Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng XHCN của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XHCN CỦA ĐẢNG TA
(Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở)

Mã số: CS 2002 . 23 . 24

Người thực hiện: TS. Lương văn Tám

Năm 2003


BỘ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG XHCN CỦA ĐẢNG TA
(Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở)

Mã số: CS 2002 . 23 . 24

Người thực hiện: TS. Lương văn Tám

Năm 2003


MỤC LỤC

CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH. ĂNGHEN, V.I. LENIN VÀ HỒ CHÍ


MINH VỀ CNXH ...................................................................................................................... 1
1.1 Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin. ............................................. 1
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh. ............................................................................. 9
CHƢƠNG 2: QUAN NIỆM VỀ CHXH VÀ CON ĐƢỜNG ĐI LÊN CNXH CỦA
ĐẢNG TA ................................................................................................................................ 18
2.1. Sự ra đời của Đảng CSVN và Cƣơng lĩnh chính trị thứ nhất của Đảng: .......... 18
2.2. Giai đoạn 1945 -1954........................................................................................ 19
2.3. Giai đoạn từ sau năm 1954 đến nay. ................................................................. 20
CHƢƠNG 3: CON ĐƢỜNG ĐI LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCH Ở NƢỚC
TA ............................................................................................................................................ 50
3.1. Sự lựa chọn con đƣờng tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. .... 50
3.2. Những điều kiện chủ yếu của sự phát triển rút ngắn đi lên CNXH bỏ qua chế
độ TBCN ở Việt Nam. ......................................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 77


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là vấn đề lý luận và
thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đƣờng lối cách mạng của Đảng,
phƣơng hƣớng phát triển của đất nƣớc. Tuy nhiên, vấn đề này rất rộng lớn và phức tạp với
nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện nay còn không ít những vấn đề thuộc về lý luận cần
đƣợc làm sáng tỏ. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ: với trí tuệ
đóng góp của toàn Đảng, toàn dân, quan niệm về CNXH và con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc
ta đã có thể hình thành trên những đƣờng nét chủ yếu. Vấn đề đƣợc đặt ra là, quan niệm về
CNXH và con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta trên những nét chủ yếu đƣợc xác định nhƣ thế
nào trong quá trình cách mạng nƣớc ta? Và từ Đại hội VII đến nay, Nghị quyết của Đại hội
đã đƣợc cụ thể hoá và phát triển ở những điểm nào ? Đây là vấn đề lớn đòi hỏi sự nghiên cứu
một cách khoa học.
Vì lý do trên, tác giả xin đi vào nghiên cứu đề tài "Quá trình hình thành và phát triển

đƣờng lối cách mạng XHCN của Đảng ta", nhằm góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về
CNXH và con đƣờng đi lên CNXH ở nƣớc ta hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về CNXH ở Việt Nam của các tác giả nhƣ:
- Đào Duy Tùng: Quá trình hình thành con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sĩ Quí: Những quan điểm cơ bản của
C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về CNXH và thời k ỳ quá độ, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, 1997.
- Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên, Nhị Lê: Một số vấn đề định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội, 2001.
- ….
Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa những thành quả khoa học trên của các nhà nghiên
cứu, và trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua, tác giả công trình đã đi sâu
nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình hình thành và phát triển lý luận đƣờng lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay, mà trƣớc mắt là làm giáo trình giảng dạy cho sinh viên
chuyên ngành Giáo dục chính trị.


3. Mục tiêu đề tài.
Làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về CNXH , từ đó khẳng định tính chất cách mạng, khoa học của những quan điểm trên
và hiện nay vẫn đúng, vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn đóng vai trò nền tảng, hƣớng dẫn con
đƣờng xây dựng CNXH ở nƣớc ta hiện nay. Hệ thống và lý giải một cách khoa học quá trình
hình thành, phát triển đƣờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta từ Cƣơng lĩnh chính
trị đầu tiên cho đến nay.
Đặc biệt đề tài tập trung giải quyết vấn đề về con đƣờng quá độ lên CNXH bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN. Một số vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu một cách đầy đủ cả về

mặt lý luận lẫn thực tiễn.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm hệ thống, quan điểm thực tiễn và quan
điểm biện chứng trong nghiên cứu, tác giả đã phân tích những quan điểm cơ bản về CNXH
của các nhà kinh điển Mác - Lênin - tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, phân tích thực tiễn cách mạng
Việt Nam, và kinh nghiệm quốc tế để từ đó làm sáng tỏ việc hình thành và phát triển đƣờng
lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp lịch sử,
phƣơng pháp lôgic, phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản, phân tích tƣ liệu... để thực hiện công
trình nghiên cứu.

5. Ý nghĩa của công trình.
Bằng những luận cứ khoa học xác đáng, tác giả khẳng định lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nền tảng cho lý luận đúng đắn của đƣờng lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Và chỉ có thể tập trung phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin - tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, chúng ta mới có thể xác định đƣợc một mô hình xã hội
chủ nghĩa và con đƣờng đi lên CNXH phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nƣớc ta.
Công trình hoàn thành có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu giảng dạy nhằm giáo dục nhận
thức chủ nghĩa Mác-Lênin - Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng cho
sinh viên; qua đó giúp họ tin tƣởng vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của đảng ta.


CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH. ĂNGHEN, V.I. LENIN
VÀ HỒ CHÍ MINH VỀ CNXH
1.1 Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin.
1.1.1. Về sự phát triển của lực lượng sản xuất trong CNXH.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở
vật chất - kỹ thuật tƣơng ứng, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nó. Đó là lực
lƣợng sản xuất bao gồm tƣ liệu sản xuất và sức lao động của con ngƣời. Theo đó, cơ sở vật

chất của một chế độ xã hội đƣợc hình thành từ sự phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ
cùng với sự phát triển con ngƣời trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Nếu công cụ thủ công là đặc trƣng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tƣ
bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất của chủ nghĩa tƣ bản. Cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật mà giai cấp tƣ sản thực hiện ở thế kỷ XVIII đã chuyển nền sản
xuất xã hội từ trình độ thủ công lên trình độ cơ khí, đánh dấu một bƣớc nhảy vọt lớn của sản
xuất xã hội, tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tƣ bản.
Trên nền tảng của cái logic trên thì theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin,
chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tƣ bản, và nhƣ vậy, cơ sở vật chất - kỹ
thuật của nó, tất nhiên, phải là nền đại công nghiệp cơ khí phát triển, hoàn thiện ở một trình
độ cao hơn (CNTB). Vào các thế kỷ XVIII-XIX, chủ nghĩa tƣ bản chiếm địa vị thống trị và
chi phối ở nhiều nƣớc, nó thâu tóm cả nền tiểu sản xuất, làm phá sản nhiều tầng lớp dân cƣ,
do đó quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa dựa trên sở hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa đã trở
thành cái hình thức chật hẹp và trở thành xiềng xích đối với sự phát triển của lực lƣợng sản
xuất đã xã hội hóa rộng lớn. Vì thế, xóa bỏ sở hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa, xác lập sở hữu
xã hội chủ nghĩa để giải phóng và phát triển lực lƣợng sản xuất của xã hội trở thành một yêu
cầu khách quan. Tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và sự xuất hiện chế độ xã hội chủ
nghĩa bắt nguồn từ căn nguyên sâu xa đó của sự phát triển lực lƣợng sản xuất.
Thời kì sau Cách mạng tháng Mƣời Nga, do ý thức rất rõ vai trò cơ sở vật chất - kỹ
thuật đối với sự phát triển xã hội, Lênin đã sớm nhận thức chức năng nền tảng của nền đại
công nghiệp cơ khí đối với chủ nghĩa xã hội. Ông đánh giá rất cao những thành tựu của chủ
nghĩa tƣ bản trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt những thành tựu công nghiệp của Đức và
Mỹ. Chính vì vậy, Ngƣời đã đƣa ra một luận điểm nổi tiếng: "Chủ nghĩa cộng sản là Chính
quyền Xô viết cộng với điện
1


khí hóa toàn quốc"(1). Và để làm sáng tỏ vấn đề ông diễn giải: "Cơ sở vật chất duy nhất của
chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp... một nền đại công nghiệp ở vào trình độ
kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp”(2). Tƣ tƣỏng nêu trên của các nhà kinh

điển về cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục soi sáng cho chúng ta đi tới
quan niệm đúng đắn rằng, chủ nghĩa xã hội nhất định phải là một xã hội phát triển hiên đại
với khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Chỉ có cơ sở vật chất nhƣ thế, chủ nghĩa xã hội
mới có thể phát triển mạnh mẽ về nền kinh tế và văn hóa, mới thể hiện đƣợc bản chất ƣu việt
của mình.
Nƣớc ta đang bƣớc vào một thời kỳ phát triển mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, từng bƣớc đƣa nƣớc ta trở thành một nƣớc công nghiệp hiện đại. Hƣớng phát triển đó
chẳng những phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển nhƣ vũ bão trong thế giới
ngày nay mà còn nhằm thực hiện đặc trƣng rất quan trọng nêu trên của chủ nghĩa xã hội mà
các nhà kinh điển đã chỉ ra. Không có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại không thể đƣa đất
nƣớc ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển và cũng không thể có chủ nghĩa
xã hội.
1.1.2. CNXH xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất.
Mác và Ăngghen quan niệm rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm cải tạo xã
hội cũ và thiết lập chế độ mới bao giờ cũng phải đƣa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, coi
đó là vấn đề cơ bản của cách mạng. Các ông giải thích rằng, thủ tiêu chế độ tƣ hữu là một
cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội. Kết luận mà các
ông đƣa ra là: những ngƣời cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tƣ hữu
thành yêu cầu chủ yếu của mình; rằng những ngƣời cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình
thành một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tƣ hữu.
Tuy nhiên, Mác và Ăngghen còn nói rõ thêm, mục đích của chủ nghĩa cộng sản không
phải là xóa bỏ hoàn toàn mọi thứ sở hữu; chủ nghĩa cộng sản không tƣớc bỏ quyền chiếm hữu
sản phẩm xã hội của những ngƣời lao động mà chỉ tƣớc bỏ quyền sử dụng sự chiếm hữu ấy
để nô dịch lao động của ngƣời khác. Rõ ràng là, đặc trƣng của chủ nghĩa cộng sản (bao hàm
trong nó chủ nghĩa xã hội) không

(1)

V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1977, t. 42, tr. 195.


(2)

Sđd, t. 44, tr. 11.

2


phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tƣ bản chủ nghĩa. Theo
Mác và Ăngghen, xóa bỏ tƣ hữu là xóa bỏ tƣ hữu tƣ bản vì nó là nguồn gốc đẻ ra mọi áp bức
bóc lột và bất bình đẳng.
Sau này, Lênin cũng đã nhận thấy tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tƣ hữu tƣ
bản chủ nghĩa và khẳng định: chủ nghĩa xã hội không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của
mọi công dân mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở hữu của các địa chủ và tƣ bản. Ông coi đó là
điều cốt yếu. Các nhà kinh điển từ Mác, Ăngghen đến Lênin đều coi sự khẳng định cuối cùng
việc thiết lập chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Các ông
đều quan niệm rằng, việc thiết lập chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất sẽ mang lại cho xã hội
một loạt hệ quả mà trƣớc hết là tạo ra cho nó khả năng điều tiết một cách có kế hoạch nền sản
xuất xã hội và tạo điều kiện để xóa bỏ sản xuất hàng hóa, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột và bất
công trong xã hội.
Khi chế độ tƣ hữu tƣ bản chủ nghĩa với nền sản xuất đại cơ khí đã bị công hữu hóa, do
xã hội làm chủ thì sẽ không còn hiện tƣợng do chạy theo lợi nhuận mà làm cho sản xuất rơi
vào tự phát gây ra khủng hoảng kinh tế.
Tuy nhiên, các ông cũng không có tƣ tƣởng cực đoan trong vấn đề này, Ph.Ăngghen
trong tác phẩm "Nguyên lí chủ nghĩa cộng sản" đã nêu: Việc xóa bỏ chế độ tƣ hữu phải là
một quá trình lâu dài, từng bước từ thấp đến cao. Kế thừa tƣ tƣởng đó, Lênin đã áp dụng
Chính sách kinh tế mới (NEP), tinh thần căn bản của NEP do chính Lênin khởi xƣớng là chú
trọng giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất xã hội, coi lợi ích kinh tế của ngƣời lao động là
động lực và đòn bẩy kích thích sản xuất phát triển, do đó, cần thiết phải thực hiện những biện
pháp mở rộng thị trƣờng, khai thông những ách tắc trong lƣu thông, phân phối, trao đổi sản

phẩm hàng hóa trên thị trƣờng để khắc phục sự trì trệ, tạo ra sự năng động trong sản xuất,
kinh doanh vì lợi ích của ngƣời sản xuất, ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ lợi ích chung của xã hội.
Trong nội dung của NEP còn bao hàm cả tƣ tƣởng sử dụng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc để
kiến thiết chủ nghĩa xã hội, đi xuyên qua chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc tới chủ nghĩa xã hội;
đồng thời chủ nghĩa xã hội là một xã hội của những ngƣời lao động hợp tác văn minh. Đây là
những quan niệm lý luận mang ý nghĩa cách tân lớn về chủ nghĩa xã hội của Lênin. Tƣ duy
về kinh tế hàng hóa, về giá trị, về thị trƣờng và cạnh tranh nhằm tạo ra và khai thác các động
lực bên trong (các nội lực) của chủ nghĩa xã hội làm cho chủ nghĩa xã hội

3


thực sự sống động trong đời sống thực tiễn, nhất là thực tiễn sản xuất - kinh tế là nét chủ đạo
của NEP và nó còn có giá trị và ý nghĩa cho tới ngày nay.
Khi Đảng ta chủ trƣơng xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của Nhà nƣớc, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa thì
điều đó đã thể hiện quan điểm đổi mới, sự nhận thức mới phù hợp với thực tiễn của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nƣớc ta.
1.1.3 Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Sau khi ngƣời lao động đƣợc giải thoát khỏi áp bức giai cấp và nô dịch dân tộc, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin rất coi trọng công việc tổ chức lao động và kỷ luật
lao động mới trong sự nghiệp kiến thiết chế độ mới xã hội chủ nghĩa, chống lại tàn dƣ của
tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ và xây dựng thái độ lao động mới phù hợp với
địa vị làm chủ của ngƣời lao động.
Các ông cho rằng, chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm ngặt
mới dẫn chúng ta tới chủ nghĩa xã hội.
Trong vấn đề này, các nhà kinh điển, nhất là Lênin đã nhấn mạnh cần phải tiếp thu
những kinh nghiệm hay trong lao động và quản lý sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Chẳng hạn
nhƣ phƣơng pháp Taylo ở Mỹ nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả vì lợi ích xã hội. Nhƣ
vậy, để có đƣợc cách thức tổ chức quản lý mới, cần phải nghiên cứu và tiếp thu những tiến bộ

mới nhất của chủ nghĩa tƣ bản. Lênin khẳng định, điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn của
chủ nghĩa xã hội chính là ở chỗ, giai cấp vô sản đƣa ra và thực hiện đƣợc kiểu tổ chức lao
động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Nếu kỷ luật lao động của chế độ nô lệ và phong
kiến là kỷ luật roi vọt, kỷ luật lao động của chủ nghĩa tƣ bản là kỷ luật đói, thì kỷ luật lao
động của chủ nghĩa xã hội là kỷ luật tự giác.
Kỷ luật tự giác và tự nguyện trong lao động của đông đảo quần chúng là nguồn sức
mạnh, là điều kiện bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Nó là sản phẩm tất
yếu của việc thủ tiêu chế độ tƣ hữu tƣ bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tƣ liệu sản
xuất, của việc điều hành nền sản xuất xã hội theo một kế hoạch chung, thống nhất lợi ích
chung của toàn xã hội. Nó cũng đồng thời là kết quả của giáo dục, rèn luyện lâu dài và công
phu trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng cộng sản và Nhà nƣớc xã hội chủ
nghĩa tiến hành đối với đông đảo quần chúng lao động đƣợc giải phóng và trở thành ngƣời
chủ xã hội mới. Nhờ chất lƣợng

4


của kỷ luật lao động mới bắt nguồn từ lợi ích thiết thân của ngƣời lao động mà chủ nghĩa xã
hội mới có thể tạo ra đƣợc năng suất lao động xã hội cao hơn gấp bội so với chủ nghĩa tƣ bản.
Lẽ dĩ nhiên, đạt tới mục tiêu đó là cả một quá trình lịch sử lâu dài tiến lên từng bƣớc,
vừa dựa vào tiến bộ kỹ thuật, vữa dựa vào ý thức ngƣời lao động, vừa dựa vào cơ chế quản lý
và chính sách ngày càng hoàn thiện, qua đó vừa cải tạo triệt để xã hội cũ, vừa từng bƣớc xây
dựng và hoàn thiện chế độ xã hội mới.
1.1.4. CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Khi bàn về phân phối, Mác vạch rõ: trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mỗi ngƣời sản xuất
sẽ đƣợc nhận trở lại từ xã hội một số lƣợng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lƣợng lao
động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội. Nguyên tắc là nhƣ vậy, nhƣng phân phối theo lao
động không có nghĩa là mỗi ngƣời làm đƣợc bao nhiêu sản phẩm là đƣợc hƣởng hết bấy
nhiêu. Tổng sản phẩm do lao động xã hội tạo ra phải đƣợc đem phân phối vừa cho tiêu dùng
cá nhân, vừa cho cả tích lũy tái sản xuất mở rộng và cả tiêu dùng công cộng của xã hội.

Những phần không phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân của ngƣời lao động thì vẫn
thuộc về họ, vẫn nhằm bảo đảm lợi ích cơ bản, lâu dài, chung cho mọi thành viên trong xã
hội.
Nguyên tắc phân phối theo lao động buộc mọi ngƣời có sức lao động phải lao động.
Nguyên tắc này thể hiện sự công bằng dƣới chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự phân phối công
bằng đó chẳng những chƣa loại trừ đƣợc, mà vẫn còn chƣa trong nó sự chấp nhận một tình
trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội. Mặc dù vậy, đây vẫn là cách
phân phối thích hợp nhất. sở dĩ nhƣ vậy là vì, trong chủ nghĩa xã hội, của cải làm ra chƣa đạt
tới mức thật dồi dào, lao động còn là nghĩa vụ, chứ chƣa trở thành nhu cầu bậc nhất của đời
sống nhƣ dƣới chủ nghĩa cộng sản. Đó là chƣa kể đến những yếu tố lệch lạc từ phía chủ thể
con ngƣời gây ra nhƣ nạn tham ô lãng phí, đặc quyền đặc lợi.
1.1.5. Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, tạo điều
kiện cho con người phát triển toàn diện.
Vấn đề giải phóng con ngƣời đƣợc các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin coi là
một trong những đặc trƣng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Theo các ông, mục tiêu cao nhất của
chủ nghĩa xã hội là giải phóng con ngƣời khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh
thần, tạo điều kiện cho con ngƣời phát triển toàn diện. Nhƣ các nhà kinh điển dự kiến cũng
nhƣ dựa vào thực tế lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mƣời đến nay, thì đây là một quá trình
lâu dài, giải

5


phóng từng bƣớc. Đối với những nƣớc lạc hậu và chậm phát triển, nhiệm vụ này đòi hỏi phải
khắc phục nhiều khó khăn: không chỉ chủ yếu do ách áp bức, bóc lột giai cấp và dân tộc, mà
còn có cả sự lạc hậu của con người về trình độ phát triển và về ý thức.
Với việc xóa bỏ chế độ tƣ hữu, thiết lập chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất và với
việc xóa bỏ đối kháng giai cấp, tiến tới một xã hội không còn giai cấp, chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản sẽ xóa bỏ cái tai họa lớn nhất của loài ngƣời là tình trạng ngƣời bóc lột
ngƣời. Sự thay thế nhau của các xã hội trƣớc chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là sự thay thế

các hình thức áp bức, bóc lột này bằng hình thức áp bức, bóc lột khác. Chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới có khả năng giải phóng con ngƣời khỏi các hình thức áp bức và bóc lột đó.
Việc xóa bỏ tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời sẽ góp phần giải phóng con ngƣời khỏi các
tai họa khác nhƣ sự nô dịch, áp bức dân tộc; góp phần tạo ra sự bình đẳng, hữu nghị giữa các
dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội không chỉ giải phóng con ngƣời ra khỏi tình trạng nô lệ, mà còn tạo
điều kiện cho con ngƣời phát triển toàn diện để họ trở thành ngƣời chủ xã hội và có năng lực
làm chủ xã hội thật sự. Đây chính là bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản chủ nghĩa. Với thời gian và nọ lực của con ngƣời, nhất là của lực lƣợng tiến bộ lãnh
đạo xã hội, sự nghiệp này sẽ dần dần đƣợc thực hiện.
1.1.6. CNXH thực hiện sự bình đẳng xã hội.
Mác và Angghen coi việc xây dựng xã hội công bằng và bình đẳng là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó vừa phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, xu thế phát triển
của lịch sử, vừa thể hiện đƣợc nguyện vọng bao đời của quần chúng lao động. Khi đƣa ra
quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội, các ông quan niệm rằng, công bằng và bình đẳng là
những chân giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa và nó phải trở thành hiện thực trong cuộc sống
của nhân dân lao động, đem lại tự do và hạnh phúc cho ngƣời lao động.
Các ông khẳng định rằng, bình đẳng là cơ sở, là căn cứ chính trị và là một trong
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, với cách nhìn duy vật biện
chứng về sự phát triển của lịch sử, với quan điểm lịch sử - cụ thể áp dụng vào việc phân tích
trình độ phát triển hiện thực của chủ nghĩa xã hội, các ông đã làm sáng tỏ một nhận thức khoa
học là, dưới chủ nghĩa xã hội, bình đẳng không có nghĩa là ngang bằng nhau về mọi phương
diện, vì con người trong xã hội không có điều kiện như nhau, thí dụ người khỏe, người yếu,
người trẻ, người già, người có ít con, người có đông con, người lao

6


động chân tay, người lao động trí óc..., do đó đóng góp của mỗi ngƣời cho xã hội cũng khác
nhau và nhu cầu của mỗi ngƣời cũng khác nhau. Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội không thể

thực hiện đƣợc sự bình đẳng về mọi mặt, đặc biệt là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của các
cá nhân. Theo Lênin, nói tới bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội thì cần hiểu rằng, đó là sự bình
đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Chủ nghĩa xã hội chƣa thể thực hiện
đƣợc sự bình đẳng hoàn toàn về mọi phƣơng diện, vì dƣới chủ nghĩa xã hội vẫn phải thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, vẫn còn sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông
thôn và thành thị, giữa lao động chân tay và lao động trí óc. Những khác biệt đó cho thấy còn
tồn tại những bất bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội. Cho nên, trong chủ nghĩa xã hội do còn
sự phát triển chƣa cao của lực lƣợng sản xuất và sự không đều về nhiều mặt giữa con ngƣời
nên bình đẳng ở đây chỉ là định hƣớng và thể hiện trong một số mặt nhất định, ngoài ra trên
một số mặt vẫn còn bất bình đẳng. Những bất bình đẳng này sẽ dần dần đƣợc khắc phục trong
sự phát triển của chủ nghía xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
1.1.7. CNXH là sự nghiệp của quần chúng.
Với quan niệm duy vật về lịch sử, Mác và Angghen đã đƣa lại những luận chứng khoa
học sâu sắc và triệt để, rằng quần chúng nhân dân là ngƣời sáng tạo ra lịch sử và quyết định
lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vai trò và sức mạnh sáng tạo của nhân dân
ngày càng tăng lên trong tiến trình lịch sử, đặc biệt là trong cách mạng vô sản. Các ông nhìn
thấy rõ, lịch sử càng đi lên thì khối quần chúng cách mạng đông đảo ngày càng mở rộng quy
mô hoạt động của mình và lịch sử chính là đƣợc tạo ra từ hành động sáng tạo của họ.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa không những là một cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc
nhất, mà nó còn là một cuộc cách mạng thực sự mang tính chất quần chúng, vì nó thu hút sự
tham gia của tuyệt đại đa số dân cƣ trong xã hội, trong đó giai cấp công nhân ở vị trí tiên
phong lãnh đạo. Chỉ có dƣới chủ nghĩa xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân
mới bắt đầu có sự tiến lên mau chóng, thực sự có tính chất quần chúng, lúc đầu đƣợc đại đa
số dân cƣ tham gia, rồi về sau đƣợc toàn thể dân cƣ tham gia. Với chủ nghĩa duy vật lịch sử,
vai trò của quần chúng nhân dân và của cá nhân trong lịch sử đã đƣợc xác định đúng đắn, tạo
nên sức mạnh to lớn .
Luận điểm của Lênin đã đƣợc thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa và lịch sử xây
dựng chủ nghĩa xã hội xác nhận tính đúng đắn

7



của nó: chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống; tính
chất máy móc hành chính và quan liêu không dung hợp với tinh thần của chủ nghĩa xã hội
sinh động, sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân.
1.1.8. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân lao động, nhà
nước mang bản chất giai cấp - giai cấp công nhân.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã từng đề cập tới khái niệm chuyên
chính vô sản khi xác định bản chất, chức năng và nhiệm vụ của nhà nƣớc kiểu mới, nhà nƣớc
đƣợc xác lập trong thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội giành chính quyền của giai cấp vô
sản. Mác và Ăngghen đã từng nói đến nhà nƣớc thực hiện chức năng của chuyên chính vô sản
trong những điều kiện và hoàn cảnh kịch sử xác định của thời kỳ quá độ từ xã hội tƣ bản tới
xã hội cộng sản.
Thực chất của chuyên chính vô sản là nhằm xác lập, bảo vệ và phát triển nền dân chủ
vô sản (hay nền dân chủ xã hội chủ nghĩa) để đem lại quyền lực dân chủ, trƣớc hết là dân chủ
cho đông đảo quần chúng lao động. Do đó, nó tất yếu phải thực hiện trấn áp đối với các thế
lực phản cách mạng đi ngƣợc lại lợi ích của quần chúng lao động và của cả xã hội. Nhà nƣớc
cách mạng ấy còn là công cụ để quần chúng nhân dân thể hiện và thực hiện sức mạnh sáng
tạo của mình trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nƣớc.
Lênin làm sáng tỏ thêm nhiều phƣơng diện cụ thể thuộc về bản chất và chức năng của
nhà nƣớc đó. Ông nhấn mạnh rằng, đó là nhà nƣớc kiểu mới, nhà nƣớc nửa nhà nƣớc, nhà
nƣớc không còn hoàn toàn theo nghĩa đen của nó nữa.
Sự khác biệt về nguyên tắc, về bản chất của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa so với tất cả
các nhà nƣớc đã có trong lịch sử, kể cả nhà nƣớc tƣ sản mà nó trực tiếp phủ định là ở chỗ,
trấn áp bằng bạo lực tuy vẫn là một chức năng nhà nƣớc có tính phổ biến đối với nhà nƣớc xã
hội chủ nghĩa, nhƣng chức năng này không còn là chủ yếu và cũng không phải là duy nhất.
Nó hƣớng chủ yếu vào lĩnh vực tổ chức và xây dựng xã hội mới, làm cho chủ nghĩa xã hội tỏ
rõ tính ƣu việt của nó bởi tiềm lực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Đây mới là mặt chủ
yếu, là bản chất quan trọng nhất của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa. Nhƣ vậy, theo Lênin, nhà
nƣớc xã hội chủ nghĩa trong khi thực hiện chức năng của chuyên chính vô sản nó hƣớng

trọng tâm vào các lĩnh vực tổ chức, xây dựng chế độ xã hội mới.

8


1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh.
1.2.1. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội với tƣ cách là một chế độ xã hội đƣợc Hồ Chí Minh diễn đạt, trình
bày một cách dung dị, mộc mạc, dễ hiểu và mang tính phổ thông, đại chúng. Mục tiêu của
Ngƣời là viết và nói cho đồng bào Việt Nam, để cho công nhân, nông dân, mọi tầng lớp lao
động đều có thể hiểu đƣợc, nhận thức đúng để rồi hành động đúng, thiết thực. Đây lại là một
bài học quý của Hồ Chí Minh mà chúng ta cần nói theo khi trình bày các vấn đề khoa học, lý
luận.
* Có thể kể ra một số định nghĩa thường bắt gặp trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản nhƣ là một chế độ xã hội
hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt của đời sống, là con đƣờng giải phóng nhân loại cần lao, bị
áp bức. Theo Ngƣời, chỉ có chủ nghĩa xã hội, "chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi ngƣời, không phân biệt chủng tộc, sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no...,
việc làm cho mọi ngƣời, và vì mọi ngƣời, niềm vui, hòa bình hạnh phúc, nói tóm lại là nền
cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tƣ bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là
những bức tƣờng dày ngăn cản những ngƣời lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thƣơng
nhau."(1)
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện đƣợc, cần phải có kỹ
nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi ngƣời đều đƣợc phát triển hết khả năng của mình. Quan
niệm về chủ nghĩa xã hội nhƣ thế thƣờng đƣợc Hồ Chí Minh sử dụng vào thời gian trƣớc năm
1945 khi chủ nghĩa xã hội đang là xu thế tất yếu mà quá trình cách mạng Việt Nam cần đạt
tới.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó (kinh tế,
chính trị, văn hóa ...) trong lôgích một bài phát biểu, một tình huống mà Hồ Chí Minh muốn

đề cập, muốn nhấn mạnh. Chẳng hạn:
Về phân phối sản phẩm, chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa... làm của chung. Ai
làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những
ngƣời già cả, đau yếu và trẻ con.(2)

(1)

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.461

(2)

Sđd, t.8, tr. 226.

9


Khi quan niệm chủ nghĩa xã hội về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh thƣờng nhấn mạnh hai
yếu tố: chế độ sở hữu (công cộng hoặc xã hội) và quan hệ phân phối: làm theo năng lực,
hƣởng theo lao động.
Còn trong lĩnh vực chính trị, Ngƣời nhấn mạnh mặt bản chất của chủ nghĩa xã hội, đó
là nền dân chủ kiểu mới, là nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, "chỉ lo làm lợi cho nhân dân,
trƣớc hết là nhân dân lao động, ngày càng đƣợc tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho
trong xã hội không có ngƣời bóc lột ngƣời."(1)
Khi tìm hiểu chủ nghĩa xã hội theo quan niệm này của Hồ Chí Minh phải đặt trong
tổng thể quan niệm chung của Ngƣời về chủ nghĩa xã hội, không đƣợc tuyệt đối hóa một mặt
nào đó mà Ngƣời đƣa ra, dễ dẫn đến sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: chỉ
rõ mục tiêu, phƣơng hƣớng và phƣơng tiện để đạt đƣợc mục tiêu đó. Đây là quan niệm phổ
biến mà Hồ Chí Minh hay dùng nhất. Trong hơn hai chục khái niệm về chủ nghĩa xã hội mà
Hồ Chí Minh đề cập, thì trong đó có hơn 2/3 thuộc loại này. Dƣới đây là một số trƣờng hợp

tiêu biểu:
Hồ Chí Minh nói "chủ nghĩa xã hội là gì?" và Ngƣời tự trả lời: "Là mọi ngƣời đƣợc ăn
no mặc ấm, sung sƣớng tự do". Cũng tƣơng tự: Là ấm no. Gì nữa? "Là đoàn kết, vui khỏe".
Hoặc thêm vào một mệnh đề mới: "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy".
Hoặc dƣới dạng tổng kết: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trƣớc hết
nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi ngƣời có công ăn việc
làm, đƣợc ấm no và sống một đời hạnh phúc".(2)
Có khi Hồ Chí Minh trả lời một cách trực tiếp về mục đích của chủ nghĩa xã hội:
"Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn là: không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trƣớc hết là nhân dân lao động"(3).
Có khi Hồ Chí Minh nói một cách gián tiếp, không nhắc đến từ chủ nghĩa xã hội,
nhƣng xét về bản chất đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nhƣ kết thúc bản Di
chúc, Ngƣời đã chốt lại "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là, toàn Đảng, toàn dân ta đoàn
kết phấn đấu, xây dựng một nƣớc Việt Nam hòa bình, thống nhất,

(1)

Sđd, t.8, tr.276

(2)

Sđd, 110, tr.17.
Sđd, t.10, tr. 217.

(3)

10



độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(1).
* Thông qua quan niệm về chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định những mục tiêu cơ
bản, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ƣu việt, hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ
xã hội đã tồn tại trong lịch sử; chỉ ra chức năng xã hội của nó: giải phóng con ngƣời một cách
toàn diện; theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội đến giải phóng con
ngƣời. Cũng từ cách tiếp cận mục tiêu của chủ nghĩa xã hội có thể khẳng định nội dung cốt
lõi của toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là tư tưởng giải phóng con người và mưu
cầu hạnh phúc cho hết thảy mọi người trên trái đất. Có thể nói hạt nhân chủ yếu của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh cũng thể hiện rõ nét, tập trung nhất ở đó.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng "chủ nghĩa xã
hội là do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên”(2), Hồ Chí Minh nhấn mạnh động lực tinh
thần và ý thức xã hội chủ nghĩa, "chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì cao xa mà cụ thể là ý
thức lao động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nƣớc, tăng sản xuất cho hợp tác xã,
tăng thu nhập cho xã viên, tinh thần đoàn kết tƣơng trợ, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám
nói, không sợ khó, ý thức cần kiệm”(3). Tinh thần cơ bản của một luận đề mácxít đƣợc Hồ Chí
Minh nhắc lại với một quy mô lớn hơn: chủ nghĩa xã hội là của nhân dân, vì nhân dân và do
nhân dân lao động. Trong khi nhấn mạnh nguồn lực con ngƣời nhƣ là nhân tố quyết định của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh hết sức lƣu ý đến mặt đạo đức, tinh thần, ý
thức. Ngƣời nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết cần có những con ngƣời xã hội
chủ nghĩa... có tƣ tƣởng và tác phong xã hội chủ nghĩa”(4). Quan niệm này của Hồ Chí Minh
mang đậm dấu ấn của văn hóa phƣơng Đông và không hề mâu thuẫn với thế giới quan duy
vật biện chứng mácxít.
Tóm lại, chủ nghĩa xã hội với tính chất là một xã hội mới, theo quan niệm của Hồ Chí
Minh:
Đó là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Xã hội đó thiết lập đƣợc một tổ chức
Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Xã hội đó có Đảng Cộng sản là ngƣời lãnh đạo nhân
dân, lãnh đạo Nhà nƣớc và cũng là ngƣời đầy tớ trung thành của nhân dân.

(1)


Sđd, t. 12, tr. 512.

(2)

Sđd, t. 10, tr. 133.

(3)

Sđd, t. 9, tr. 575.

(4)

Sđd, t. 10, tr. 310.

11


Đó là một xã hội "dân giàu, nƣớc mạnh". Trong xã hội đó sự nghiệp văn hóa, giáo
dục, khoa học kỹ thuật và sản xuất đƣợc đẩy mạnh và phát triển. Trên cơ sở đó mà không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, từng bƣớc xóa bỏ bóc lột, bất
công, thực hiện công bằng xã hội.
Đó là một xã hội có kỷ cƣơng, có đạo đức, có lối sống lành mạnh. Trong đó, con
ngƣời ngày càng đƣợc phát triển toàn diện về trí lực, thể lực, đạo đức và tinh thần.
Đó là xã hội mà các dân tộc trong nƣớc bình đẳng trên mọi phƣơng diện và miền núi
ngày càng có điều kiện tiến kịp miền xuôi.
Đó là một xã hội có quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế
giới trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, hợp tác cùng có lợi.
Trong xã hội đó, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân dƣới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Khái niệm chủ nghĩa xã hội trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nội

dung rất phong phú, hàm súc, là cả một quan niệm rộng lớn về con đƣờng phát triển, về con
đƣờng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con ngƣời. Di sản đó nếu đƣợc
nghiên cứu một cách thấu đáo, vận dụng hợp lý sẽ thật sự trở thành nền tảng lý luận cho việc
tìm kiếm mô hình chủ nghĩa xã hội đổi mới ở Việt Nam. Mục tiêu: dân giàu, nƣớc mạnh, xã
hội công bằng và văn minh mà Đảng ta đặt ra chỉ có thể đạt đƣợc bằng con đƣờng xã hội chủ
nghĩa và thông qua chủ nghĩa xã hội. Đây chính là sự diễn đạt ngôn ngữ Hồ Chí Minh trong
thời hiện đại.
1.2.2 Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
* Những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đƣợc các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đề
cập đến. Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tiễn Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã khẳng định con đƣờng cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tƣ bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh viết: "Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ
phong kiến, đến chế độ tƣ bản, đến CNXH, nói chung thì loài ngƣời phát triển theo qui luật
nhất định nhƣ vậy. Nhƣng

12


tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đƣờng khác nhau.”(1)
Theo Hồ Chí Minh, khi bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nƣớc ta có
những đặc điểm sau đây:
Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dƣới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và trí thức đã đƣợc củng cố
vững chắc, Việt Nam tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai
đoạn mới không bắt đầu bằng một cuộc đảo lộn chính trị, giành chính quyền. Đặc điểm này
đƣợc Hổ Chí Minh hết sức lƣu ý và luận chứng đầy đủ.
Về phƣơng diện kinh tế, "miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc

điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tƣ bản chủ nghĩa”(2). Trong các bài
viết của mình, Hồ Chí Minh đã giải thích rõ hơn đặc điểm này.
Một đặc điểm khác của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là: chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh; đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lƣợc: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai cuộc cách mạng này quan hệ chặt chẽ với
nhau. Theo đánh giá của nhiều nhà lý luận nƣớc ngoài, cách làm vƣà kháng chiến vƣà kiến
quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh còn có chiến tranh là một sáng tạo độc đáo
của Hồ Chí Minh, phản ánh đúng thực chất và quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam:
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Về phƣơng diện quốc tế, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nƣớc ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội đã thành công ở một loạt
nƣớc, chúng ta nhận đƣợc sự hỗ trợ. Hợp tác mạnh mẽ từ bên ngoài, theo tinh thần quốc tế
chân chính, nhƣng mặt khác lại luôn luôn bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách phá hoại công cuộc
hoa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức độc lập, tự chủ, tự
lực tự cƣờng, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế những khó khăn để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.

(1)

Sđd, t.7. tr. 247.

(2)

Sđd, t. 10, tr. 13.

13



Những đặc điểm này quy định bản chất và tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa ở nƣớc ta.
* Bản chất và tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nƣớc ta là quá trình biến nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn, hiện đại. Thực
chất phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức
tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta đã hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân
chủ, so sánh lực lƣợng trong nƣớc và quốc tế đã có những biến đổi. Bản chất này đòi hỏi phải
áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm
chống lại các thế lực đi ngƣợc lại con đƣờng xã hội chủ nghĩa.
Do những đặc điểm và bản chất trên quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài.
Quá trình đó bao gồm hai mặt: cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, xây dựng nền tảng
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt, lâu dài. Hồ Chí
Minh hết sức nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó đƣợc Hồ Chí Minh lý giải theo các bình diện:
Thứ nhất, đây thật sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả
lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng. Nó đặt ra
và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Thứ hai, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp mang tính kinh tế.
Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta chƣa có kinh nghiệm, là công việc hết sức mới mẻ, vừa làm
vừa học, có thể sẽ có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức
tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn luôn bị các thế lực phản động trong
và ngoài nƣớc tìm cách chống phá. Theo Ngƣời "kẻ địch gồm có 3 loại: CNTB và bọn đế
quốc là kẻ địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm
ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể đàn áp nó mà phải cải tạo nó một
cách cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài. Kẻ địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tƣ tƣởng tiểu tƣ
sản còn ẩn nấp


14


trong mỗi chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi để ngóc đầu dậy. Nó là
bạn đồng minh của 2 kẻ địch kia”(1).
Từ việc làm rõ tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ,
đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn nóng, chủ quan, đốt
cháy giai đoạn. Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bƣớc đi và hình thức phù hợp với trình
độ của lực lƣợng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bƣớc, từ
thấp lên cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính
khoa học nghiêm ngặt, vừa hiểu biết các quy luật vận động xã hội, lại phải có nghệ thuật
khôn khéo cho thật sát với tình hình thực tế. Những nguyên tắc phƣơng pháp luận này phải
đƣợc tuân thủ trong suốt thời kỳ quá độ và áp dụng riêng cho từng lĩnh vực cụ thể.
* Những nội dung cơ bản của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là một sự nghiệp cách mạng mang
tính toàn diện theo nguyên tắc: xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ chủ nghĩa xã
hội. Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực.
Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải đƣợc chỉnh đốn, nâng cao sức chiến đấu, có hình thức tổ
chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ mới. Mặt khác, phải củng cố, tăng cường vai
trò của Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, tất cả các cơ quan nhà nƣớc phải là những thể chế dân
chủ, dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân
dân. Phải xây dựng bộ máy nhà nƣớc vững mạnh, trong sạch, thực sự là nhà nƣớc của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; đủ năng lực, uy tín để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngƣời nhấn mạnh, Nhà nƣớc ta phải phát triển quyền dân chủ và
sinh hoạt chính trị của toàn dân, phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, thông
qua các định chế dân chủ (trực tiếp, gián tiếp) làm cho mọi công dân Việt Nam có quyền thực
sự tham gia quản lý công việc của Nhà nƣớc.
Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ là củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở liên minh công

nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cƣờng sức mạnh
toàn

(1)

Sđd, t. 9, tr. 287.

15


bộ hệ thống chính trị cũng nhƣ từng thành tố của nó trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là tƣ tƣởng nhất quán của Hồ Chí minh.
Nội dung kinh tế, đƣợc Hồ Chí Minh đề cập đến trên các bình diện: lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Ngƣời nhấn mạnh đến việc tăng gia sản xuất
gắn liền với thực hành tiết kiệm, không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa "Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là 2 việc
then chốt để khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, để cải thiện đời sống nhân dân”(1)
Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần
kinh tế. "Ngƣời thì có 2 chân. Kinh tế một nƣớc thì có 2 bộ phận chính: nông nghiệp và công
nghiệp. Ngƣời không thể thiếu một chân, thì nƣớc không thể thiếu một bộ phận kinh tế. Nƣớc
ta là một nƣớc nông nghiệp. Nâng cao nông nghiệp là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn chính
quyền, toàn dân”(2).
Ngƣời có quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thƣơng nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các
ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Ở nƣớc ta, Hồ Chí Minh là ngƣời đầu tiên chủ trƣơng phát triển cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngƣời cho rằng "có hình thức sở
hữu chính về tƣ liệu sản xuất nhƣ sau: - sở hữu nhà nƣớc tức là của toàn dân; - sở hữu của
hợp tác xã; - sở hữu của ngƣời lao động lẻ; - một ít tƣ liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tƣ
bản”(3).

Ngƣời xác định rõ vị trí và xu hƣớng vận động của từng thành phần kinh tế. Nƣớc ta
cần ƣu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc
đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân
lao động, Nhà nƣớc cần đặc biệt khuyến khích, hƣớng dẫn và giúp đỡ nó phát triển, về tổ
chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện,
cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. "Về đổi công và hợp tác xã phải chú ý: nắm
vững nguyên tắc tự giác, tự nguyện, và tổ chức cái nào phải củng cố thật chắc cái ấy”.(4)

(1)

Sđd, t. 8, tr. 349.

(2)

Sđd, t. 8, tr. 77.

(3)

Sđd, t. 9, tr. 588.

(4)

Sđd, t. 9, tr. 451.

16


Đối với ngƣời làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nƣớc bảo hộ quyền
sở hữu về tƣ liệu sản xuất, ra sức hƣớng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ
đi vào con đƣờng hợp tác. Đối với những nhà tƣ sản công thƣơng, vì họ đã tham gia ủng hộ

cách mạng dân tộc dân chủ, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp
thu, cải tạo để góp phần xây dựng nƣớc nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nƣớc không
xóa bỏ quyền sở hữu về tƣ liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hƣớng dẫn họ hoạt động
làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nƣớc, khuyến khích và giúp đỡ họ cải
tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng các hình thức tƣ bản nhà nƣớc.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và
quản lý kinh tế. Ngƣời chủ trƣơng và chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động: làm nhiều hƣởng nhiều, làm ít hƣởng ít, không làm không hƣởng. Gắn liền với
nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh bƣớc đầu đề cập đến vấn đề khoán trong
sản xuất. "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích ngƣời
công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng...
làm khoán tốt thích hợp và công bằng dƣới chế độ ta hiện nay”(1).
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con
ngƣời mới: "Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con ngƣời xã hội chủ nghĩa". Con ngƣời vừa
là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Đặc biệt Hồ Chí Minh đề cao vai trò
của văn hóa giáo dục và khoa học kỹ thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngƣời cho rằng,
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính
trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn đƣa loài ngƣời đến hạnh phúc
vô tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài. Hồ Chí
Minh có một nhãn quan nhân bản về văn hóa, khẳng định vai trò của văn hóa trong đời sống
xã hội. Từ đó, Ngƣời khẳng định văn hóa là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng
con ngƣời mới, xã hội mới.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng
tạo học thuyết Mác-Lênin. Tƣ tƣởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ

(1)

Sđd, t.8, tr. 41.


17


nam cho việc kiên trì, giữ vững định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề
về xác định hình thức, bƣớc đi và biện pháp đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và từng bƣớc
hoàn thiện mô hình cấu trúc về chủ nghĩa xã hội hiện đại, phù hợp với những đặc điểm của
dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.

CHƢƠNG 2: QUAN NIỆM VỀ CHXH VÀ CON ĐƢỜNG ĐI LÊN
CNXH CỦA ĐẢNG TA
2.1. Sự ra đời của Đảng CSVN và Cương lĩnh chính trị thứ nhất của Đảng:
Chủ nghĩa Mác-Lênin đƣợc Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và truyền bá vào Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc dẫn đến sự
ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, đánh dấu một sự chuyển biến về chất của cách mạng
Việt Nam, khẳng định mục tiêu lý tưởng của con đường phát triển của Việt Nam là đi lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Mục tiêu lý tƣởng của cách mạng Việt Nam đã đƣợc khẳng định ngay trong Cƣơng
lĩnh đầu tiên của Đảng, là xây dựng xã hội cộng sản ở Việt Nam, nhƣng trƣớc hết phải làm
cách mạng tƣ sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) với hai nhiệm vụ giải
phóng dân tộc và thực hiện ngƣời cày có ruộng (phản đế và phản phong). Cách mạng tư sản
dân quyền được xác định là thời kỳ dự bị của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sau khi cách
mạng tƣ sản dân quyền thắng lợi sẽ chuyển lên con đƣờng cách mạng vô sản. Nhƣ vậy là
ngay từ rất sớm, Đảng ta đã hình thành quan điểm cách mạng không ngừng và cách mạng
theo từng giai đoạn. Chƣơng trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng chủ trƣơng
thực hiện cách mạng phản đế và cách mạng điền địa rồi tiến lên thực hiện cho "kỳ đƣợc xã
hội chủ nghĩa".
Con đƣờng đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là con đƣờng bỏ qua thời
kỳ tƣ bản, nhờ sự giúp đỡ quốc tế, mà "tranh đấu thẳng lên con đƣờng xã hội chủ nghĩa". Nhƣ
vậy, ngay từ khi mới ra đời, trong Cƣơng lĩnh chính trị, Đảng Cộng sản Đông Dương đã
khẳng định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là con đường bỏ qua chế độ tư

bản chủ nghĩa Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, việc khẳng định con đƣờng bỏ qua chế độ tƣ
bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, đó là quan điểm đầy sáng
tạo, xuất phát từ điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa

18


phong kiến. Cách mạng Việt Nam đi vào trào lƣu cách mạng vô sản toàn thế giới, và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đang đƣợc tiến hành ở Liên Xô, có thể tạo ra khả năng giúp
đỡ cho Việt Nam phát triển nhanh chóng.
Lực lƣợng để thực hiện mục tiêu của cách mạng Việt Nam là đông đảo quần chúng
nhân dân, lấy khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân làm nền tảng
dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Điều đó nói lên tính chất cuộc cách mạng do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, đó là sự nghiệp cách mạng của đông đảo nhân dân lao động.
Sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản cuối những năm 20 đã có tác dụng to lớn đối với
việc thúc đẩy sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và đề ra cƣơng lĩnh cách mạng của
Đảng trong giai đoạn lịch sử đó.
Tóm lại, bối cảnh quốc tế và trong nƣớc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã dẫn tới sự
lựa chọn lịch sử của cách mạng Việt Nam là đi theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Lý tƣởng đó
mang tính định hƣớng, phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với nguyện vọng cháy bỏng
của nhân dân Việt Nam đang bị đô hộ, bị bóc lột tàn khốc.

2.2. Giai đoạn 1945 -1954.
Nghị quyết Hội nghị cán bộ TW lần thứ 5 (3/1948): muốn tiến lên CNXH, các nƣớc
dân chủ mới cần có 3 điều kiện: quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân ngày càng vững chắc;
thành phần kinh tế XHCN ngày càng rộng lớn và có thể lấn dần kinh tế tƣ nhân; đƣợc các
nƣớc XHCN thành công và các nƣớc dân chủ khác giúp đỡ.
Nghị quyết cũng nêu rõ: quá trình tiến từ dân chủ mới lên CNXH là một cuộc đấu
tranh lâu dài, khó khăn và gian khổ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần II (2/1951). Tại Đại hội, Đảng ta đã nêu lên nhiều quan

điểm cơ bản về con đƣờng đi lên CNXH trong chính cƣơng Đảng (LĐVN) nhƣ sau:
CMDTDCND có nhiệm vụ phản đế, phản phong, phát triển chế độ DCND, gây cơ sở
cho CNXH.
Động lực: CN, ND, TTS thành thị, TTS trí thức, TS dân tộc và thân sĩ (địa chủ) yêu
nƣớc, tiến bộ. Lấy liên minh công, nông, trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh
đạo.
Thực chất của cuộc CM này là CMDTDC kiểu mới tiến lên CMXHCN, không phải
qua cuộc nội chiến cách mạng.
Con đƣờng phát triển đi lên của cuộc CM này là đi lên CNXH. Đó là con đƣờng đấu
tranh lâu dài, trải qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành CMGPDT.

19


Giai đoạn 2: nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những tàn tích phong kiến, thực hiện ngƣời
cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ DCND.
Giai đoạn 3: nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho CNXH, tiến lên thực hiện
XHCN.
Nhƣ vậy, so với cƣơng lĩnh năm 1930, Cƣơng lĩnh lần này đã phát họa một cách
tƣơng đối cụ thể hơn về con đƣờng đi lên CNXH của Đảng ta:
Từ CMDC mới đi lên CNXH không cần trải qua một cuộc nội chiến cách mạng.
Đi lên CNXH là một cuộc đấu tranh lâu dài và toàn diện, phải chia làm nhiều giai
đoạn, đi từ thấp đến cao.
Tƣ tƣởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, lấy công-nông-trí thức làm nền tảng do
Đảng lãnh đạo.
Tuy nhiên, giai đoạn này, vấn đề quá độ lên CNXH mới đặt ra về mặt lý luận vì chúng
ta đang phải tập trung đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến thắng lợi
hoàn toàn.


2.3. Giai đoạn từ sau năm 1954 đến nay.
2.3.1.Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960). Đề ra đƣờng lối CMXHCN ở
miền Bắc một cách toàn diện và cụ thể. Với những quan điểm sau:
CMXHCN là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đƣa MB nƣớc ta từ
nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nhỏ tiến dần lên nền kinh tế XHCN dựa trên cơ sở sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
CMXHCN là một quá trình bao gồm 2 mặt: cải tạo XHCN và xây dựng CNXH. Hai
mặt đó có quan hệ khắng khít với nhau, ảnh hƣởng và thúc đẩy lẫn nhau.
Cải tạo: các tp kinh tế phi XHCN, chuyển nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh
tế XHCN. Đảng chủ trƣơng: cải tạo nông nghiệp, công thƣơng nghiệp TB tƣ nhân ...
Xây dựng: công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ mà mấu chốt
là ƣu tiên phát triển công nghiệp nặng, coi công nghiệp là nền tảng. Tiến hành CMXHCN
trên lĩnh vực tƣ tƣởng - văn hóa..
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện CMXHCN ở MB thời kỳ này cũng đã bộc lộ
những hạn chế sau:
Nhanh chóng chuyển nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh tế XHCN thuần
nhất, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
20


×