: thường xuất hiện trong giao tiếp hội thoại.
*Hội thoại: là hoạt động giao tiếp bằng lời miệng giữa các nhân vật giao tiếp, nhằm trao đổi
thông tin hoặc trao đổi tư tưởng, tình cảm,…theo một mục đích xác định.
*Các vận động hội thoại:

20


Về bản chất, hội thoại luôn vận động. Sự vận động này thể hiện ở ba phương diện: vận động
trao lời, vận động đáp lời và vận động tương tác.
-Vận động trao lời: là vận động mà người nói thực hiện để tạo ra lời trao hướng đến người
nghe để người nghe có phản ứng trở lại.
Lời trao phải tác động đến người nhận, tạo được phản ứng tích cực ở người nhận.
Muốn vậy, người trao lời cần:

+Xác định vị thế xã hội của mình với người nhận để quyết định nội dung, cách nói.
+Giữ vai trò khởi xướng hội thoại: gây sự chú ý lắng nghe, nêu đề tài hội thoại.
+Bộc lộ rõ ràng sự quan tâm, chú ý đến nội dung cuộc thoại, mong muốn được nghe và chú
ý lắng nghe lời đáp.
-Vận động đáp lời: là nhu cầu bức thiết của nói năng, là vận động của người nghe tạo lời nói
đáp lại lời trao. Đáp lời có thể bằng hành động, hoặc bằng lời nói kết hợp với hành động.
Khi đáp lời cần chú ý:
+Xác định quan hệ vai với người trao lời.
+Lời đáp phải ăn khớp với lời trao, tránh hiện tượng không ăn ý hoặc trả lời nhát gừng.
-Vận động tương tác: là vận động tác động lẫn nhau giữa các nhân vật đối thoại và tác động
tới bản thân cuộc thoại, làm cho cuộc thoại tiến triển thuận lợi.
+Tương tác giữa các nhân vật giao tiếp: sự tương tác này thể hiện ở chỗ trong quá trình hội
thoại và sau khi hội thoại, các nhân vật giao tiếp có thể có những chuyển biến trong nhận
thức, tình cảm, hành động.
+Tương tác đối với bản thân cuộc thoại: người trao và người đáp chủ động điều chỉnh để
sao cho cuộc thoại diễn ra nhịp nhàng, có sự ăn khớp giữa lời trao và lời đáp để cả hai bên
đều đạt mục đích đề ra, vấn đề đưa ra trao đổi được giải quyết một cách trọn vẹn.
*Cấu trúc hội thoại
Hội thoại gồm các đơn vị: cuộc thoại, đàm thoại và cặp thoại
-Cuộc thoại là toàn bộ đối đáp, trò chuyện giữa các nhân vật giao tiếp từ lúc bắt đầu đến khi
kết thúc quá trình giao tiếp.

21


-Đoạn thoại là một phần của cuộc thoại, các đoạn thoại trong một cuộc thoại thống nhất với
nhau về đề tài và đích hội thoại.
-Cặp thoại là những cặp lời kế cận gồm một vận động trao lời và một vận động đáp lời.
*Các quy tắc hội thoại
Để cuộc thoại có kết quả, các nhân vật tham gia hội thoại cần tuân thủ một số quy tắc

hội thoại:
-Quy tắc thương lượng hội thoại
Các nhân vật hội thoại cần thống nhất với nhau về đề tài, nội dung và vị thế xã hội
trong giao tiếp
-Quy tắc luân phiên lượt lời
Quy tắc này đảm bảo cho các lượt lời kế tiếp nhau liên tục để cuộc thoại không bị
ngắt quãng, các lượt lời không “giẫm đạp” lên nhau. Bên cạnh đó, cuộc thoại còn cần có sự
thay đổi luân phiên hài hòa vai trao lời và đáp lời của những người tham gia hội thoại.
-Quy tắc tôn trọng thể diện
Các nhân vật hội thoại phải tôn trọng nhau. Điều đó được thể hiện:
+Tôn trọng lượt lời, không cướp lời, không cắt ngang lời người khác.
+Không có hành động, lời nói làm ảnh hưởng tới thể diện của người đối thoại.
+Biết chú ý lắng nghe, tộn trọng ý kiến của người đối thoại.
-Quy tắc khiêm tốn
Người tham gia hội thoại phải thực sự khiêm tốn:
+Không khoe khoang, không nói về mình quá nhiều;
+Sử dụng các phương tiện ngôn ngữ khiêm tốn, lịch sự.
-Quy tắc cộng tác
Các nhân vật hội thoại phải có tinh thần hợp tác với nhau:
+Nói đúng đề tài đã thống nhất, phù hợp với đích của cuộc hội thoại;
+Không nói những điều không đúng hoặc chưa có sức thuyết phục;
+Nói rõ ràng, ngắn gọn, tránh nói tối nghĩa và nói mập mờ
22


Như vậy, lời đối thoại bao giờ cũng nằm trong một mạch của nhiều lời nói thuộc
nhiều người nối tiếp nhau hoặc đối đáp nhau. Vì vậy, nội dung lời đối thoại phải nhập vào
mạch câu chuyện hoặc chủ đề hội thoại thì nó mới có ý nghĩa. Trong đối thoại, người nói
thường sử dụng câu ngắn, các loại câu hỏi, câu cảm thán, từ ngữ chêm xen, từ thông tục,
thành ngữ, tục ngữ, ca dao…do vậy, lời nói sinh động, hấp dẫn, không khí cuộc thoại thoải

mái, không gò bó.
-Lời độc thoại: là lời của một người nói cho những người khác nghe, có khi là lời nói với
chính bản thân. Ranh giới giữa lời độc thoại và lời đối thoại chỉ mang thính tương đối. Nếu
cô lập lời nói của một người trong cuộc hội thoại, chúng ta được một lời độc thoại. Lời độc
thoại thường xuất hiện trong một số hoàn cảnh cụ thể: người báo cáo, đọc diễn văn trong
các cuộc họp, hội thảo, thầy giáo giảng bài…
So với lời đối thoại, lời độc thoại đòi hỏi sự chuẩn bị chu đáo và sự tập trung chú ý
cao hơn, người độc thoại thường chủ động hơn trong việc lựa chọn nội dung và cách thức
nói, vì có điều kiện thu thập tài liệu, xây dựng đề cương, suy ngẫm kỹ về từng vấn đề sẽ
trình bày, lựa chọn phương tiện biểu đạt phù hợp nhất.
Muốn lời độc thoại có sức hấp dẫn, người nói cần chọn đúng đề tài mà người nghe
quan tâm, sắp xếp dàn ý cẩn thận, cặn kẽ, chọn cách tiếp cận phù hợp với trình độ của người
nghe để họ hiểu và bị lôi cuốn bởi tính hấp dẫn của vấn đề. Sự tập trung chú ý cao độ khi
nói, sự hiểu biết đề tài một cách sâu sắc và có hệ thống, biết điều khiển giọng nói…,biết
nắm bắt phản ứng của người nghe để điều chỉnh nội dung và cách nói là các yếu tố đảm bảo
sự thành công của người nói. Vì vậy, khi triển khai nội dung lời độc thoại, cần tạo ra những
tình huống gây chú ý người nghe, lôi cuốn họ suy nghĩ cùng người nói.
Khi nói lời độc thoại, người nói cần lựa chọn cách xưng hô và các đại từ chỉ ngôi
thích hợp để tạo lập mối quan hệ giữa mình với người nghe. Ngoài ra, cũng nên lựa chọn từ
ngữ, kiểu cấu trúc câu phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể để chuyển tải thông tin tới
người nghe một cách đầy đủ và hiệu quả nhất.
l) Bút ngữ
-Đặc điểm: Bút ngữ (hay còn gọi là ngôn ngữ viết) là hình thức lời nói được sử dụng thường
xuyên và có hiệu quả trong giao tiếp xã hội. Trong ngôn bản bút ngữ, cấu trúc câu thường
đầy đủ và phúc tạp hơn, các từ ngữ khoa học xuất hiện với tần suất cao hơn so với khẩu

23



×