Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.12 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, phát triển một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đầu tư trực
tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng. Trong những năm qua hoạt
động kinh tế này đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Thu hút đầu tư nước ngoài như một tất yếu quan trọng đánh dấu quá
trình mở cửa trong đường lối đổi mới được khởi xướng từ năm 1986 với nội
dung cốt lõi là chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nền kinh
tế kín sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế xã
hội. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2001-2010 (tính đến
hết 21/12/2010), Việt Nam có 12.213 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đạt
khoảng 192,9 tỷ USD và vốn thực hiện khoảng 63 tỷ USD với số vốn bình
quân đạt 16,2 triệu USD/dự án (vốn đăng ký) và 5,5 triệu USD/dự án (vốn
thực hiện). Ngoài ra, theo số liệu của Tổng cục thống kê, giá trị sản xuất công
nghiệp tháng 4 năm 2011 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 14,3% so với
cùng kỳ năm trước, bao gồm: khu vực kinh tế Nhà nước tăng 3,9% (Trung
ương quản lý tăng 4,2%; địa phương quản lý tăng 2,3%); khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước tăng 17,1%; và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
17,5%. Tính chung bốn tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng
14,2% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: khu vực kinh tế Nhà nước tăng
5,1% (Trung ương quản lý tăng 5,4%; địa phương quản lý tăng 3,8%); khu
vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 16,8%; và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
1
tăng 16,7%. Đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện cả về mặt vật chất
lẫn tinh thần.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của tất cả các nước trên thế giới nói chung và sự phát triển kinh


tế của Việt Nam nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn
này, dựa vào chính sách và khả năng phát triển của mình mà hầu hết các quốc
gia trên thế giới đều mở cửa thu hút nguồn vốn FDI.
Cho đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhìn nhận như là một
trong những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Vai trò của
FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng góp vào các yếu tố quan trọng của
tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao
công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm…Ngoài ra, FDI cũng
đóng góp tích cực vào tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy Việt Nam hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ có sự đóng góp quan trọng của
FDI mà Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm
qua và được biết đến là quốc gia phát triển năng động, đổi mới, thu hút được
sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
Với ý nghĩa nêu trên, việc nghiên cứu về đề tài “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” là một vấn đề cần
thiết, và có ý nghĩa khoa học thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với sự hiện diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam, các nghiên cứu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài rất phong phú và
đa dạng, thực hiện bởi các cơ quan quản lý Nhà nước và các cá nhân. Có thể
nêu các công trình sau:
- Bùi Anh Tuấn, Tạo việc làm cho người lao động đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội – 2000.
2
- TS. Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc
Gia Hà Nội - 2001.
- ThS. Lê Minh Toàn, Tìm hiểu Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội - 2002.
- TS. Trần Nguyễn Trọng Xuân, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa

học xã hội, Hà Nội - 2002.
- TS. Đinh Văn Ân, Hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Báo cáo hội thảo về tác động của Hội
nhập kinh tế tháng 6 năm 2004.
- TS. Trần Xuân Tùng, Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam – Thực
trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia - 2005.
- ThS. Nguyễn Văn Tuấn, Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển
kinh tế ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội - 2005.
- PGS.TS.Trần Quang Lâm – TS An Như Hải, Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp, Hà Nội – 2005.
- Khóa luận tốt nghiệp: Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài tới
nền kinh tế ở Việt Nam – Bùi Thị Thu Hà, 2009.
Đồng thời, các đề tài nghiên cứu khoa học về đầu tư nước ngoài của
các bộ ngành phục vụ công tác quản lý nhà nước cũng khá phong phú tập
trung vào các vấn đề: phân cấp quản lý nhà nước trong công tác quản lý đầu
tư nước ngoài, xây dựng các danh mục thu hút đầu tư nước ngoài, dự báo
nguồn vốn đầu tư nước ngoài quốc tế và khu vực, khảo sát nghiên cứu nguồn
vốn FDI các khu vực EU, Nhật Bản, Mỹ…
Những phân tích khoa học trên là rất quan trọng trong việc nghiên cứu
vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ mới. Cần đánh giá
3
đẩy đủ những hiệu ứng tích cực và tiêu cực có thể tạo ra qua thu hút FDI.
Trên cơ sở đó chỉ ra những định hướng và giải pháp cho hoạt động thu hút
đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng thu hút FDI thời
gian qua, khoá luận chỉ ra một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường
thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Tập trung vào hoạt động thực tiễn thu hút và
sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu hoạt động thu hút và sử
dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến
bốn tháng đầu năm 2011.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích tổng
hợp, thống kê, so sánh, logic, lịch sử cụ thể…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
4
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái quát chung về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct
Investment)
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định
của luật này”.

Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là một khoản đầu
tư với những quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế
khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong
việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) cũng
đưa ra một khái niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được
cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. Cụ thể, FDI gồm có 3 bộ
phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Trong đó:
- Vốn đầu tư cổ phần: là cổ phần của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
mua từ doanh nghiệp ở nước tiếp nhận đầu tư, không phải cổ phần của doanh
nghiệp trong nước tại nước đi đầu tư.
5
- Thu nhập tái đầu tư: là cổ tức không được chuyển cho nhà đầu tư
nước ngoài mà được giữ lại nhằm mục đích tái đầu tư.
- Các khoản vay trong công ty: là các khoản vay ngắn hạn và dài hạn
giữa công ty mẹ và công ty thành viên.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là
người sở hữu tại nước này hoặc mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của
nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế
của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc
tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc
không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10%
cổ phiếu hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ
định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các

quốc gia đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có
những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ
hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong
khi nhiều lúc lớn hơn vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Hoa Kỳ là một trong những nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành đầu tư
lớn nhất trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa về FDI: “FDI là bất kỳ dòng vốn
nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi đầu tư có
được từ việc cho vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh nghiệp nước
ngoài” và Hoa Kỳ coi việc sở hữu đa phần chỉ cần chiếm 10% giá trị của
doanh nghiệp nước ngoài.
Có thể nhận biết FDI theo quan điểm Hoa Kỳ theo bảng sau:
6
Bảng 1.1: Định nghĩa FDI của Hoa Kỳ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Công ty Alcoa của Hoa Kỳ mua 50%
cổ phần của một công ty khai khoáng
của Jamaica.
Công ty Alcoa của Hoa Kỳ mua 5%
cổ phần của một công ty khai khoáng
Jamaica
Công ty Ford của Hoa Kỳ cho một chi
nhánh ở Canada vay, trong đó Ford
chiếm 55% cổ phần
Công ty Ford của Hoa Kỳ cho một
chi nhánh ở Canada vay, trong đó
Ford chiếm 8% cổ phần.
Nguồn: International Economics
Peter H.Lindert and Thomas A.pugel
Quan điểm về FDI của Việt Nam theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật
đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ sung năm 2000: “ Đầu tư trực tiếp nước

ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất
kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”,
trong đó nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam.
=> Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư
trực tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc
gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản
nào vào quốc gia đó để được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát
một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế có thể hiểu là tài sản
hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp
đồng và giấy phép có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết
và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái
7
phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế
có nhân tố nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngoài các đặc điểm vốn có của hoạt động đầu tư, đầu tư trực tiếp nước
ngoài (ĐTTTNN) còn có các đặc điểm sau:
• Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân hoặc tổ chức kinh tế
nước ngoài do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất
kinh doanh và tự chịu trách nhiệm theo nguyên tắc “lời ăn lỗ chịu”. Ngoài sự
lưu chuyển của vốn còn có thêm sự luân chuyển công nghệ giữa nước đầu tư
và nước nhận đầu tư.
• Về vốn góp: các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn
“đủ lớn” để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối và quản lý hoạt động sản
xuất kinh doanh. Mức độ “đủ lớn” của nguồn vốn tùy theo quy định của từng
quốc gia.
• Về quyền kiểm soát: quyền kiểm soát của nhà đầu tư đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Nếu nhà đầu tư

nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu
tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý. Nếu thành lập liên
doanh thì chủ đầu tư nước ngoài tham gia điều hành tùy theo mức vốn góp
của mình.
• Về tỷ lệ phân chia lợi nhuận: dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh,
lợi nhuận được phân chia dựa trên tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi
đã trừ đi các khoản phải đóng góp khác. Do vậy thu nhập của nhà đầu tư nước
ngoài thường không ổn định.
• Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường mang tính rủi ro cao, thời gian
thu hồi vốn lâu và khó thu hồi vốn hơn đầu tư gián tiếp do phần lớn vốn đầu
tư của nhà đầu tư nằm trực tiếp trong máy móc nhà xưởng tại nước sở tại.
8

×