Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Đánh giá thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển ở VIệt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 77 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƢỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2010”
TÊN CÔNG TRÌNH:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN (ODA)
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993 - 2009
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ






Trang 1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 3
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
(ODA) .............................................................................................................................................. 4
1. Khái quát nguồn vốn ODA: .................................................................................................. 4
1.1. Định nghĩa: .................................................................................................................... 4
1.2. Đặc điểm: ...................................................................................................................... 5
1.3. Nguồn gốc ra đời: .......................................................................................................... 8
1.4. Phân loại ODA: ............................................................................................................. 9
2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nước đang phát triển: ......................................... 10


2.1. Mục tiêu của nguồn vốn ODA: ................................................................................... 10
2.2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nước đang phát triển: .................................. 10
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG - SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA CỦA VIỆT
NAM TỪ 1993 ĐẾN 2009 ........................................................................................................... 14
1. Khái quát về nguồn vốn ODA tại Việt Nam từ 1993 đến 2009 ......................................... 14
1.1. Khả năng thu hút ODA của nền kinh tế Việt Nam: .................................................... 14
1.2. Tác động của ODA đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam từ 1993 đến
2009: 18
2. Thực trạng huy động - sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam: .......................................... 21
2.1. Giai đoạn 1993 – 2000: ............................................................................................... 21
2.2. Giai đoạn 2001 - 2009: ................................................................................................ 31
3. Ưu, nhược điểm của việc huy động – sử dụng vốn ODA ở Việt Nam:.............................. 46
3.1. Ưu điểm: ...................................................................................................................... 46
3.2. Nhược điểm: ................................................................................................................ 48
3.3. Những nguyên nhân chính : ........................................................................................ 50
3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình huy động – sử dụng nguồn vốn ODA ở
Việt Nam trong thời gian qua: ................................................................................................ 55
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG – SỬ DỤNG NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT
TRIỂN (ODA) HIỆU QUẢ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 ................................... 56
1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015: ........................... 56
1.1. Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015: ..... 56
1.2. Định hướng phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu: ........................................................ 56
1.3. Các tiêu chí cụ thể: ...................................................................................................... 58
Trang 2


2. Một số thách thức đặt ra cho Việt Nam: ............................................................................. 58
2.1. Nợ công tăng cao:........................................................................................................ 58
2.2. Lãi suất vay “thương mại": ......................................................................................... 59
2.3. Nhu cầu tăng trưởng ODA cho các dự án lớn : ........................................................... 59

3. Giải pháp huy động – sử dụng hiệu quả ODA ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015: .......... 60
3.1. Một số giải pháp trong huy động vốn ODA: ............................................................... 61
3.2. Một số giải pháp về việc tổ chức thực hiện dự án: ...................................................... 62
3.3. Một số giải pháp sử dụng ODA hiệu quả: ................................................................... 63
3.4. Một số giải pháp tăng tốc độ giải ngân ODA:............................................................. 63
KẾT LUẬN .................................................................................................................................. 73

Trang 3


LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước với mục tiêu phấn đấu đến
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã đi được
một chặng đường khá dài. Nền kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ tăng
trưởng nhanh, kiểm soát lạm phát, nhưng để duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về
vốn đầu tư là rất lớn. Mà nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tích luỹ, vốn huy động nội địa là hoàn toàn
không đủ mà phải có nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) nói riêng.
Thực tế tiếp nhận, sử dụng vốn và thực hiện các dự án ODA thời gian qua cho thấy ODA
thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với phát triển đất nước, ODA đã giúp chúng ta phát
triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội
tương đối hiện đại. Tuy vậy, để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020
chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho đầu tư phát triển,
trong đó ODA là một trong những nguồn vốn quan trọng.
Do đó, một câu hỏi được đặt ra là liệu chúng ta có thể huy động được nhiều hơn và sử dụng
hiệu quả hơn nguồn vốn ODA không? Có thể khẳng định ngay điều đó là hoàn toàn có thể. Vậy
những giải pháp nào cần được xúc tiến thực hiện để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ODA
là gì?
Đề tài nghiên cứu khoa học “ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN (ODA) Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1993 -

2009” sẽ giúp chúng ta hình dung và giải quyết những vấn đề đã được đặt ra.


Trang 4


CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
(ODA)
1. Khái quát nguồn vốn ODA:
1.1. Định nghĩa:
ODA là tên tiếng Anh viết tắt của “Official Development Assistance”, có nghĩa là Hỗ trợ
phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính thức.
Theo Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) ODA là “một giao dịch chính thức
được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang
phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không
hoàn lại chiếm ít nhất 25%”.
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ban hành kèm
theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ thì ODA được định nghĩa
như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác phát
triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài
trợ là Chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc
liên chính phủ”.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các nước phát triển
sang các nước đang và chậm phát triển. Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi các nước phát triển dành
1% GNP của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền vững về kinh tế và xã hội của các nước
đang phát triển.
Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại,
viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các
tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ chức tài chính quốc
tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.

Như vậy, một khoản tài trợ được coi là nguồn vốn ODA nếu hội đủ 3 điều kiện sau:
 Một là: Được các tổ chức chính thức hoặc đại diện của các tổ chức chính thức cung cấp.
Tổ chức chính thức bao gồm các Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi
Chính phủ hoặc Liên Hiệp Quốc hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
 Hai là: Mục tiêu chính của ODA là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao
phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: xoá đói, giảm
nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật như giao thông
vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, bảo vệ môi
Trang 5


trường; các vấn đề xã hội như tạo việc làm, phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ
nạn xã hội; cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý Nhà
nước, cải cách thể chế,…
 Ba là: Thành tố hỗ trợ (Grant element) phải đạt ít nhất 25%. Thành tố hỗ trợ còn được gọi
là yếu tố không hoàn lại là một chỉ số biểu hiện tính ưu đãi của ODA so với các khoản vay
thương mại theo điều kiện thị trường. Thành tố hỗ trợ càng cao càng thuận lợi cho nước
tiếp nhận. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên tổ hợp các yếu tố: lãi suất, thời gian ân hạn,
thời hạn cho vay, số lần trả nợ trong năm và tỷ lệ chiết khấu.
1.2. Đặc điểm:
 Thứ nhất, vốn ODA mang tính ƣu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả) và thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA
của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại (cho không), đây cũng
chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Viện trợ không hoàn lại được
xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi
suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát
triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát
triển có thể nhận được ODA là:

 Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có
GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của
ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng dài.
 Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính
sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận
ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng
của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư
vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo
từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các
nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều
kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các nước đang
Trang 6


phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã
hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA.
 Thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc.
ODA có thể ràng buộc (ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa
điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và
nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn
ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành
được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và
dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu
khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%.
Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các
quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song
song.

 Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát
triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân các nước
phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển
để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với
các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế,
chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được
kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu
như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, phòng chống
dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v… đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của
cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo.
 Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển
sử dụng ODA như một công cụ chính trị nhằm xác định vị thế và ảnh hưởng của mình
tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế
giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và
kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích
cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối phó với những suy thoái
nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài chính rất lớn cho các nước
Trang 7


Đông Nam Á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản,
Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp
và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng
trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng Yên và gắn với những dự án có
các công ty Nhật tham gia.
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là
một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài
trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho
phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng
những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền

lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Cần phát huy tính chủ động trong vận động ODA. Tức là, các dự án sử dụng vốn ODA
thể hiện nhu cầu của nước tiếp nhận chứ không phải là ý muốn của các nhà tài trợ. Thông
thường các nhà tài trợ xây dựng dự án viện trợ dựa trên cơ sở dự án tiền khả thi của các
nước đang phát triển. Nhưng điều này nhiều khi đặt các nước tiếp nhận trước tình thế khó
khăn, do dự án được các nhà tài trợ đưa ra không phù hợp với tình hình cụ thể của nước
tiếp nhận.
Để tránh tình trạng tiếp nhận những dự án không có hiệu quả hoặc hiệu quả không cao,
các nước đang phát triển cần đánh giá một cách khách quan hiệu quả của vốn ODA vay so
với các khoản vay thương mại thông thường thông qua chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần - NPV
và tỷ suất hoàn vốn nội bộ - IRR. Quan điểm nhất quán là chỉ thực hiện dự án nếu vốn
ODA đem lại hiệu quả cao hơn so với các nguồn vốn khác.
 Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ.
Do tính chất ưu đãi của vốn ODA, nên khi sử dụng người ta không thấy ngay được gánh
nặng nợ nần trong tương lai. Nguồn vốn ODA thường không được sử dụng trực tiếp cho
sản xuất, kinh doanh, trong khi đó việc trả nợ lại dựa chủ yếu vào kết quả của hoạt động
xuất khẩu. Chính vì thế, các nước sử dụng ODA kém hiệu quả có thể đạt sự tăng trưởng
nhất thời, nhưng sau một thời gian sẽ rơi vào cảnh nợ nần kéo dài. Hiện nay, theo đánh giá
của WB và IMF, trên thế giới có 41 quốc gia được liệt vào danh sách các nước nghèo mắc
nợ trầm trọng (HIPC). Nợ nước ngoài của 41 quốc gia này lớn đến mức hoặc là không thể
trả được hoặc là có thể trả được nhưng sẽ để lại kết cục hết sức bất lợi cho nền kinh tế. Một
Trang 8


trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình cảnh nợ nần như vậy đó là các nước tiếp
nhận không ý thức được ODA là nguồn vốn ưu đãi nhưng phải hoàn trả trong tương lai.
Chính nhận thức coi ODA là khoản viện trợ cho không dẫn đến tình trạng sử dụng lãng phí,
kém hiệu quả. Và, gánh nặng nợ nần của các khoản vay ngày càng đè lên vai các quốc gia
này. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn

vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
1.3. Nguồn gốc ra đời:
- Đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc cũng là thời điểm mở đầu cho một cuộc chiến mới
kéo dài gần nửa thế kỷ, đó là chiến tranh lạnh giữa phe Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ
nghĩa, mà đứng đầu là Liên Xô và Hoa Kỳ. Hai cường quốc này thực thi nhiều biện pháp,
đặc biệt là về kinh tế để củng cố hệ thống đồng minh của mình.
- Đối với Hoa Kỳ, nền kinh tế không những không bị tàn phá mà ngày càng giàu có nhờ
chiến tranh. Năm 1945, GNP của Hoa Kỳ là 213,5 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với 125,8 tỷ
USD của năm 1942 và chiếm 40% tổng sản phẩm toàn thế giới. Ở thái cực khác, các nước
đồng minh của Hoa Kỳ lại chịu tác động nặng nề của cuộc chiến tranh. Sự yếu kém về kinh
tế của các nước này khiến Hoa Kỳ lo ngại trước sự mở rộng nhanh chóng của phe Xã hội
chủ nghĩa. Để ngăn chặn sự phát triển đó, giải pháp quan trọng lúc bấy giờ là giúp các nước
tư bản sớm hồi phục kinh tế. Năm 1947, Hoa Kỳ triển khai kế hoạch Marshall, thông qua
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) để viện trợ cho các nước Tây Âu. Từ năm
1947 đến 1951, Hoa Kỳ viện trợ cho các nước Tây Âu tổng cộng 12 tỷ USD (tương đương
2,2% GNP của thế giới và 5,6% GNP của Hoa Kỳ lúc bấy giờ).
- Về phía mình, Liên Xô cũng sử dụng biện pháp trợ giúp kinh tế để củng cố và gia tăng số
lượng các nước gia nhập phe Xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần quốc tế vô sản, Liên Xô đã tài
trợ cho nhiều quốc gia trên thế giới, từ các nước ở châu Âu, châu Á, đến các nước châu Phi
và châu Mỹ La-tinh. Năm 1991, khi Liên Xô tan rã, tổng số tiền các nước thuộc phe Xã hội
chủ nghĩa còn nợ Liên Xô lên đến con số khổng lồ, quy đổi thành khoảng 120 tỷ USD.
- Viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Tây Âu và của Liên Xô cho các nước xã hội chủ nghĩa
được xem như là các khoản ODA đầu tiên. Mặc dù, mục tiêu chính của các khoản viện trợ
này là chính trị nhưng chúng cũng đã có tác dụng quan trọng giúp các nước tiếp nhận phát
triển kinh tế, xã hội. Trong những năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các nước
đang phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giàu đối với sự phát triển của các
nước đang phát triển, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thành lập Uỷ ban Hỗ
Trang 9



trợ phát triển (DAC). Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu, khuyến khích và điều phối viện trợ
của các nước OECD cho các nước đang và kém phát triển. Trong bản báo cáo đầu tiên của
mình, DAC đã sử dụng thuật ngữ “Offical Development Assistance”, với nghĩa là sự trợ
giúp tài chính có ưu đãi của các nước phát triển cho các nước đang phát triển.
- Kể từ khi ra đời ODA đã trải qua các giai đoạn phát triển sau: Trong những năm 1960
tổng khối lượng ODA tăng chậm đến những năm 1970 và 1980 viện trợ từ các nước thuộc
OECD vẫn tăng liên tục. Đến giữa thập niên 80 khối lượng viện trợ đạt mức gấp đôi đầu
thập niên 70. Cuối những năm 1980 đến những năm 1990 vẫn tăng nhưng với tỷ lệ thấp.
Năm 1991 viện trợ phát triển chính thức đã đạt đến con số đỉnh điểm là 69 tỷ USD theo giá
năm 1995. Năm 1996 các nước tài trợ OECD đã dành 55,114 tỷ USD cho viện trợ bằng
0,25% tổng GDP của các nước này cũng trong năm này tỷ lệ ODA/GNP của các nước DAC
chi là 0,25% so với năm 1995 viện trợ của OECD giảm 3,768 tỷ USD . Trong những năm
cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI ODA có xu hướng giảm nhẹ.
1.4. Phân loại ODA:
1.4.1. Theo điều kiện:
- ODA không ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại không kèm
theo những điều khoản ràng buộc liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch
vụ.
- ODA có ràng buộc: Là khoản ODA bằng vốn vay hoặc không hoàn lại có kèm theo các
điều kiện liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ từ một số nhà cung cấp
hoặc quốc gia nhất định do nhà tài trợ quyết định.
1.4.2. Theo hình thức:
- ODA không hoàn lại: Là hình thức ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho
nhà tài trợ.
- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là khoản vay với các điều kiện ưu đãi
về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” đạt ít
nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng
buộc.
- ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được
cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại có “yếu tố

không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các
khoản vay không ràng buộc.
Trang 10


1.4.3. Theo mục đích:
- Hỗ trợ cơ bản: Là loại ODA dành cho việc thực hiện nhiệm vụ chính của các chương
trình, dự án đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường sá, cầu,
cảng,…. Loại ODA này thường là các khoản vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại ODA được thực hiện nhằm chuyển giao tri thức, chuyển giao
công nghệ, phát triển năng lực, phát triển thể chế, nghiên cứu tiền đầu tư các chương trình
dự án, phát triển nguồn nhân lực,… Loại ODA này thường là ODA không hoàn lại.
1.4.4. Theo tính chất tài trợ:
- ODA song phương: Là loại ODA được Chính phủ một nước tài trợ trực tiếp cho Chính
phủ nước khác.
- ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên Chính phủ tài trợ
cho Chính phủ của một nước.
- ODA của các tổ chức phi Chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi Chính phủ cung
cấp.
2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nƣớc đang phát triển:
2.1. Mục tiêu của nguồn vốn ODA:
Mục tiêu của nguồn vốn ODA được hội nghị của Ủy ban hỗ trợ Phát triển (DAC) thuộc
Tổ chức hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) năm 1996 đề ra là:
- Giảm 1/2 tỷ lệ nghèo cùng cực trong giai đoạn từ năm 1990-2015
- Tất cả trẻ em đều được học tiểu học vào năm 2015
- Đạt được tiến bộ về bình đẳng nam nữ và nâng cao địa vị của phụ nữ thông qua việc xóa
bỏ bất bình đẳng nam nữ trong giáo dục tiểu học và trung học cho đến năm 2015
- Giảm 2/3 tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em trong giai đoạn 1990-2015
- Giảm 3/4 tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ trong giai đoạn 1990-2015
- Đảm bảo khả năng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe cho tất cả những ai có nhu cầu vào năm

2015
- Thực hiện các chiến lược quốc gia về phát triển bền vững vào năm 2005 nhằm ngăn chặn
những tổn thất về tài nguyên môi trường vào năm 2015.
2.2. Vai trò của nguồn vốn ODA đối với các nƣớc đang phát triển:
Từ những mục tiêu trên chúng ta có thể rút ra vai trò của nguồn vốn ODA đối với các
nước đang phát triển là:
Trang 11


- ODA giúp các nước đang phát triển xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói, giảm nghèo là một
trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương
thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của ODA. Nếu
được sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng 1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo
khổ và giảm 0,9% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Và, nếu như các nước giàu tăng thêm 10 tỷ
USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo.
- Đi kèm với ODA là phương thức quản lý và khoa học kỹ thuật tiên tiến, nó sẽ giúp các
nước tiếp nhận nâng cao trình độ quản lý cũng như áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá
trình cải tiến công cụ lao động, nâng cao năng suất lao động và chất lượng hàng hóa dịch
vụ. Như vậy ODA cũng góp phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, kích thích tiêu dùng, giải
quyết tình trạng ứ đọng vốn và ứ đọng sản phẩm, làm cho lưu thông hàng hóa mạnh lên,
thúc đẩy có hiệu quả hoạt động ở các lĩnh vực của nền kinh tế.
- ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng giúp các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát
triển, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn
cho vay dài thường là 10-30 năm, lãi suất thấp khoảng từ 0,25% đến 2%/năm. Chỉ có
nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy, Chính phủ các nước đang phát triển
mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá,
điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hoá. Những cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội được xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện
quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Theo tính toán của
các chuyên gia của WB, đối với các nước đang phát triển có thể chế và chính sách tốt, khi

nguồn vốn ODA tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng thêm 0,5%.
- ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển, nó còn
có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng
khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp khi tiếp nhận nguồn vốn
ODA có hiệu quả. Một khi đã có nguồn vốn ODA hỗ trợ, thì sự tiến bộ trong các lĩnh vực
hoạt động của nền kinh tế và ngay cả trong môi trường pháp lý vĩ mô, sẽ khiến các nhà
đầu tư nước ngoài tập trung đầu tư nhiều và mạnh mẽ hơn. Ở những quốc gia có cơ chế
quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm “hút” vốn đầu tư tư nhân theo tỷ lệ
xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước đang trong tiến trình cải cách thể
chế, nguồn vốn ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc
đổi mới của Chính phủ.
Trang 12


- Đối với các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực xã hội, y tế, giáo dục, xoá đói giảm
nghèo….góp phần nâng cao việc nâng cao sức khỏe, mức sống, trình độ dân trí…cho
người dân quốc gia tiếp nhận ODA, đó cũng là yếu tố làm tăng năng lực cạnh của quốc
gia. Đặc biệt, nguồn vốn ODA có hiệu quả thiết thực và rất cụ thể đối với việc giải quyết
những bế tắc về cuộc sống kinh tế đối với người dân ở vùng sâu vùng xa, vùng núi, hải
đảo, những địa phương yếu kém về phát triển kinh tế và thấp kém về đời sống kinh tế.
Người dân có điều kiện cải thiện sức khỏe, học hành và nâng cao trình độ văn hóa, từ đó
nhận thức xã hội tốt hơn và có ý thức với việc xây dựng cộng đồng và xã hội. Đây mới
chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với các nước đang phát triển.
- Tăng nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế, nhất là khi nguồn vốn này được
tập trung cho các vùng trọng điểm, các lĩnh vực có tính chất then chốt thì sẽ tạo lực đẩy
đối với các vùng và các lĩnh vực yếu, giúp các nước kém phát triển rút ngắn thời gian tiến
kịp các nước phát triển.
- Đối với những chương trình dự án thuộc lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận
tải, thông tin liên lạc… sẽ tạo cho quốc gia tiếp nhận có một nền tảng vững vàng cho sự
phát triển kinh tế. Ở những quốc gia kém phát triển thì nguồn vốn ODA là điều kiện quan

trọng để xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá giao thông, cải tạo những khu nhà ổ chuột,
chỉnh trang đô thị, thực hiện những dự án quy hoạch đô thị và giải quyết nhà ở cho người
nghèo, nhờ đó đời sống xã hội và hoạt động kinh tế có cơ sở đi lên.
- ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương
trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính
sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế, phát triển thể chế, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động bộ máy công quyền. Giúp các quốc gia tiếp nhận ODA có một môi
trường đầu tư lành mạnh và hấp dẫn hơn. ODA với các điều kiện kèm theo làm cho các
quốc gia tiếp nhận viện trợ phải điều chỉnh, cải cách những lề lối và quy định lạc hậu,
không phù hợp với xu hướng tiến bộ của thế giới. Nhờ đó tạo ra môi trường pháp lý thông
thoáng hơn, hòa nhập dần vào xu hướng chung của thế giới.
- ODA giúp các nước đang phát triển phát triển nguồn nhân lực. Một lượng ODA lớn được
các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật
chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, một lượng
Trang 13


ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ y tế, đảm bảo sức khoẻ cộng
đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đang phát triển đã gia tăng đáng
kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
- ODA cũng góp phần giải quyết phần nào nợ nước ngoài của quốc gia thông qua việc hỗ
trợ cán cân thanh toán. Đối với những nước nghèo thì nợ nần là vấn đề nan giải, làm ách
tắc các mối quan hệ trên thế giới, nguồn vốn ODA chảy vào sẽ góp phần giải tỏa những
ách tắc đó.
- ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của các
nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, đa phần các nước đang phát triển rơi vào tình
trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc
gia này. ODA, đặc biệt là các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá
cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.


Trang 14


CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG - SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA CỦA VIỆT
NAM TỪ 1993 ĐẾN 2009
1. Khái quát về nguồn vốn ODA tại Việt Nam từ 1993 đến 2009
1.1. Khả năng thu hút ODA của nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất, nước ta được xếp vào nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu thế
giới với một nền kinh tế phát triển ổn định. Đặc biệt thời kỳ khủng hoảng kinh tế xảy ra, Việt
Nam càng chứng tỏ là một nền kinh tế tăng trưởng vững mạnh, chống chọi tốt điều kiện khó
khăn, thử thách. Điều này có ý nghĩa quan trọng tạo được kỳ vọng cho các nhà tài trợ ODA.
Vì nói chung nhà tài trợ quốc tế nào cũng muốn quốc gia nhận đầu tư có đủ khả năng quản lý
và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA.
Đặc điểm này cùng vị trí địa lý đặc biệt, Việt Nam nằm trong khu vực giao thương giữa các
Châu lục nói chung và các nền kinh tế lớn trên thế giới nói riêng (ngã ba của Thế giới). Có thể
nói rằng, với vị trí địa lý đặc biệt như vậy Việt Nam trở thành mối quan tâm của các nước lớn
trên thế giới trong chính sách ngoại giao nói chung và việc đầu tư trực tiếp FDI, tài trợ ODA
nói riêng.
Thứ hai, về cơ bản nước ta vẫn còn là một nước nghèo, GDP bình quân đầu người thấp.
Đây là một đặc điểm rất thuận lợi vì một điều kiện quan trọng cho việc tài trợ ODA của các
nước DAC là mức thu nhập bình quân thấp. Mục tiêu chính của ODA là phát triển kinh tế,
nâng cao phúc lợi xã hội, xoá đói giảm nghèo... Đây cũng là lý do tại sao một phần không nhỏ
nguồn vốn ODA tập trung vào xoá đói giảm nghèo vì một trong những cam kết quan trọng
thông qua hỗ trợ phát triển chính thức là giảm một nửa tỷ lệ những người đang sống trong
cảnh nghèo khổ cùng cực vào năm 2015.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng kinh tế còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều nơi vẫn còn tình trạng thiếu điện, thiếu
nước sạch, hệ thống giao thông xuống cấp nghiêm trọng hoặc chưa được đầu tư phát triển. Do
đó, việc thu hút ODA để đầu tư phát triển hạ tầng mà cụ thể là phát triển ngành giao thông vận

tải, chủ yếu tập trung cho đường bộ, đường biển và giao thông nông thôn là rất quan trọng và
luôn được ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ ta. Vì với một đất nước
kém phát triển nói chung, khả năng tích luỹ của nền kinh tế còn nhỏ bé thì việc phát triển cơ
sở hạ tầng mà không có sự giúp đỡ của các nền kinh tế lớn trên thế giới là một điều khả dĩ
không thể thực hiện được dễ dàng. Vay nợ lãi suất thấp nói chung và tài trợ không hoàn lại nói
Trang 15


riêng là cách duy nhất có thể đưa những nền kinh tế yếu kém thực hiện được những mục tiêu
Thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc trong đó có phát triển cơ sở hạ tầng.
Thứ tư, dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ lớn, trong khi đó nông
nghiệp còn lạc hậu và đòi hỏi nhiều nhân công nhưng phần đóng góp của nông nghiệp vào
GDP chưa xứng tầm. Thêm vào đó phần lớn lực lượng lao động Việt Nam là lao động phổ
thông, lao động chất lượng thấp. Công nghiệp, dịch vụ tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh
tế nhưng vẫn còn thấp, thiếu công nghệ mới, công nghệ cao, công nhân lành nghề, lao động tri
thức vẫn là một tầng lớp nhỏ bé trong tổng lao động xã hội.
Điều đáng lưu ý là tác phong làm việc của cán bộ Nhà nước nói chung còn chịu ảnh hưởng
bởi tác phong nông nghiệp và chế độ bao cấp trước đây nên hiệu quả thấp, bệnh thành tích vẫn
còn là “một căn bệnh mãn tính” dai dẳng của nền kinh tế Việt Nam, điều này nhiều khi gây
khó khăn cho phía đối tác cung cấp ODA. Do đó, ODA trở thành một nguồn vốn còn có tác
động đến quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế không những về mặt hình thức mà còn
theo chiều sâu của nó.
Thứ năm, cơ sở hạ tầng xã hội của Việt Nam cần đòi hỏi một sự đầu tư đúng mức. Việt
Nam có truyền thống hiếu học, coi giáo dục là quốc sách nhưng sự đầu tư chưa toàn diện,
chưa đủ liều lượng và những yếu kém còn tồn tại đã “kéo lùi” nền giáo dục Việt Nam thua xa
các nước trong khu vực chứ chưa nói đến các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Vì vậy mà
việc huy động ODA cho cơ sở hạ tầng xã hội mà cụ thể là giáo dục và đào tạo phải đặt lên
mục tiêu ưu tiên thực hiện nhằm góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo
dục và đào tạo, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học đối
với các dự án giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào tạo nghề...

Thứ sáu, Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các mục tiêu phát triển con người, phát triển tầm
vóc người Việt Nam, cải thiện điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt, chăm sóc sức khoẻ người
dân, đặc biệt là các chương trình như: Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm
chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương
trình xóa đói giảm nghèo... Bên cạnh đó các chương trình xã hội mang ý nghĩa nhân đạo góp
phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong các lĩnh vực xã hội đòi hỏi có sự tham
gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư, như phòng chống đại dịch HIV/AIDS, phòng chống ma
túy... thì với khả năng của một nền kinh tế yếu kém là không khả thi mà cần có nguồn lực lớn
từ bên ngoài mà ODA là một “địa chỉ” đáng tin cậy.
Trang 16


Thứ bảy, Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới cần thiết phải phát triển thể chế trên nhiều
lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính... Nhiều cơ quan
cần tăng cường năng lực, đào tạo và tái đào tạo cán bộ về khoa học, công nghệ và kinh tế. Tiếp
theo đó là sự nghiệp phát triển của Chính phủ trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo
vệ môi trường, quản lý Nhà nước, pháp luật. Tất cả các vấn đề này đòi hỏi nguồn vốn đầu tư
khổng lồ cũng như những kinh nghiệm quý báu từ các nước phát triển, các nền kinh tế mới
nổi, cũng như những quốc gia cải cách kinh tế thành công.
Trong các ngành các lĩnh vực công nghệ, Việt Nam còn thiếu đội ngũ chuyên gia giàu kinh
nghiệp, từ xây dựng, công nghệ thông tin, đến y tế, phát triển vật nuôi, cây trồng đều cần sự hỗ
trợ hợp tác phát triển từ bên ngoài. Nhưng việc đầu tư mua công nghệ, thuê chuyên gia nước
ngoài là rất tốn kém đối với các nước đang phát triển. Vì vậy mà các dự án viện trợ không
hoàn lại, các dự án hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực này là một trong những điều kiện cụ thể
để Việt Nam kêu gọi nguồn vốn ODA đầu tư vào trong nước.
Thứ tám, từ khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại Quốc tế WTO, rồi
tiếp theo là đảm nhận những vai trò thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên
Hiệp Quốc, cũng như sự thành công trong vai trò đăng cai tổ chức các sự kiện thể thao, văn
hoá, cũng như các Diễn đàn Kinh tế - Xã hội mang tầm khu vực và quốc tế, Việt Nam đã thật
sự chứng tỏ được vị thế lớn, đặc trưng riêng của mình, bước lên vũ đài kinh tế cũng như chính

trị của thế giới. Đây là những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh một
đất nước Việt Nam thân thiện, một điểm đến của du lịch, một điểm đến của đầu tư trực tiếp
FDI, đầu tư gián tiếp FPI, cũng như thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn tài trợ phát triển chính
thức ODA từ những siêu cường kinh tế thế giới.
Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Nền kinh tế Việt Nam
đang có những chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc, nâng cao vị thế, bước vào một giai đoạn mới
- hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, sẵn sàng đón nhận những cơ hội và thách thức
mới. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn
cũng như phần nào tác động đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA đối với Việt
Nam.
Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy tài trợ ODA, nhất là ODA từ các nhà tài trợ song phương và các
tổ chức phi chính phủ. Thông qua các nguyên tắc và định chế của WTO về quan hệ thương
mại, mậu dịch, đầu tư... Việt Nam có điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều
đối tác quốc tế hơn và ngược lại, nhiều đối tác tìm thấy được lợi ích kinh tế trong quan hệ với
Trang 17


Việt Nam. Khi có nhiều quốc gia quan hệ kinh tế với nước ta và quan hệ kinh tế ngày càng
phụ thuộc lẫn nhau, số lượng doanh nghiệp có quan hệ kinh tế song phương ngày càng nhiều,
quy mô ngày càng lớn sẽ giúp cho các tài trợ ODA cho Việt Nam sẽ tăng lên. Bởi lẽ, ODA có
đặc điểm là thông qua tài trợ ODA, nước tài trợ muốn gia tăng ảnh hưởng của mình đến nước
nhận tài trợ, qua đó để nhận được các lợi ích về kinh tế, chính trị. Mặt khác, vì lợi ích kinh tế,
trong một bối cảnh nhất định các doanh nghiệp có lợi ích kinh tế tại Việt Nam có thể thông
qua đại diện của họ trong chính quyền nước mình thúc đẩy tài trợ cho Việt Nam. Ngày nay các
doanh nghiệp thường quan tâm đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội tại nơi họ kinh doanh
thông qua tài trợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án tài
trợ phát triển, qua đó cũng giúp tăng cường ODA.
Các nước tài trợ ODA thường có chính sách trợ giúp, ưu đãi doanh nghiệp của nước tài trợ
thông qua các ràng buộc về cung cấp ODA trong việc thuê tư vấn, chọn nhà thầu... khi có ngày
càng nhiều doanh nghiệp của nước tài trợ có quan hệ kinh tế với nước ta thì mức độ cạnh tranh

giữa các doanh nghiệp của các nước tài trợ sẽ cao hơn, qua đó có cơ hội nâng cao hiệu quả sử
dụng ODA.
Hơn thế nữa, việc thực hiện các cam kết gia nhập WTO nhất là các cam kết đa phương sẽ
thúc đẩy cải cách hành chính, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế
hơn. Điều này góp phần giúp phát triển và hoàn thiện chính sách và thể chế quản lý và sử dụng
ODA, nhất là hài hoà hoá quy định và thủ tục quản lý và thực hiện dự án ODA với các nhà tài
trợ. Theo hướng này, việc rà soát hệ thống pháp luật để điều chỉnh cho phù hợp với các cam
kết quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách hành chính cũng như định hướng hoàn thiện luật pháp phù
hợp với thông lệ quốc tế về tính minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và hợp lý. Việc hoàn
thiện khung pháp lý cho hoạt động quản lý nguồn vốn ODA theo hướng tăng cường phân cấp
và hài hoà với các khung quản lý các nguồn vốn công đã được thúc đẩy một bước thông qua
việc ban hành Nghị định 131/2006/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn Nghị định này về quản
lý và sử dụng vốn ODA thời gian vừa qua là một minh chứng. Điều này lại một lần nữa tạo ra
môi trường thuận lợi cho nguồn vốn hỗ trợ ODA gia tăng tại Việt Nam.
Tuy vẫn còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung nước ta đang có những điều kiện vô cùng
thuận lợi cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Chúng ta cần phát huy những điểm
thuận lợi và giảm thiểu những mặt hạn chế để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả
nguồn vốn ODA phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong trước mắt cũng như các
mục tiêu lâu dài.
Trang 18


1.2. Tác động của ODA đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam từ 1993 đến
2009:
Thực hiện công cuộc Đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo từ năm 1986, trong những
năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã không những thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng và kéo dài mà còn tạo ra những bước tiến vượt bậc với việc cải thiện tình hình
chính trị đối ngoại, xử lý các khoản nợ nước ngoài thông qua Câu lạc bộ chủ nợ Pa-ri, kinh tế
trong nước đạt mức tăng trưởng cao, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đây là bối
cảnh dẫn đến cơ hội để Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế nối lại quan hệ hợp tác phát

triển. Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam được tổ chức tại Pa-ri dưới sự chủ trì
của Ngân hàng Thế giới (WB) vào tháng 11 năm 1993 là điểm khởi đầu cho quá trình thu hút
và sử dụng ODA ở Việt Nam.
Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế và tiến
bộ xã hội vượt bậc, được dư luận trong nước và quốc tế thừa nhận rộng rãi: Nền kinh tế tăng
trưởng liên tục với tốc độ bình quân 7,5%/năm, mức đói nghèo giảm từ trên 50% vào đầu
những năm 90 xuống còn trên 10% vào năm 2008, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện
đánh dấu bằng việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Việt
Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC và nhiều Diễn đàn, tổ chức quốc tế khác,...
Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thời gian qua có phần đóng góp quan trọng của
viện trợ phát triển như một phần trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh
thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã
đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho
từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm
2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thu
hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. 5 lĩnh vực ưu tiên thu
hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản
kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số
lĩnh vực khác).
Trang 19


- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng
cao năng lực nghiên cứu và triển khai.

Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong thời gian qua là
phù hợp với những định hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA nêu trên.
Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết
hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2009
đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm
nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng
đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông
nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và
nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác,.... đã góp phần
hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công
trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Năng lƣợng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký
trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy
nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn, cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối
điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành
phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn
lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân
trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển
nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm.
Giao thông vận tải và Bƣu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất với
tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-2009. Nhờ nguồn vốn này,
Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt,
đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức
quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều
có các hệ thống cấp nước sinh hoạt được tài trợ bằng nguồn vốn ODA. Các thành phố lớn như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,... hiện đang triển khai thực hiện nhiều
Trang 20



dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội ô, thoát
nước và xử lý nước thải, chất thải rắn,…
Y tế, Giáo dục và đào tạo, Môi trƣờng, Khoa học và kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên
thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đã ký đạt tổng số vốn
khoảng 4,3 tỷ USD.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả
các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao
đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo
dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào
tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý.
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58% trong tổng
vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho
công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số
bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở
sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia
đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ
trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; các chương trình và
dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,...
Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách thông qua các
khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB, ADB, IMF và một số nhà
tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền
tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,..
Nhiều tỉnh, thành phố nhận đƣợc sự hỗ trợ quan trọng của ODA Trong hoàn cảnh đa
phần các địa phương thu không đủ chi, vốn ODA đã góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội
và xóa đói, giảm nghèo, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ (cấp nước, đường giao
thông, trường học, trạm y tế, lưới điện phân phối, điện thoại nông thôn,...) và phát triển nông

nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, nhất là các tỉnh nghèo, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.

Trang 21


2. Thực trạng huy động - sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam:
2.1. Giai đoạn 1993 – 2000:
2.1.1. Chiến lƣợc huy động ODA:
ODA với những ưu điểm của nó như quy mô lớn, lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ
1-2%), thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn (25-40 năm mới phải trả và thời gian
ân hạn kéo dài từ 8 đến 10 năm), đặc biệt là trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện
trợ không hoàn lại. Nhận thức được điều đó, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng và quan
tâm đến việc huy động các nguồn ODA.
Đầu tiên, Chính phủ đã tạo ra một khung pháp lý cho việc khai thác và sử dụng nguồn
vốn ODA để tạo niềm tin đối với các nhà tài trợ nhằm duy trì nguồn vốn ODA ổn định. Cụ
thể, Chính phủ đã ban hành một số văn bản trong giai đoạn này như sau: nghị định số
58/CP ngày 30/8/1993 về quản lý vay và trả nợ nước ngoài, nghị định số 20/CP ngày
20/4/1994 về quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn
và thực hiện yêu cầu đổi mới trong giai đoạn 1997 – 1999, Chính phủ ban hành nghị định
87/1997/NĐ-CP ngày 5/8/1997 thay thế nghị định 20/CP và nghị định 90/1998/NĐCP ngày
7/1/1988 thay thế cho nghị định 58/CP về quản lý vay và trả nợ nước ngoài đã góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các Cơ quan của
Chính phủ, các Bộ, Ngành, Địa phương và các tổ chức kinh tế trong việc quản lý, sử dụng
vốn vay nước ngoài.
Đồng thời, Việt Nam cũng đã chủ động tìm kiếm huy động các nguồn tài trợ ODA, tăng
cường, mở rộng quan hệ với các quốc gia, các tổ chức quốc tế, chủ động đưa ra những khó
khăn, những lĩnh vực cần được hỗ trợ với các nhà tài trợ và đưa ra những cam kết trong
việc quản lý và sử dụng vốn.
2.1.2. Tình hình huy động ODA:

Với những thành quả trong hơn 10 năm cải cách kinh tế (1986 -2000), Việt Nam đã để
lại những dấu ấn tốt đẹp trong lòng bạn bè quốc tế, từ đó đã giúp cho mức cam kết viện trợ
tăng lên đáng kể. Chúng ta đã tạo được lòng tin và xây dựng được những mối quan hệ tốt
đẹp với các nước và các tổ chức quốc tế.
Tính đến năm 2000, sau 8 lần tổ chức Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam, tổng
số vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết là:

Trang 22



Bảng 2.1: Khối lƣợng vốn ODA cam kết giai đoạn 1993 - 2000
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng
số
Cam kết ODA
(tỷ USD)
1,81 1,94 2,26 2,43 2,40 2,20* 2,10** 2,4 17,54
Tốc độ tăng (%) 7,18 16,49 7,52 -1,23 -8,33 -4,55 14,29
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
(*) Chưa kể 0,5 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế.
(**) Chưa kể 0,7 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế.
Qua bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy tổng vốn ODA tài trợ cho Việt Nam liên tục
tăng qua các năm 1993-1996, từ 1,81 tỷ USD năm 1993 lên 2,43 tỷ USD năm 1996, tăng
34,25% so với năm 1993. Đây là khoảng thời gian nước ta đang trong quá trình cải cách
nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Khối lượng vốn ODA lớn thể hiện sự
quan tâm và tin tưởng của cộng đồng các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Nhưng từ năm
1997 đến 1999 đã có sự sụt giảm do lúc này nền kinh tế thế giới đang rơi vào cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á 1997. Nhưng tổng số vốn giảm hàng năm không vượt 10% thể hiện
sự nỗ lực và cố gắng của các nhà tài trợ dù tình hình kinh tế của nước bạn cũng đang trong

giai đoạn khó khăn.
2.1.3. Tình hình sử dụng ODA:
Nguồn vốn ODA đã có mặt ở Việt Nam từ rất lâu, nhưng nó đã bị gián đoạn trong thời
gian Liên Xô sụp đổ. Năm 1993 được lấy làm mốc Việt Nam tiếp nhận nguồn vốn này sau
khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ quốc tế với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
thế giới (WB), và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Cụ thể, nguồn vốn ODA tiếp nhận
và giải ngân qua các năm như sau:
Bảng 2.2: Giá trị vốn ODA cam kết và thực hiện giai đoạn 1993 - 2000
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số
Vốn cam kết 1,81 1,94 2,26 2,43 2,40 2,20 2,10 2,4 17,54
Vốn thực hiện 0,41 0,72 0,74 0,90 1,00 1,24 1,35 1,65 8,01
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
Trang 23


Trong các nhà tài trợ nguồn vốn ODA cho Việt Nam thì ba nhà tài trợ lớn nhất là Nhật
Bản, Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
Biểu đồ 2.1: Nhóm 10 nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam năm 2000
Đơn vị tính: triệu USD

(Nguồn: UNDP ODA Survey)
Nguồn vốn ODA đã được sử dụng để tập trung vào hỗ trợ các lĩnh vực kinh tế, xã hội ưu
tiên của Chính phủ, cụ thể như trong bảng sau:
Biểu đồ 2.2: Nhóm 10 lĩnh vực nhận đƣợc đầu tƣ nhiều nhất trong năm 2000
Đơn vị tính: triệu USD

(Nguồn: UNDP ODA Survey)
2.1.4. Đánh giá chung về tình hình giải ngân ODA:
21

32
34
39
52
53
58
139
226
870
0 200 400 600 800 1000
Germany
Australia
Netherlands
Sweden
UN
Denmark
France
WB
ADB
Japan
Nhóm 10 nhà tài trợ lớn nhất năm 2000
Trang 24


Trong giai đoạn 1993 đến năm 2000, tổng số vốn ODA đã được giải ngân là 8,01 tỷ USD,
đạt được 45,9% tổng số vốn ODA đã cam kết của các nhà tài trợ. Điều này cho thấy vẫn còn
một khối lượng lớn nguồn vốn ODA chưa được giải ngân. Đây là một sự lãng phí khi trong
giai đoạn này nước ta vẫn cần rất nhiều vốn để phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước. Đồng thời, điều này sẽ làm hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn này và
làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ đối với Việt Nam.

Bảng 2.3: Giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993 - 2000
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số
Vốn cam kết 1,81 1,94 2,26 2,43 2,40 2,20 2,10 2,4 17,54
Vốn thực hiện 0,41 0,72 0,74 0,90 1,00 1,24 1,35 1,65 8,01
Tỷ trọng giải ngân
(%)
22,65 37,11 32,74 37,04 41,67 56,36 64,29 68,75
Tốc độ tăng (%) - 75,61 2,78 21,62 11,11 24 8,87 22,22
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
Nhìn chung qua các năm trong giai đoạn này, giá trị tuyệt đối của các khoản giải ngân tăng
đều qua các năm. Điều đó chứng tỏ nỗ lực của Việt Nam về mọi mặt, từ tiếp cận, phối hợp với
các nhà tài trợ cho đến việc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng để có thể sử dụng nguồn
vốn này với hiệu quả cao nhất.
Nhưng nếu xét về tỉ trọng các khoản giải ngân so với vốn cam kết còn thấp. Xét cho cả giai
đoạn 1993-2000 thì con số này là 45,9%, điều này cho thấy nước ta trong giai đoạn này đã quá
tập trung cho việc huy động các nguồn vốn nước nhưng vẫn chưa có sự quan tâm đầy đủ đến
quá trình thực hiện và sử dụng nguồn vốn này cho hiệu quả. Con số này quá thấp đã đặt ra
cảnh báo đối với Chính phủ ta trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, mức độ giải ngân còn có sự khác biệt giữa các loại hình dự án, các nhà tài trợ.
Nhìn chung, các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường đạt được mức giải ngân đúng theo kế hoạch,
thậm chí có dự án vượt kế hoạch. Nhưng những dự án này thường có mức chi phí chuyên gia
cao, và chi phí này thường nằm ngoài Việt Nam.
Các dự án xây dựng cơ bản và giải ngân nhanh của WB và ADB có mức độ giải ngân khá.
Các dự án của WB đạt mức giải ngân năm 1999 là 24,7% trên tổng giá trị các Hiệp định đã ký
kết. Đối với ADB, các dự án có mức giải ngân cho toàn bộ giai đoạn vào khoảng 15%, gần sát
với mức bình quân của ADB nhưng thấp hơn một số nước trong khu vực. Trong khi đó, các dự

×