Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH thương mại & ĐT Tuấn Linh.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687 KB, 101 trang )

Khóa luận Tốt Nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
2. TM & ĐT: Thương mại và Đầu tư
3. NSLĐ & LN: Năng suất lao động và Lợi nhuận
4. NXB: Nhà xuất bản
5. QTKDQT: Quản trị kinh doanh quốc tế
6. XD & XNK: Xây dựng và xuất nhập khẩu
7. LN: Lợi nhuận
8. NK: nhập khẩu
9. TSLN: Tỷ suất lợi nhuận
10. HQKD: Hiệu quả kinh doanh
11. VLĐ: Vốn lưu động
12. VCĐ: Vốn cố định
13. NNL: Nguồn nhân lực
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
1
Khóa luận Tốt Nghiệp
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU, HÌNH
Trang
I. BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1: Bảng tổng kết báo cáo nhân sự công ty giai đoạn 2003 – 2007.....44
Bảng 2: Số lượng NK hàng năm giai đoạn 2003 – 2007..............................49
Bảng 3: Bảng các chỉ tiêu LN, TSLN giai đoạn 2003 – 2007......................53
Bảng 4: Bảng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn..........................57
Bảng 5: Bảng các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động.................................62
Bảng 6: Bảng các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận NK trong thời gian tới......77
II. HÌNH
Hình 1: cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý công ty TNHH
TM & ĐT Tuấn Linh.....................................................................................45
Hình 2: Số lượng NK hàng năm giai đoạn 2003 – 2007.............................50


Hình 3: Giá trị NK hàng năm giai đoạn 2003 – 2007..................................50
Hình 4: Tăng trưởng LN qua các năm 2003 – 2007....................................54
Hình 5: TSLN theo DT, CF qua các năm 2003 – 2007................................55
Hình 6: Hiệu quả sử dụng VLĐNK qua các năm 2003 – 2007..................58
Hình 7: Số vòng quay VLĐ qua các năm 2003 – 2007...............................59
Hình 8: Thời gian 1 vòng quay vốn lưu động..............................................60
Hình 9: Thời hạn thu hồi vốn........................................................................61
Hình 10: Hệ số đảm nhiệm vốn....................................................................62
Hình 11: NSLĐ & LN bình quân..................................................................63
Hình 12: Mô hình phân phối sản phẩm hiện tại của công ty.....................81
Hình 13: Mô hình phân phối sản phẩm đề xuất với công ty........................83
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
2
Khóa luận Tốt Nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, kinh doanh quốc tế ngày
càng được mở rộng và giữ vai trò quan trọng. Vai trò đó ngày càng được khẳng
định khi nhờ nó mà nhiều doanh nghiệp, nhiều nghành, nhiều nền kinh tế quốc gia
có cơ hội phát triển.Trong nền kinh tế thị trường, việc mở rộng giao thương với các
đối tác nước ngoài là việc tất yếu khách quan. Khi Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của WTO, điều đó càng trở nên quan trọng.
Nắm bắt xu thế đó, ngày càng có nhiều công ty thương mại hoạt động
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, đồng thời thu lợi nhuận. Trong
môi trường cạnh tranh ngày càng ác liệt như hiện nay, để có thể tồn tại, có cơ hội
mở rộng kinh doanh và phát triển, đòi hỏi các công ty kinh doanh quốc tế phải hết
sức chú trọng tới mọi khâu trong chuỗi hoạt động nhằm nâng cao sức mạnh cạnh
tranh. Bắt đầu từ việc tìm kiếm đối tác cung cấp nguồn nguyên vật liệu để sản
xuất, tìm kiếm nhà cung cấp hàng hóa, việc marketing sản phẩm, marketing
doanh nghiệp cho tới việc phân phối tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm. Tất cả các khâu
đều đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại của doanh nghiệp kinh doanh.

Công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh là một doanh nghiệp kinh doanh
quốc tế chuyên nhập khẩu tấm nhôm vật liệu và phân phối trên thị trường Hà Nội
cũng như một số thị trường tại các tỉnh khác. Mặc dù đây là sản phẩm khá mới
mẻ, công ty lại được coi là đi đầu trong cung ứng sản phẩm cho thị trường, nhưng
cho tới nay, trong hoạt động nhập khẩu công ty Tuấn Linh còn tồn tại nhiều hạn
chế và chưa thực sự đạt hiệu quả cao, chưa đúng với tiềm năng và vị thế của công
ty. Xuất phát từ lý do trên, em lựa chọn đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp là:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH TM &
ĐT Tuấn Linh” nhằm đưa ra các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả hoạt động
nhập khẩu, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
3
Khóa luận Tốt Nghiệp
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động
cũng như thực trạng nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty trong
thời gian qua, đề tài đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động nhập khẩu, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
toàn công ty nói chung.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ vủa chuyên đề là:
- Hệ thống hóa lý luận về nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
cũng như sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu của doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu và thực trạng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu của công ty trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu của công ty trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là vấn đề hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh.
Phạm vi nghiên cứu chính là hoạt động nhập khẩu sản phẩm tấm nhôm vật

liệu của công ty 5 năm gần đây, giai đoạn 2003 – 2007.
Về kết cấu của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được chia
làm 3 chương:
- Chương I : Lý luận chung về nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
của doanh nghiệp.
- Chương II : Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh trong những
năm qua.
- Chương III : Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
4
Khóa luận Tốt Nghiệp
Cuối cùng, em xin được gửi lời cám ơn tới ban giám đốc, phòng kinh
doanh, phòng xuất nhập khẩu công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh đã chỉ bảo,
giúp đỡ em trong thời gian thực tập.Do điều kiện thời gian hạn hẹp, kiến thức còn
nhiều hạn chế nên đề tài của em còn nhiều thiếu sót. Nhưng em hy vọng rằng nó
có thể góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng như hiệu
quả kinh doanh nói chung của công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh, để công ty
có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Em cũng xin chân thành cảm ơn thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh Hà - người đã
tận tình hướng dẫn để em hoàn thành được đề tài này.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
5
Khóa luận Tốt Nghiệp
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU, HIỆU
QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP
KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHẬP KHẨU
1. Khái niệm nhập khẩu
Trong thời gian gần đây, khi vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc
tế ngày càng được khẳng định thì cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của hoạt
động ngoại thương. Xuất nhập khẩu hàng hóa trở thành một mảng quan trọng
trong hoạt động nói chung của cả nền kinh tế. Hai hoạt động chủ yếu là xuất khẩu
hàng hóa ra thị trường nước ngoài và nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về tiêu
thụ tại thị trường trong nước trở thành các hoạt động khá phổ biến. Cùng với xuất
khẩu, hoạt động nhập khẩu là các yếu tố cấu thành chính cho hoạt động ngoại
thương. Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế, vượt ra khỏi phạm vi
biên giới quốc gia. Có thể nói, nhập khẩu chính là việc các công ty trong nước
mua hàng hóa của các nhà sản xuất, phân phối nước ngoài về tiêu thụ tại thị
trường nội địa nước mình, nhằm phục vụ những nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng
hoặc tái sản xuất mà nền sản xuất trong nước không đáp ứng được hoặc đáp ứng
chưa tốt nhu cầu đó. Trên cơ sở đó, tìm kiếm lợi nhuận cho mình. Hoạt động
nhập khẩu thể hiện mối liên hệ phụ thuộc, sự ràng buộc của nền kinh tế một nước
với nền kinh tế thế giới.
Như vậy, có thể nói rằng nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ từ
các nhà sản xuất, cung ứng nước ngoài về phục vụ các nhu cầu trong nước. Điều
này góp phần làm cho chủng loại hàng hóa trên thị trường nội địa trở nên phong
phú và đa dạng, người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn nhiều loại hàng hóa hơn cho
nhu cầu của mình.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
6
Khóa luận Tốt Nghiệp
2. Đặc điểm cơ bản và vai trò của hoạt động nhập khẩu
2.1 Đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế, nó mang những đặc trưng
rất riêng so với kinh doanh nội địa. Những đặc điểm riêng này có tác động và ảnh
hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Các đặc

điểm có thể kể đến như:
Về thị trường, các nhà nhập khẩu hoàn toàn có thể lựa chọn được cho mình
nhà cung cấp nước ngoài một cách hợp lý nhất. Bất cứ quốc gia nào có thể cung
cấp sản phẩm, hàng hóa đều có thể trở thành thị trường cho các nhà nhập khẩu
hàng hóa. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối khác
nhau, họ hoàn toàn có thể sản xuất những hàng hóa họ có lợi thế nhất, từ đó cung
cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh nhất. Các nhà nhập
khẩu có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường nhập khẩu cho mình. Trong một thị
trường rộng lớn, phong phú và đa dạng như vậy, để chọn được thị trường hiệu
quả và hợp lý, các nhà nhập khẩu phải phân tích, so sánh để có được lựa chọn
đúng đắn nhất. Trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu lợi nhuận luôn được chú
trọng. Để đạt được mục tiêu đó, các nhà nhập khẩu cần cân nhắc tới những lợi ích
đạt được cũng như các chi phí bỏ ra khi kinh doanh trên một thị trường nhất định.
Các yếu tố liên quan thị trường thường được các nhà nhập khẩu xem xét bao
gồm: hàng hóa thị trường cung ứng, chất lượng hàng hóa đó, nhu cầu thị trường
với hàng hóa đó, chi phí vận chuyển, các quy định pháp luật…
Về cách thức thanh toán, nhập khẩu cũng như hoạt động ngoại thương, có
rất nhiều phương thức thanh toán như: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ…
với nhiều công cụ thanh toán như: tiền mặt, séc, hối phiếu, kỳ phiếu… Trong
thanh toán nhập khẩu, các bên thường quy định điều khoản thanh toán rất cụ thể,
tỷ mỉ. Các loại ngoại tệ mạnh thường được sử dụng, điều đó cũng đồng nghĩa với
việc nhà nhập khẩu phải chịu rủi ro rất lớn khi tỷ giá hối đoái biến động lớn. Để
đảm bảo hiệu quả hoạt động của mình không bị ảnh hưởng, đạt kết quả cao, yêu
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
7
Khóa luận Tốt Nghiệp
cầu đối với các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu phải rất chú ý tới điều khoản
thanh toán. Các yếu tố như: hình thức thanh toán, thời hạn thanh toán, đồng tiền
sử dụng để thanh toán, tỷ giá hối đoái… là các yếu tố buộc các doanh nghiệp phải
rất chú trọng.

Về hệ thống pháp lý, hoạt động nhập khẩu chịu sự chi phối của nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau. Do chủ thể của hoạt động nhập khẩu đến từ các quốc
gia khác nhau, nên hoạt động nhập khẩu chịu sự chi phối của luật nước người
mua, luật nước người bán, luật quốc tế, các tập quán thương mại… Các nguồn
luật này nhiều khi có sụ xung đột, mâu thuẫn nhau. Điều này thường mang lại
nhiều rủi ro cho các bên. Yêu cầu đặt ra là mỗi doanh nghiệp tham gia hoạt động
nhập khẩu phải lưu ý và nắm rõ điều này để lựa chọn được nguồn luật điều chỉnh
hợp đồng, tránh được các phát sinh không cần thiết.
Xuất phát từ đặc điểm hoạt động vượt ra khỏi biên giới quốc gia mà hoạt
động nhập khẩu mang những đặc điểm riêng nêu trên. Những đặc điểm này một
mặt mang lại cho các bên tham gia hoạt động nhập khẩu cả những cơ hội lớn
cũng như các rủi ro đáng kể.
2.2 Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Trước hết, nhập khẩu giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính phủ các quốc
gia có thể kiểm soát, điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các chính sách nhập
khẩu. Đối với các nghành cần khuyến khích phát triển, chính phủ có thể áp dụng
các biện pháp, chính sách nhập khẩu nhiều ưu đãi với những mặt hàng phục vụ
nghành đó. Đồng thời với những sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm
nghành đó sản xuất ra, chính phủ có thể áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu,
các biện pháp bảo hộ. Mặt khác, với những quốc gia đang hoặc kém phát triển, họ
ít có điều kiện nghiên cứu phát triển và triển khai công nghệ mới, hiện đại. Thông
qua hoạt động nhập khẩu, họ có thể có được những công nghệ mới, hiện đại, phục
vụ nền sản xuất trong nước, làm gia tăng năng suất cũng như khả năng cạnh tranh
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
8
Khóa luận Tốt Nghiệp
cho nền kinh tế quốc gia đó. Đồng thời cũng có thể đáp ứng được nhu cầu cho thị
trường trong nước, qua đó làm giảm sự lệ thuộc vào các nước khác.
Thứ hai, nhập khẩu góp phần làm nền kinh tế quốc gia phát triển ổn định,
cân đối. Mỗi quốc gia, dù giàu có và phát triển đến đâu cũng không thể tự sản

xuất và đáp ứng tất cả các nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú của
mình. Như đã nói, mỗi đất nước có một lợi thế so sánh riêng. Để đạt hiệu quả cao
nhất, họ chỉ tập trung vào sản xuất những mặt hàng họ có lợi thế đó, mang những
sản phẩm đó đi trao đổi để đáp ứng các nhu cầu khác nữa. Hoạt động nhập khẩu
là một mặt của sự trao đổi đó. Nó giúp cho các nền kinh tế có được sự cân đối
giữa các chủng loại sản phẩm họ có thể sản xuất và không thể sản xuất nhằm đáp
ứng các nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhập khẩu giúp bổ sung một cách hợp
lý những thiếu hụt của nền kinh tế quốc gia. Với vai trò này, nhập khẩu thực sự
trở thành một hoạt động không thể thiếu với nền kinh tế các quốc gia. Nó đảm
bảo cho các quốc gia có thể phát triển một cách cân đối, ổn định, vững bền.
Thứ ba, nhập khẩu giúp cải thiện và nâng cao chất lượng sống của người
dân. Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, nhu cầu người tiêu dùng
ngày càng lớn, đa dạng và phong phú. Những sản phẩm sản xuất trong nước
nhiều khi không thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhập khẩu giúp
bổ sung đáp ứng các nhu cầu cao đó. Mặt khác, nhập khẩu làm cho chủng loại
hàng hóa trở nên phong phú, đa dạng hơn. Cùng một chi phí, để đáp ứng cùng
một nhu cầu, người tiêu dùng có thể lựa chọn hàng hóa có xuất sứ từ nhiều quốc
gia khác nhau. Bên cạnh đó, hoạt động nhập khẩu còn đảm bảo cung cấp các yếu
tố đầu vào cho hoạt động sản xuất khi nguồn nguyên vật liệu trong nước khan
hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu. Trên cơ sở đó, nhiều hoạt động sản xuất được
duy trì và mở rộng, tạo điều kiện tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho nền kinh
tế nói chung.
Thứ tư, nhờ nhập khẩu, chất lượng sản xuất nền kinh tế quốc gia được cải
thiện. Khi các sản phẩm nhập khẩu được đưa vào tiêu thụ trên thị trường nội địa,
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
9
Khóa luận Tốt Nghiệp
các sản phẩm sản xuất trong nước có thể vì thế mà mất thị trường. Để cạnh tranh,
yêu cầu đặt ra với các nhà sản xuất trong nước là phải tìm cách để nâng cao chất
lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí. Chính áp lực cạnh tranh với hàng hóa nhập

khẩu đã buộc các công ty nội địa cải tiến quy trình, công nghệ, cung cách làm
việc của mình để sản xuất được những sản phẩm có thể cạnh tranh. Điều này góp
phần làm thay đổi năng lực sản xuất của các công ty, của một nghành, từ đó làm
thay đổi năng lực sản xuất của cả nền kinh tế.
Thứ năm, nhập khẩu có tác động tích cực, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động nhập khẩu một mặt đảm bảo các yếu tố đầu vào sản xuất cho một số
nghành, một mặt làm thay đổi công nghệ, quy trình sản xuất. Điều đó cho phép
chúng ta sản xuất ra được những sản phẩm đảm bảo chất lượng và tiêu chuẩn kỹ
thuật của họ, là bước khởi đầu cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra thị trường
nước ngoài. Ngoài ra, trong nhiều chương trình hợp tác giữa các chính phủ, các tổ
chức nhà nước, khi chúng ta chấp nhận nhập khẩu hàng hóa của họ, họ cũng sẽ
chấp nhận nhập khẩu hàng hóa khác của ta. Khi đó, hoạt động nhập khẩu cũng đã
góp phần thúc đẩy và tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu.
3. Các hình thức nhập khẩu
Trong ngoại thương, các phương thức giao dịch mua bán hàng hóa khá
phong phú và đa dạng. Cùng với đó, hoạt động nhập khẩu cũng có khá nhiều hình
thức. Khi tham gia kinh doanh nhập khẩu, tùy thuộc vào năng lực tài chính của
doanh nghiệp, vào chủng loại và đặc tính hàng hóa, vào quan hệ giữa các bên mà
nhà nhập khẩu có thể lựa chọn cho mình các hình thức nhập khẩu phù hợp và đạt
hiệu quả. Hiện nay, các hình thức nhập khẩu có thể kể đến bao gồm: nhập khẩu
trực tiếp, nhập khẩu ủy thác,nhập khẩu hàng đổi hàng, nhập khẩu gia công, nhập
khẩu liên doanh.
Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu mà hai bên mua và bán trực
tiếp giao dịch với nhau, hàng hóa được nhà nhập khẩu mua trực tiếp từ nhà sản
xuất, cung ứng nước ngoài mà không qua trung gian. Theo đó, bên xuất khẩu trực
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
10
Khóa luận Tốt Nghiệp
tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu. Nhà nhập khẩu sẽ tự bỏ vốn để kinh doanh
nhập khẩu, tự thực hiện các công việc như tìm đối tác, đàm phán, ký kết hợp

đồng, tự tổ chức kinh doanh hàng nhập khẩu, tự chịu chi phí cho giao dịch,
nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho… Theo hình thức này, các doanh
nghiệp nhập khẩu phải chịu trách nhiệm với các hoạt động của mình. Nhập khẩu
trực tiếp chứa đựng độ rủi ro cao hơn các hình thức nhập khẩu khác nhưng mang
lại nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà nhập khẩu.
Nhập khẩu ủy thác hay còn gọi là nhập khẩu qua trung gian, là hình thức
nhập khẩu qua trung gian thương mại. Theo hình thức này, bên nhập khẩu sẽ ủy
thác cho một trung gian thương mại, trung gian này sẽ liên hệ với nhà xuất khẩu,
thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu hàng hóa thông thường để nhập hàng về theo
hợp đồng ủy thác với nhà nhập khẩu thực sự. Khi hoàn thành hợp đồng, nhà nhập
khẩu sẽ phải trả cho trung gian một khoản tiền gọi là phí ủy thác. Doanh nghiệp
kinh doanh nhập khẩu nhận ủy thác sẽ không phải bỏ vốn, không phải xin hạn
nghạch, không cần quan tâm tới thị trường tiêu thụ hàng hóa nhập về đó mà chỉ
hoạt động theo ý nghĩa đại diện cho bên đã ủy thác cho mình tiến hành các giao
dịch với nhà xuất khẩu như: đàm phán, ký hợp đồng, thông quan hàng nhập, giải
quyết khiếu nại, đòi bồi thường khi có tổn thất… Doanh nghiệp kinh doanh nhập
khẩu ủy thác không phải bỏ vốn, rủi ro thấp nhưng lợi nhuận không cao. Doanh
thu chủ yếu là phí ủy thác nhận được từ nhà nhập khẩu chính thức.
Nhập khẩu hàng đổi hàng là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu.
Thanh toán cho hoạt động này không dùng tiền mà dùng hàng hóa. Hình thức
nhập khẩu này thực chất là sự thực hiện hai nghiệp vụ khác nhau: xuất và nhập
khẩu. Theo hình thức này, khi doanh nghiệp nhập khẩu một lượng hàng hóa của
đối tác nước ngoài, đi kèm với việc xuất khấu cho họ một lượng hàng hóa khác
tương ứng với giá trị, tính chất lô hàng đã nhập. Theo hình thức này, các bên
tham gia hợp đồng vừa là người nhập khẩu, vừa là người xuất khẩu. Họ có thể tìm
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
11
Khóa luận Tốt Nghiệp
kiếm được lợi nhuận từ việc kinh doanh hàng nhập khẩu, đồng thời lại tiêu thụ
được hàng hóa khác của mình.

Nhập khẩu gia công là hình thức nhập khẩu mà bên nhập khẩu cũng là bên
nhận gia công thực hiện nhập khẩu nguyên vật liệu hay bán thành phẩm từ bên
đặt gia công để tiến hành gia công hàng hóa theo hợp đồng gia công.
Nhập khẩu liên doanh là hình thức nhập khẩu trên cơ sở một liên kết kinh
tế. Liên kết này được hình thành một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp,
trong đó có ít nhất một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp. Liên kết
kinh tế này cùng phối hợp các kỹ năng để giao dịch, đưa ra biện pháp, chính sách,
đường lối để hoạt động nhập khẩu có lợi nhất cho tất cả các bên tham gia liên kết.
Hình thức này chứa đựng ít rủi ro hơn so với hình thức nhập khẩu trực tiếp, vì có
sự chia sẻ nghĩa vụ cho các bên tham gia liên kết, nhưng đồng thời mức lợi nhuận
cũng thấp hơn do có sự chia sẻ lợi ích.
II. HQKD NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm HQKD, HQKD nhập khẩu của doanh nghiệp
1.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Tham gia vào hoạt động kinh tế, nói chung bất cứ đơn vị nào cũng hướng
tới mục tiêu lợi nhuận. Tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng các doanh
nghiệp theo đuổi. Với một đồng vốn bỏ vào kinh doanh, ai cũng muốn nó mang
lại nhiều đồng lợi nhuận nhất. Muốn đạt được điều đó, các doanh nghiệp không
ngừng đầu tư cho nghiên cứu thị trường, thay đổi quy trình, công nghệ, cải tiến
sản phẩm, cắt giảm chi phí sản xuất, cũng như các chi phí liên quan… Tất cả
những điều đó, nói một cách khác là sự sắp xếp, hợp lý hóa quá trình sản xuất
kinh doanh. “Hiệu quả kinh doanh” là một thuật ngữ để đánh giá, xem xét mứ độ
hợp lý hóa quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Dưới nhiều góc độ khác nhau, có rất nhiều quan điểm, ý kiến về thuật ngữ
“hiệu quả kinh doanh” này. Có thể kể đến một số quan điểm sau đây:
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
12
Khóa luận Tốt Nghiệp
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là kết quả đạt được
trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa”

1
. Quan điểm đã thể
hiện được mối liên hệ giữa doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Theo quan điểm
này, hiệu quả kinh doanh là như nhau nếu các hoạt động kinh doanh cùng mang
lại một mức doanh thu. Có thể thấy, trên thực tế để mang lại cùng một mức doanh
thu nhưng doanh nghiệp phải có sự đầu tư khác nhau cho các hoạt động khác
nhau. Mức đầu tư đó chính là chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh
thu. Chưa phản ánh được điều này chính là hạn chế của quan điểm trên về hiệu
quả kinh doanh.
Quan điểm thứ hai cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”
2
. So với quan điểm
thứ nhất, quan điểm này đã thể hiện được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí.
Nó phản ánh được trình độ sử dụng đồng vốn tăng thêm của doanh nghiệp, trên
cơ sở đó giúp doanh nghiệp ra quyết định có nên đầu tư mở rộng hoạt động đó
hay không. Mặc dù vậy, quan điểm này vẫn còn hạn chế nhất định, đó là việc nó
mới chỉ phản ánh mối liên hệ giữa chi phí và doanh thu bổ sung mà chưa phản
ánh được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí ban đầu. Mà trên thực tế, ban đầu
doanh nghiệp phải bỏ vốn đầu tư tới một ngưỡng nhất định mới có thể có doanh
thu bước đầu. Với những đầu tư ban đầu, quan điểm về hiệu quả kinh doanh ở
trên chưa phản ánh được trình sử dụng chúng.
Quan điểm thứ ba cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh
giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó”
3
. Quan điểm này đã
phản ánh được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để có kết quả đó. Theo
quan điểm này, hiệu quả kinh doanh chính là lợi nhuận thu được từ hoạt động đó.
So với hai quan điểm trên, quan điểm này đã phản ánh được mối quan hệ bản chất
1

Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập 2,
trang 318.
2
Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập 2,
trang 318
3
Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập 2,
trang 318
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
13
Khóa luận Tốt Nghiệp
của hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này cho thấy, với những hoạt động khác
nhau, với cùng một lượng vốn bỏ ra mà thu về cùng một lượng giá trị thì các hoạt
động kinh doanh đó đã có hiệu quả như nhau. Nhưng trên thực tế, điều này là
không chính xác. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh này chưa thể hiện được vai
trò của các yếu tố khác như thời gian thu được kết quả, quy mô hoạt động… Đây
cũng chính là hạn chế của quan điểm này.
Quan điểm thứ tư cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh
mối liên hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí bỏ ra để đạt
kết quả đó, đồng thời phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất”
4
. Về cơ
bản, quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất về hiệu quả kinh
doanh giữa doanh thu và chi phí cũng như sự vận động của hai yếu tố này, đồng
thời còn phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy
vậy, hạn chế của nó là chưa thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội.
Với bốn quan điểm trên về hiệu quả kinh doanh, chúng ta vẫn chưa tìm
được đáp án chung và chính xác nhất để nói về hiệu quả kinh doanh. Một cách
tổng quát, có thể nói rằng: “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản

ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của
doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí
thấp nhất”
5
. Nó là thước đo phản ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất
giữa việc sử dụng các nguồn lực và kết quả do nó mang lại, đồng thời cũng thể
hiện được trình độ sử dụng các nguồn lực cũng như phản ánh được mối liên hệ
giữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội. Trên góc
độ nền kinh tế quốc gia, hiệu quả kinh doanh phải phản ánh mức độ thỏa mãn nhu
4
Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập 2,
trang 319
5
Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập 2,
trang 319
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
14
Khóa luận Tốt Nghiệp
cầu ngày càng cao của người dân và toàn xã hội về cả chất lượng lẫn số lượng.
Hiệu quả được xem xét trên cơ sở lợi ích toàn xã hội, làm sao để đạt được mức
phát triển lớn nhất với nguồn lực xã hội thấp nhất.
1.2 Khái niệm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Về cơ bản, dưới góc độ kinh tế đơn thuần hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
cũng như hiệu quả kinh doanh nói chung. Có thể nói rằng hiệu quả kinh doanh
nhập khẩu của doanh nghiệp chính là trình độ sử dụng các nguồn lực để nhập
khẩu và trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội ở mức cao nhất với chi phí nhất định trong quá trình nhập khẩu. Như đã
nói ở trên, hoạt động nhập khẩu thường sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu vật tư,
thiết bị hay hàng hóa, góp phần cân đối nền kinh tế. Với đặc điểm này,hiệu quả

hoạt động nhập khẩu đã phản ánh cả hiệu quả kinh tế xã hội. Hoạt động nhập
khẩu lúc này đã tạo động lực phat triển kinh tế xã hội.
Với doanh nghiệp, hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi kết quả thu về là
lớn nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Đồng thời, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
còn thể hiện trình độ cũng như khả năng sử dụng các nguồn lực sẵn có phục vụ
cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu đó.
Trên giác độ toàn xã hội, hoạt động nhập khẩu chỉ đạt được hiệu quả khi
kết quả thu về từ việc nhập khẩu hàng hóa của nhà cung cấp nước ngoài cao hơn
kết quả thu được nếu tiến hành sản xuất hàng hóa đó trong nước. nói cách khác,
hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi nó góp phần nâng cao hiệu quả xã hội, làm
tăng chất lượng hàng hóa và hạ giá thành sản phẩm.
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là một phạm trù phức tạp, nó chịu tác dụng
của nhiều yếu tố và bao hàm nhiều nội dung hơn. Hoạt động nhập khẩu có hiệu
quả phải đồng thời mang lại lợi ích cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động và đảm
bảo mang lại những lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
15
Khóa luận Tốt Nghiệp
Dười nhiều góc độ khac nhau, dựa vào các căn cứ khác nhau người ta có
nhiều cách phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Dưới đây là một số cách
phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
2.1 Căn cứ theo phương pháp tính hiệu quả
Theo căn cứ này, bao gồm hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối.
2.1.1 Hiệu quả tuyệt đối
Hiệu quả tuyệt đối là đại lượng thể hiện sự chênh lệch giữa kết quả thu
được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó đối với mỗi phương án kinh doanh,
trong từng thời kỳ với từng doanh nghiệp khác nhau. Hiệu quả tuyệt đối được thể
hiện qua tương quan chênh lệch của kết quả và chi phí, nói cách khác đó là sự
chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Có thể hiểu hiệu quả tuyệt đối

qua công thức tính sau:
E = KQ – CF (*)
Trong đó:
- E: hiệu quả tuyệt đối, là chỉ tiêu trực tiếp đo lượng lợi nhuận doanh
nghiệp thu được sau mỗi kỳ kinh doanh. Hiệu quả tuyệt đối thường được đo bằng
các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
- KQ: Tổng các kết quả thu được bao gồm: doanh thu từ hoạt động bán
hàng, doanh thu từ hoạt động tài chính, các khoản thu khác… Kết quả thường
được đo bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
- CF: Tổng các chi phí bỏ ra để thu được kết quả trên bao gồm: tiền nhập
hàng từ nước ngoài về, chi phí vận chuyển, chi phí mua bảo hiểm hàng hóa, chi
phí lưu kho, bảo quản hàng, chi phí lãi vay ngân hàng, chi phí mua ngoài, tiền
lương công nhân viên… Chi phí thường được đo bằng các đơn vị tiền tệ như:
triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
Cần lưu ý rằng, trong kinh doanh, doanh thu và chi phí có thể được đo
lường bằng các đơn vị tiền tệ khác nhau, nhưng khi tính hiệu quả tuyệt đối cần
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
16
Khóa luận Tốt Nghiệp
đưa về cùng một đơn vị tiền để tính. Khi kết quả và chi phí được đo bằng đồng
tiền nào để tính thì hiệu quả cũng được tính bằng được tính bằng đồng tiền đó.
2.1.2 Hiệu quả tương đối
Hiệu quả tương đối là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản
xuất của doanh nghiệp. Với CF và KQ như trong công thức (*) ở trên, ta có 2
cách tính hiệu quả tương đối với các ý ngĩa khác nhau:
Chỉ tiêu 1:
H
1
=
Về mặt ý nghĩa chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ mang lại bao

nhiêu đồng kết quả. Điều này cũng có nghĩa rằng chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả
kinh doanh, đồng thời thể hiện sức sản xuất của các yếu tố đầu vào, cũng như
việc sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp được coi là hoạt động có hiệu quả khi doanh nghiệp đó
hoạt động có lãi. Nói cách khác, ít nhất doanh nghiệp đó phải đảm bảo được
doanh thu đủ bù đắp chi phí. Về mặt toán học, điều đó có nghĩa là kết quả doanh
nghiệp đạt được phải hớn hơn chi phí bỏ ra (hay KQ > CF). Vì vậy, một doanh
nghiệp được coi là hoạt động hiệu quả khi chỉ tiêu H
1
nêu trên có giá trị lớn hơn
1. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện doanh nghiệp kinh doanh càng hiệu quả và
ngược lại.
Chỉ tiêu 2:
H
2
=
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này là chỉ tiêu phản ánh ngược của chỉ tiêu trên.
Chỉ tiêu này cho biết để thu được về một đồng kết quả, doanh nghiệp phải bỏ ra
bao nhiêu đồng chi phí. Với các doanh nghiệp có quy trình sản xuất kinh doanh
hợp lý, thì một đồng vốn bỏ vào hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra nhiều đồng kết
quả hơn so với các doanh nghiệp khác.Ngược lại với chỉ tiêu trên, chỉ tiêu này
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
17
Khóa luận Tốt Nghiệp
càng thấp thể hiện hiệu quả kinh doanh, sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao
và ngược lại.
Dưới góc độ toán học, khi giá trị của H
2
nhỏ hơn 1 cho thấy chi phí doanh
nghiệp bỏ ra ít hơn kết quả thu về (có nghĩa là CF < KQ), cũng có nghĩa doanh

nghiệp hoạt động hiệu quả.
2.2 Căn cứ theo phạm vi tính hiệu quả
Theo phạm vi, hiệu quả kinh doanh bao gồm hiệu quả kinh doanh tổng hợp
và hiệu quả kinh doanh bộ phận.
2.2.1 Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh nghiệp , cho tất cả các
bộ phận trong doanh nghiệp. Nó cho biết kết quả thực hiện các mục tiêu doanh
nghiệp đề ra trong một giai đoạn nhất định.
2.2.2 Hiệu quả kinh doanh bộ phận
Là hiệu quả kinh doanh được tính cho từng bộ phận, từng hoạt động kinh
doanh trong doanh nghiệp, hoặc với từng yếu tố sản xuất của doanh nghiệp như
vốn, lao động… Hiệu quả kinh doanh bộ phận chỉ phản ánh hiệu quả từng hoạt
động, từng yếu tố riêng lẻ chứ không phản ánh được hết hiệu quả của toàn doanh
nghiệp.
Giữa hiệu quả kinh doanh bộ phận và hiệu quả kinh doanh tổng hợp có
mối liên hệ mật thiết. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp tăng có thể phản ánh sự tăng
lên tương ứng của hiệu quả kinh doanh bộ phận, cũng có thể hiệu quả kinh doanh
bộ phận không đổi hoặc đang giảm sút. Mặc dù phản ánh chi tiết và chính xác
hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất riêng biệt cũng như sự đóng góp của chúng,
nhưng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận không phản ánh được một cách tổng
quát khả năng, trình độ sử dụng nguồn lực vào sản xuất kinh doanh cũng như hiệu
quả kinh doanh toàn doanh nghiệp.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
18
Khóa luận Tốt Nghiệp
2.3 Căn cứ theo thời gian mang lại hiệu quả
Khi tính toán hiệu quả, ngoài phạm vi tính toán thì giới hạn thời gian là
một yếu tố quan trọng phản ánh chính xác hiệu quả doanh nghiệp đạt được. Theo
căn cứ thời gian này, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gồm hiệu quả trước
mắt và lâu dài.

2.3.1 Hiệu quả kinh doanh trước mắt
Hiệu quả kinh doanh trước mắt là hiệu quả được đánh giá, xem xét trong
khoảng thời gian ngắn trước mắt. Kết quả được xem xét là kết quả mang tính tạm
thời. Để có thể phát triển ổn định, bền vững, để đạt được các mục tiêu trước mắt
cũng như các mục tiêu trong chiến lược phát triển lâu dài, các nhà quản trị ngoài
việc tính toán để đạt các mục tiêu trước mắt còn phải cân nhắc để đảm bảo hiệu
quả lâu dài của doanh nghiệp mình.
2.3.2 Hiệu quả kinh doanh lâu dài
Hiệu quả kinh doanh lâu dài là hiệu quả được xem xét trong một phạm vi
thời gian khá dài, thường gắn với các chiến lược, kế hoạch phát triển bền vững
của doanh nghiệp. Không thể lấy hiệu quả ngắn hạn để phản ánh hiệu quả lâu
dài, bởi vì trên thực tế, tình hình thị trường cũng như môi trường kinh doanh luôn
biến động, thay đổi. Không phải giai đoạn kinh doanh nào cũng như nhau. Với lí
do này, hiệu quả kinh doanh lâu dài sẽ phản ánh chính xác và đầy đủ hơn hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động.
2.4 Căn cứ theo giác độ đánh giá hiệu quả
Theo căn cứ này, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bao gồm hiệu quả
tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội.
2.4.1 Hiệu quả tài chính
Hiệu quả tài chính cũng chính là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đây là hiệu quả được xem xét, phân tích dưới góc độ doanh nghiệp. Với
hoạt động nhập khẩu, hiệu quả tài chính chính là mối liên hệ giữa các lợi ích mà
doanh nghiệp nhận được từ hoạt động nhập khẩu đó và chi phí doanh nghiệp bỏ
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
19
Khóa luận Tốt Nghiệp
ra. Đối với doanh nghiệp, tiêu chuẩn phản ánh hiệu quả tài chính chính là lợi
nhuận. Đây cũng chính là mục tiêu cuối cùng mà các doanh nghiệp hướng tới,
cũng là mối quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp nói chung.
2.4.2 Hiệu quả chính trị - xã hội

Hiệu quả chính trị - xã hội là hiệu quả được xem xét dưới góc độ xã hội.
Đó chính là lợi ích mà hoạt động kinh doanh mang lại cho xã hội, là sự đóng góp
vào việc phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân. Các lợi ích mà hoạt
động nhập khẩu có thể mang lại cho xã hội như: góp phần phát triển sản xuất, đổi
mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, cải
thiện điều kiện sống cho nhân dân, tích lũy ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách nhà
nước…
Giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả chính trị - xã hội là mối liên hệ gắn bó.
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp vì theo đuổi mục tiêu hiệu quả tài chính mà bỏ
quên hiệu quả chính trị - xã hội. Họ sẵn sàng cắt giảm chi phí bằng cách bỏ qua
việc xử lý các hậu quả do hoạt động sản xuất gây nên như ô nhiễm môi trường, ô
nhiễm nguồn nước…
3. Các chỉ tiêu phản ánh HQKD nhập khẩu của doanh nghiệp
3.1 Các chỉ tiêu tổng hợp
3.1.1 Lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế mang tính tổng hợp, phản ánh toàn
bộ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
(1) Lợi nhuận được tính theo công thức sau:
LNNK = DTNK – CFNK
Trong đó:
LNNK: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu
DTNK: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu, thường là doanh
thu tiêu thụ sản phẩm trong mỗi kỳ kinh doanh.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
20
Khóa luận Tốt Nghiệp
CFNK: Chi phí cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu, được tính bằng tổng
của các khoản chi phí như: giá mua hàng hóa, các chi phí vận chuyển, bảo hiểm,
lưu kho, bảo quản, chi phí trả lương nhân viên, các khoản thuế phải nộp, các tổn
thất khác trong kỳ liên quan hoạt động nhập khẩu.

LNNK, DTNK, CFNK được tính bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ
đồng, triệu USD, tỷ USD… Dù DTNK, CFNK được đo lường bằng các đơn vị
tiền tệ khác nhau, nhưng khi tính toán LNNK đạt được, cần chú ý đưa về cùng
một đơn vị tính, một loại tiền. Khi đó, lợi nhuận được tính bằng đồng tiền chung
quy về đó.
Trong kinh doanh, lợi nhuận các doanh nghiệp thu được sau mỗi kỳ kinh
doanh là rất khác nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Lợi nhuận có thể mang giá
dương, nhưng cũng có thể mang giá trị âm. Khi nó dương, điều đó có nghĩa là
doanh nghiệp hoạt động có lãi, có hiệu quả. Khi lợi nhuận mang trị số âm, điều
đó thể hiện doanh nghiệp đang thua lỗ, hoạt động không đạt hiệu quả, nếu duy trì
tình trạng này trong thời gian dài, có thể sẽ dẫn doanh nghiệp đến phá sản.
Về mặt ý nghĩa, lợi nhuận là cơ sở để doanh nghiệp duy trì hoạt động, đồng
thời tái sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận càng lớn, tiềm lực tài chính của doanh
nghiệp càng tăng, nó cũng chứng tỏ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày
càng đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng quy mô hoạt động,
tạo điều kiện cải thiện đời sống người lao động. Lợi nhuận, tối đa hóa lợi nhuận
cũng là mục tiêu cuối cùng các doanh nghiệp hướng tới.
Mặc dù là chỉ tiêu quan trọng nhưng lợi nhuận lại không phản ánh được hết
hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Lợi nhuận chỉ phản
ánh sự chênh lệch về lượng giữa doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh nhập
khẩu mà không phản ánh được quá trình sinh ra nó. Do đó, để đánh giá chính xác
và hiệu quả, người ta thường so sánh lợi nhuận với doanh thu, chi phí và nguồn
vốn phục vụ hoạt động nhập khẩu.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
21
Khóa luận Tốt Nghiệp
3.1.2 Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu
(2) Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhập khẩu
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mối
liên hệ giữa lợi nhuận đạt được và doanh thu thu về.

Tỷ suất lợi nhuận được tính theo công thức sau:
Trong đó:
Ddt: tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu thu về từ hoạt động nhập khẩu, được
tính bằng tỷ lệ %
LNNK, DTNK: lợi nhuận và doanh thu nhập khẩu, được tính như trong chỉ
tiêu (1) ở trên.
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu từ hoạt
động kinh doanh nhập khẩu có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua chỉ tiêu này, có thể
thấy xu hướng biến đổi của lợi nhuận khi doanh thu tăng lên, trên cơ sở đó có
những biện pháp phù hợp để nâng cao mức doanh lợi của doanh thu nhằm làm
tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
(3) Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mối liên
hệ giữa lợi nhuận đạt được và chi phí bỏ ra.
Tỷ suất lợi nhuận được tính theo công thức sau:
Trong đó:
Dcf: tỷ suất lợi nhuận theo chi phí bỏ ra cho hoạt động nhập khẩu, được
tính bằng tỷ lệ %.
LNNK, CFNK: lợi nhuận và chi phí nhập khẩu, được tính như trong chỉ
tiêu (1) ở trên.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
22
Khóa luận Tốt Nghiệp
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí bỏ ra cho hoạt
động kinh doanh nhập khẩu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Cũng như tỷ suất
lợi nhuận theo doanh thu, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí càng cao thì hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
3.2 Các chỉ tiêu bộ phận
3.2.1 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn nhập khẩu
(4) Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu

Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu là một chỉ tiêu bộ phận, phản
ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu được tính theo công thức:
Trong đó:
Hvld: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu
LNNK: như chỉ tiêu (1) ở trên
VLĐNK: vốn lưu động nhập khẩu, được tính bằng các đơn vị tiền tệ như:
triệu đồng, tỷ dồng, triệu USD… Vốn lưu động nhập khẩu là các khoản vốn lưu
động được sử dụng cho hoạt động nhập khẩu như: các khoản tiền mặt dùng cho
nhập hàng, các khoản vay, các khoản tạm ứng, các chi phí trả trước… cho hoạt
động nhập khẩu.
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này phản ánh, một đồng vốn lưu động đầu tư cho
hoạt động nhập khẩu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn,
chứng tỏ khă năng sử dụng vốn lưu động cho hoạt động nhập khẩu của doanh
nghiệp càng hiệu quả.
(5) Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu
Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu là một chỉ tiêu bộ phận, phản
ánh khả năng quay vòng của vốn lưu động nhập khẩu.
Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu được tính theo công thức:
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
23
Khóa luận Tốt Nghiệp
Trong đó:
Svq: số vòng quay vốn lưu động nhập khẩu trong một kỳ kinh doanh, được
tính bằng đơn vị vòng quay.
DTNK: như chỉ tiêu (1) ở trên.
VLĐNK: như chỉ tiêu (4) ở trên.
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động nhập khẩu quay được bao
nhiêu vòng trong một kỳ kinh doanh. Số vòng quay vốn lưu động càng lớn thì
càng thể hiện doanh nghiệp sử dụng càng hiệu quả vốn lưu động và ngược lại.

Bên cạnh đó, có thể sử dụng một chỉ tiêu phụ để đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn lưu động, đó là chỉ tiêu thời gian một vòng quay vốn. Đây là chỉ tiêu ngược
với chỉ tiêu (5) ở trên.
(6) Chỉ tiêu thời gian một vòng quay vốn:
( Coi kỳ kinh doanh 1 năm có 360 ngày)
Trong đó:
T1vq: thời gian vốn lưu động quay được một vòng, thường được tính bằng
số ngày.
DTNK, VLĐNK: doanh thu, vốn lưu động nhập khẩu được tính như trong
các chỉ tiêu (1) và (4) ở trên.
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này phản ánh lượng thời gian cần thiết để vốn lưu
động quay được một vòng. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì số vòng quay của vốn lưu
động trong một kỳ kinh doanh càng nhiều, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng
cao.
(7) Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
24
Khóa luận Tốt Nghiệp
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động là một chỉ tiêu bộ phận, phản ánh mối liên
hệ giữa doanh thu thu được và vốn lưu động bỏ ra cho hoạt dộng nhập khẩu.
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động được tính theo công thức sau:
Trong đó:
Hdn: hệ số đảm nhiệm vốn lưu động nhập khẩu.
DTNK, VLĐNK: doanh thu thu được và vốn lưu động bỏ ra cho hoạt động
nhập khẩu được tính như trong các chỉ tiêu (1) và (4) ở trên.
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này cho biết để thu được một đồng doanh thu cần
bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng thấp có nghĩa là để thu được một
đồng doanh thu càng phải sử dụng ít vốn lưu động nhập khẩu, điều đó càng phản
ánh hiệu quả kinh doanh cao và ngược lại.
3.2.2 Thời hạn thu hồi vốn nhập khẩu

(8) Thời hạn thu hồi vốn nhập khẩu
Thời hạn thu hồi vốn nhập khẩu là một chỉ tiêu hiệu quả bộ phận, phản ánh
khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần dần được thu hồi sau mỗi kỳ kinh doanh.
Thời hạn thu hồi vốn nhập khẩu được tính như sau:
T
vld
=
Trong đó:
Tvld: thời hạn thu hồi vốn nhập khẩu, được tính bằng số kỳ kinh doanh.
VNK: Vốn đầu tư cho hoạt động nhập khẩu bao gồm cả vốn cố định và vốn
lưu động. Vốn nhập khẩu cũng được tính bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng,
tỷ đồng, triệu USD…
LNNK: như chỉ tiêu (1) ở trên.
Về ý nghĩa, chỉ số này phản ánh để thu hồi vốn đầu tư cho hoạt động nhập
khẩu cần bao nhiêu kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này càng nhỏ có nghĩa là số vốn đầu
tư cho hoạt động nhập khẩu sau ít kỳ kinh doanh có thể thu hồi lại. Điều đó càng
thể hiện việc sử dụng vốn nhập khẩu đạt hiệu quả khá tốt.
Trần Thị Thoa – QTKD Quốc Tế 46B
25

×