Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Câu chuyện thành công hay tình trạng lưỡng thế thất thường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.86 KB, 30 trang )


ĐẠI HỌC HARVARD

Chương trình Việt Nam ĐT: 617-495-1134
TRUNG TÂM DOANH NGHIỆP VÀ CHÍNH PHỦ Fax: 617-496-5245
79 John F. Kennedy Street, Cambridge, MA 02138













Nền kinh tế Việt Nam: Câu chuyện thành công
hay tình trạng lưỡng thể bất thường?
Một phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ






David O. Dapice








Chuẩn bị cho Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
và Ban Nghiên cúu của Thủ tướng Chính phủ








Tháng 5 năm 2003


2
Một phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ
1

David Dapice, Giáo sư Đại học Tufts và Học giả Cao cấp tại Chương trình Việt Nam, Trường Kennedy.

Bối cảnh


Nhiều người đã ca ngợi Việt Nam là một thành công. Đại diện trước đây của Ngân hàng Thế
giới tại Việt Nam, cùng với Giáo sư Joseph Stiglitz và nhiều quan chức tại Hà Nội đã nêu
nhiều chỉ số phản ánh sự thành công: tốc độ tăng trưởng theo kế hoạch là 7%, tình hình xuất

khẩu lành mạnh, có những tiến bộ về giảm nghèo, các chỉ số xã hội được cải thiện và lạm phát
thấp. Việt Nam hiện là nước nhận vốn vay lớn thứ hai của Ngân hàng Thế giới – một dấu hiệu
cho thấy Việt Nam có cơ chế quản lý tốt và các triển vọng khả quan. Quả là trong 4 tháng đầu
của năm 2003, xuất khẩu đã tăng 38% so với cùng kỳ năm trước! Số lượng khách du lịch
nước ngoài gần đạt tới con số 3 triệu và Việt Nam đang có nhiều thuận lợi do có ít rủi ro xảy
ra khủng bố và do Hiệp định Thương mại Song phương với Hoa Kỳ (BTA). (Mặc dù cá da
trơn phải chịu mức thuế bảo hộ, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng từ 1 tỷ USD
năm 2001 lên 2,4 tỷ USD năm 2002). Việt Nam dường như đang tránh được những tác động
lâu dài của dịch bệnh SARS. Việt Nam có thể là một trong số những nền kinh tế “bình
thường” có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong năm 2003. Chắc chắn rằng đó là những
thành công.

Một số người thì lại có thái độ thận trọng và lập luận rằng mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đã
tăng trưởng nhanh, vẫn có một số xu hướng đáng lo ngại. Dòng vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài (FDI) chảy vào hiện chỉ ở mức khiêm tốn so với thập niên 90 cũng như so với Trung
Quốc. Trong bảng xếp hạng về mức độ tham nhũng cũng như nhiều xếp hạng quốc tế khác, vị
trí của Việt Nam không được tốt. Vốn đầu tư cần có để tạo ra 1% tăng trưởng GDP đã tăng
lên nhiều - điều này cho thấy việc phân bổ đầu tư còn rất thiếu hiệu quả. Những cải cách tài
chính và cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) còn ỳ ạch. Những chuẩn bị cho việc tham
gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì chựng lại; việc chậm trễ gia nhập tổ chức này sẽ
làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Những tiến bộ về công nghệ thông tin và giáo dục
thua xa Trung Quốc. Sự chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn là rất lớn và lại
đang tăng, từ đó có thể tạo ra tình trạng di dân lớn vào các thành phố vốn không đủ cơ sở hạ
tầng để tiếp nhận số dân cư mới này. Chắc chắn đây là những lý do để người ta lo ngại.

Một cách làm phổ biến trong kinh doanh là tiến hành phân tích “SWOT.” Đó là xem xét Điểm
mạnh (S
trengths), Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Nguy cơ (Threats) của
một doanh nghiệp. Bài viết sẽ áp dụng phương pháp SWOT ở mức độ sơ khởi để phân tích
nền kinh tế Việt Nam. Trước khi tiến hành phân tích, xin được mở rộng chủ đề một chút để đề

cập tới thuật ngữ “lưỡng thể” (dualism).


1
Lời cám ơn: Tác giả xin cám ơn Nhóm Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ và Cố vấn Cao cấp trong Nhóm là
ông Lưu Bích Hồ; xin cám ơn UNDP và ông Trưởng Đại diện UNDP Jordan Ryan, Quỹ châu Á và ông Trưởng
Đại diện Jonathan Stromseth về những giúp đỡ tài chính và những đóng góp ý tưởng trong quá trình tác giả viết
tài liệu này. Phần về Đà Nẵng là do Nguyễn Xuân Thành viết và Phạm Vũ Lửa Hạ tóm tắt. Nguyễn Tuấn Anh
và Phạm Vũ Lửa Hạ đã giúp phân tích các kiểu hình phát triển ở tỉnh và vùng. Trương Sĩ Ánh cung cấp thông
tin và phân tích về tình hình công nghệ thông tin ở Việt Nam. Bốn đồng nghiệp Việt Nam này của tôi là những
cán bộ giảng dạy và làm việc trong Trường Fulbright tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tác giả xin chịu
trách nhiệm về tất cả những sai sót trong tài liệu.
Nền kinh tế Việt Nam: Câu chuyện thành công hay tình trạng lưỡng thể bất thường?


3
Sự lưỡng thể


Tiêu đề của tài liệu này có dùng chữ “lưỡng thể”. Thuật ngữ này bắt nguồn từ những lý thuyết
về phát triển kinh tế. Đây là khái niệm nói về một khu vực “truyền thống”, ví dụ như khu vực
nông nghiệp, sử dụng nhiều lao động nhưng chỉ đạt mức thu nhập trung bình, và đặc biệt là
thu nhập biên, rất thấp
2
. Điều này có nghĩa là lương thấp và không có đủ công việc cho cả
năm. Người ta nói rằng khu vực này có triển vọng tăng trưởng hạn chế. Bên cạnh đó là một
khu vực “hiện đại”, ví dụ như khu vực công nghiệp hay các ngành dịch vụ cao cấp. Đây là
khu vực có năng suất lao động và mức lương cao hơn, triển vọng tăng trưởng và công nghệ
tốt hơn. Khu vực này tạo ra lợi nhuận, tái đầu tư lợi nhuận, thu hút nhiều lao động từ khu vực
truyền thống, vì vậy làm gia tăng mức lương và năng suất. Mô hình có hai khu vực như vậy là

mô hình do Athur Lewis đưa ra và được phát triển thêm bởi các nhà kinh tế sau đó. Mô hình
là sự mô tả cổ điển về con đường phát triển của một nền kinh tế. Lực lượng lao động sẽ
chuyển từ khu vực có năng suất lao động và mức tăng trưởng thấp sang khu vực có năng suất
lao động và mức tăng trưởng cao - đó cũng là khu vực sử dụng hiệu quả công nghệ để tạo ra
lợi nhuận dùng cho đầu tư tiếp theo.


Những điểm mạnh của kinh tế Việt Nam


Việt Nam đã có một thập kỷ rất thành công vào những năm 90: tăng trưởng rất nhanh trong
giai đoạn 1990-1997 và tránh được những hậu quả tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng một vài
năm sau đó. Trong thời gian gần đây, sức mạnh kinh tế Việt Nam không gây ấn tượng như
trong thập kỷ trước nhưng cũng có những điểm mạnh nổi bật.

1. Tốc độ tăng trưởng GDP: trong giai đoạn 1998-2002, Ngân hàng châu Á (ADB) ước
tính rằng Việt Nam đạt mức tăng trưởng khoảng 5,5% mỗi năm, tức là bằng Ân Độ, và
chậm hơn nhiều so với Trung Quốc và Băng-la-đét. (Theo số liệu chính thức thì mức
tăng trưởng là 6%; IMF ước tính mức thấp hơn 5%). Dự tính là tốc độ tăng trưởng đạt
6-7% trong năm 2003, tuy nhiên cũng còn những rủi ro của kinh tế thế giới và dịch
bệnh SARS.

2. Xuất khẩu: điểm sáng là xuất khẩu đã tăng từ 9,1 tỷ USD năm 1997 lên 16,5 tỷ USD
năm 2002, tức là ở mức 12%/năm. Đây là mức tăng cao hơn nhiều quốc gia khác và
gần bằng Trung Quốc.

3. Công nghiệp chế biến: Công nghiệp chế biến cũng đạt mức tăng trưởng lành mạnh,
trung bình là 10%/năm trong giai đoạn 1998-2002 tính theo GDP giá cố định. Tổng
sản lượng công nghiệp còn tăng nhanh hơn, đạt mức trên 14%/năm từ 1988-2002.


4. Ổn định kinh tế vĩ mô: lạm phát thấp và thâm hụt ngân sách đã được kiềm chế xuống
mức chấp nhận được. Nợ xấu theo báo cáo ở các ngân hàng đã giảm xuống tới mức có
thể quản lý được - dưới 10% tổng dư nợ. Nợ nước ngoài cũng ở mức chấp nhận được.


2
Nói cho chính xác thì đó là tình trạng mà việc tăng thêm hay bớt đi vài phần trăm của lực lượng lao động
không làm sản lượng thay đổi nhiều.


4
5. Đầu tư tư nhân: khu vực tư nhân chính thức trong nước là khu vực phát triển năng
động nhất kể từ năm 2000 khi Luật Doanh nghiệp được thông qua. Công nghiệp tư
nhân, chưa tính đến thành phần cá thể và cơ sở kinh tế hộ gia đình, đã tăng gần
20%/năm kể từ 1999 mặc dù xuất phát điểm còn thấp. Toàn bộ khu vực tư nhân chính
thức đã tạo ra thêm 1,75 triệu việc làm từ năm 2000 đến năm 2002. trong khi toàn bộ
khu vực nhà nước hầu như không tạo ra thêm việc làm.

6. Giảm nghèo: Tính theo chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nghèo đã giảm từ 58% vào năm
1992/1993 xuống 37% vào năm 1997/1998 và hiện nay là 32%. Việc trong vòng 10
năm mà giảm được gần một nửa tỷ lệ nghèo là một thành tựu tuyệt vời; thành tựu này
đi cùng với tỷ lệ nhập học tăng nhanh ở tất cả các cấp và những cải thiện về sức khoẻ
và dinh dưỡng.
3
Bất bình đẳng về thu nhập mặc dù có tăng nhưng vẫn còn thấp so với
tiêu chuẩn quốc tế.

Những thành tựu nêu trên là đáng kể và cũng đáng để các nhà lãnh đạo Việt Nam tự hào. Mặc
dù không được liệt kê ở trên, nhưng cũng cần ghi nhận các thành công khác như việc tăng
nhanh số điện thoại cố định, điện thoại cầm tay và lượng khách du lịch tăng gấp đôi từ 1995

đến 2002. Những chuyển biến tích cực đáng ghi nhận nữa là sự tiến bộ trong việc phát triển
cơ sở hạ tầng và người Việt Nam bình thường cũng có nhiều của ăn của để hơn. Vì vậy, cũng
không có gì đáng ngạc nhiên nếu người Việt Nam là những người tỏ ra lạc quan nhất trong số
44 nước được Trung tâm Nghiên cứu Pew khảo sát về những kỳ vọng của người dân ở các
nước đó đối với tương lai; các kết quả khảo sát được đề cập trên tờ Diễn đàn Thông tin Quốc
tế (International Herald Tribune) ngày 5/12/2002.

Ý kiến nêu để trao đổi


Thành công của Việt Nam trong những năm 1998-2002 có thể so với mức trung bình của các
nước đang phát triển ở châu Á - châu lục chịu ảnh hưởng nhiều của Trung Quốc. Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) ước tính rằng mức tăng trưởng trung bình trong những năm này của các nước
đang phát triển châu Á là 5,8%, nhưng IMF cũng tính rằng Việt Nam đạt mức 4,8% trong
cùng giai đoạn. Nếu như sử dụng con số của ADB là 5,5% thì Việt Nam đạt mức thấp hơn
trung bình một chút nhưng còn tốt hơn nhiều nước khác. Được như vậy là khá tốt nhưng chưa
phải tuyệt vời.

Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu rõ ràng là một sự thành công. Trong giai đoạn 1998-2002,
xuất khẩu tính theo USD của các nước đang phát triển ở châu Á tăng 8%/năm trong khi xuất
khẩu của Việt Nam tăng 12%/năm. Xuất khẩu hàng may mặc và giày dép của Việt Nam tăng
mạnh, trong đó hàng may mặc tăng gấp đôi và hàng giày dép thì tăng 80%. Đây là những
ngành công nghiệp có khả năng cạnh tranh và việc Việt Nam có khả năng chiếm thị phần lớn
hơn trong xuất khẩu toàn cầu cho thấy Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên các thị trường
thế giới. Việc Việt Nam đạt được tỷ lệ xuất khẩu tăng như trên trong khi hàng xuất khẩu là
gạo và cà-phê xuống dưới mức 600 triệu USD là một dấu hiệu khích lệ. Tuy nhiên, mức tăng


3
Có nhiều cách để đánh giá sự phát triển xã hội nhưng Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của UNDP hiện được

sử dụng rộng rãi. Nếu như 1,0 là mức phát triển hoàn thiện thì mức của Việt Nam là 0,68, tức là tăng từ mức
0,58 của năm 1985. Mức này cao hơn của In-đô-nê-xi-a và thấp hơn một chút so với mức 0,72 của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Phi-líp-pin, Thái Lan và Ma-lay-xi-a đều đạt từ 0,75 trở lên (UNDP, 2002). Tuy nhiên, ngoài việc
tính tỷ lệ biết chữ, HDI chưa tính đến chất lượng giáo dục.


5
xuất khẩu thủy sản (tăng gần gấp đôi và đạt trên 2 tỷ USD) đã bù lại cho sự giảm sút của một
số mặt hàng nông nghiệp và mức tăng như vậy của xuất khẩu thủy sản khó có thể lặp lại trong
tương lai. Những sản phẩm xuất khẩu không
được tính trong những nhóm sản phẩm lớn như
nông nghiệp, than và dầu thô, dệt may hay thủy sản hải sản, cũng tăng nhanh - đạt mức trên
80%. Điều này cho thấy có nhiều sản phẩm và ngành nghề khác đang tìm kiếm thị trường bên
ngoài. Đây là dấu hiệu tốt của sự phát triển lành mạnh bởi vì sẽ thật là mạo hiểm nếu chỉ dựa
vào một vài mặt hàng xuất khẩu lớn.
4


Sự tăng trưởng trong khu vực công nghiệp chế biến chắc chắn là nhanh nhưng chất lượng thì
còn chưa rõ. Tăng trưởng phần nhiều là do đóng góp của những ngành công nghiệp nặng
được bảo hộ mạnh và sẽ phải giảm chi phí sản xuất trong tương lai rất gần để cạnh tranh với
những nhà cung cấp của các nước ASEAN. Một số các dự án do nhà nước đỡ đầu về lọc dầu
và phân bón vẫn được triển khai theo hướng trên dù rằng các dự án đó có thể sẽ đòi hỏi phải
trợ giá và/hay bảo hộ. Và việc tiếp tục trợ giá hay bảo hộ như vậy sẽ khiến các đối tác thương
mại của Việt Nam trả đũa bằng thuế suất cao hơn. Một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng là xác
định xem trong số các đầu tư gần đây thì đầu tư nào có thể giảm được chi phí và đầu tư nào sẽ
phải đối mặt với khả năng đóng cửa, thu hẹp sản xuất hoặc phải được trợ giá.

Đầu tư tư nhân chắc chắn là đã tăng nhanh. Mặc dù từ trước khi Luật Doanh nghiệp ra đời, đã
có những dấu hiệu là nguồn đầu tư này tăng nhanh nhưng sự tăng vọt thực sự xảy ra kể từ sau

khi có Luật. Rõ ràng Việt Nam đã chứng kiến một bước thay đổi quan trọng với 54.000 doanh
nghiệp và 4,7 tỷ USD vốn mới đăng ký trong quãng thời gian từ cuối 1999 đến cuối 2002.
Vào năm 2001, tới 24 tỉnh có mức đầu tư tư nhân đạt ít nhất là 10 USD bình quân đầu người
riêng trong năm đó. Như vậy, dạng đầu tư này đến được nhiều địa phương hơn so với FDI và
khu vực năng động nhất này có thể đem lại những lợi ích được phân phối rộng rãi chứ không
như lo ngại của một số người. Ví dụ, ở miền Núi phía Bắc, 7 trong số 16 tỉnh có mức đầu tư
bình quân đầu người đạt trên 10 USD trong năm 2001 trong khi 4 tỉnh khác trong cùng khu
vực có mức thấp hơn 5 USD rất nhiều. Một trong những tỉnh có mức đầu tư tư nhân bình
quân đầu người thấp nhất là Sơn La, tỉnh có một con đường tốt nối với Hà Nội. Vì vậy, rõ
ràng rằng nguyên nhân của những khác biệt không chỉ là sự biệt lập. Cũng như vậy, trong
năm 2001, mức đầu tư tư nhân tính theo đầu người của Thanh Hóa chỉ bằng 1/10 của Nghệ
An và khoảng 1/20 của Quảng Trị. Khu vực ven biển Bắc Trung bộ có những hoàn cảnh khó
khăn nhưng chắc chắn rằng các tỉnh trong cùng một khu vực lẽ ra phải đạt được những kết
quả phát triển gần như nhau.

Tỷ lệ học sinh nhập học cũng thật ấn tượng. Theo các số liệu chính thức thì tỷ lệ nhập học tiểu
học tăng từ 70% trong các năm 1994/1995 lên 94% trong các năm 1999/2000. Tỷ lệ nhập học
ở cấp trung học cơ sở (tăng gấp đôi lên mức 68% vào năm 1999/2000) và trung học (từ 13%
lên 32%) còn ấn tượng hơn. Tỷ lệ nhập học tiếp tục tăng ở cấp trung học. Số lượng sinh viên
học toàn thời gian tại các trường đại học cũng tăng từ 173.000 năm 1995 lên 420.000 năm
1999. Các chỉ số về sức khỏe cũng tốt lên với tuổi thọ trung bình đạt trên 68 tuổi và tỷ lệ tử
vong trẻ sơ sinh giảm từ 41/1000 trong năm 1995 xuống 27/1000 năm 2000. Những tiến bộ
này cùng với việc giảm thiểu tình trạng suy sinh dưỡng cho thấy rằng các ích lợi của quá trình


4
Việt Nam không phải là một nước xuất khẩu dầu lớn, nhưng đối với một số nước dầu lửa là mặt hàng xuất khẩu
chủ đạo. Xuất khẩu nhiều dầu mang lại thu nhập lớn nhưng cũng đem lại nhiều rủi ro. Khi một nước phát triển
lên thì luôn phải đa dạng hóa danh mục mặt hàng xuất khẩu của mình và việc này sẽ giúp tránh được những vấn
đề có thể phát sinh ở một ngành sản xuất nào đó gây chấn động lớn cho nền kinh tế.



6
phát triển đã được phân phối đến nhiều – nếu không nói là đồng đều – nhóm dân cư khác
nhau trong xã hội.

Tất nhiên rằng những điều kể trên đều là trong thời gian gần đây. Thế mạnh thường có nghĩa
là có khả năng đối phó với những thách thức trong tương lai đối với quá trình phát triển. Hiện
có xu hướng nghĩ rằng tình hình sẽ theo chiều hướng tốt như vậy mặc dù nhiều nước đã nhận
ra rằng tiếp sau giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng lại hay nảy sinh những trục trặc làm cho
tăng trưởng chậm lại. Có những trường hợp ngoại lệ - đó là “bốn con rồng” và Trung Quốc đã
đạt tăng trưởng nhanh chóng trong hàng thập kỷ mà không bị chậm lại, mặc dù rằng hiện
phần lớn các con rồng nhỏ hơn đang chỉ tăng trưởng ở mức 5%/năm hay thấp hơn. SARS có
thể làm chậm đi hay không làm chậm đi tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc. (Không chỉ dịch
bệnh SARS mà cả sự đầu tư không thích đáng cho y tế ở nông thôn đã đưa đến rủi ro là tốc độ
tăng trưởng bị giảm vì bệnh tật). Chất lượng của các chính sách kinh tế và xã hội quyết định
nền kinh tế có phát triển vững mạnh hay không. Một nền kinh tế được quản lý tốt sẽ tăng
trưởng nhanh hơn và bền vững hơn bởi vì nền kinh tế đó có thể ứng phó hiệu quả hơn với các
thách thức và hạn chế hậu quả của các trục trặc kinh tế. Qua việc tìm ra và khắc phục những
điểm yếu, người ta có thể giữ cho nền kinh tế và xã hội phát triển mạnh mẽ. Đó là lý do để
tiến hành những phân tích như được trình bày trong tài liệu này.




SARS ở Việt Nam và Trung Quốc

Có sự khác nhau lớn về diễn biến bệnh SARS ở Trung Quốc và Việt Nam. SARS (viê
m
đường hô hấp cấp) dường như là bắt nguồn ở phía Nam Trung Quốc vào nửa cuối nă

m
2002. Các bác sĩ ở đó đã biết về sự xuất hiện của một loại bệnh có khả năng truyền nhiễm
cao nhưng các quan chức lại không muốn công bố điều này và càng không muốn có những
biện pháp cách ly mạnh. Kết quả là bệnh này đã lan tới Bắc Kinh, Hồng Kông và một số nơi
khác ở châu Á trong những tháng đầu năm 2003. Việt Nam gặp phải ca bệnh đầu tiên ở H
à
Nội vào cuối tháng 2 nhưng lại có cách phản ứng rất khác. Một chuyên gia của Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) đã được mời hỗ trợ. Đây là một bác sĩ người Ý, người đã chẩn đoán v
à
cũng chết vì căn bệnh mới này. Tuy nhiên, chẩn đoán của ông đã đưa đến các biện pháp
cách ly ráo riết và việc đóng cửa bệnh viện Việt-Pháp nơi xuất hiện SARS. Việt Nam đã có
một chương trình thông tin công cộng mạnh mẽ và WHO đã nêu Việt Nam là nước đầu tiên
có bệnh SARS và cũng là nước đầu tiên kiểm soát được căn bệnh này. Tại Trung Quốc, s

chậm trễ kéo dài hàng tháng đã khiến SARS lan ra các vùng nông thôn và có thể trở thành
đại dịch địa phương. Cách chữa trị và vắc-xin phòng SARS sẽ được tìm ra trong vài năm tới
nhưng hậu quả đối với kinh tế Trung Quốc sẽ là hàng chục tỷ đô la và đây cũng là cảnh báo
cho chính phủ ở đó về cái giá phải trả cho việc che giấu những vấn đề nghiêm trọng. Ngược
lại, cách đối phó khéo léo của Việt Nam đã được đánh giá cao ngay trên trang nhất của t

Thời báo New York (The New York Times). Vì vậy, nhìn toàn cục thì Việt Nam có lẽ lại
được lợi từ câu chuyện này. Nếu như căn bệnh này cắm rễ sâu được ở Trung Quốc thì nó
vẫn có thể lan sang Việt Nam một lần nữa do có rất nhiều hoạt động qua biên giới hai nước.
ầ ổ


7
Những điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam



Tất cả những trao đổi về các điểm yếu cũng như các điểm mạnh đều phải gắn với một tiêu chí
nào đó. Nên so sánh Việt Nam với nước nào? Rõ ràng rằng Việt Nam đã tăng trưởng tốt cho
tới năm 1997 và so với các nước khác thì tăng trưởng của Việt Nam cũng ở mức tương đối tốt
sau năm 1998. Một cách xem xét điểm yếu của nền kinh tế là tìm hiểu chiến lược kinh tế bền
vững tới mức nào – tức là những nguồn tạo ra tăng trưởng sẽ được tái tạo và tăng lên hay là sẽ
mất dần đi? Theo một nghĩa khác thì chiến lược kinh tế đó có bền vững về mặt chính trị hay
không – tức là chiến lược đó nói chung có thỏa mãn được các vùng và nhóm dân cư khác
nhau không hay là sẽ tạo ra những áp lực dẫn đến các chính sách kém hiệu quả hơn hoặc gây
ra di dân với số lượng lớn và khó kiểm soát? Cách thứ ba để hiểu những điểm yếu của nền
kinh tế là so sánh Việt Nam với những nơi tốt nhất chứ không phải là những nơi trung bình.
Ví dụ, có thể so sánh với Trung Quốc, mặc dù so sánh như vậy thì Việt Nam khó mà hơn
được.



Bảng 1
Tốc độ tăng trưởng Xuất khẩu bình quân năm tính theo USD

1995-2002 1997-2002 2000-2002
Trung Quốc 11.8% 12.2% 14.4%
Việt Nam 17.9% 12.6% 7.0%


Rõ ràng là tốc độ tăng trưởng của Việt Nam bị chậm đi trong khi tốc độ của Trung Quốc lại
tăng lên. Do cả hai nước đều ở cùng một hoàn cảnh kinh tế quốc tế, rõ ràng những biến số nội
tại chứ không phải những biến số bên ngoài là nguyên nhân chính đưa đến sự khác biệt này.
Một trong những khác biệt lớn nhất giữa hai nền kinh tế là xu hướng FDI. Tính theo lượng
FDI chạy vào thì con số bình quân đầu người có kiểu hình như sau:

Bảng 2

FDI bình quân đầu người tính theo USD


1997
1998 1999 2000 2001 2002
Trung Quốc $36 $35 $31 $30 $34 $41
Việt Nam $29 $22 $18 $17 $16 $17

Nguồn: IMF, Số liệu Thống kê Tài chính Quốc tế, dòng 78bed và ước tính cho năm 2002.


Bảng về FDI bình quân đầu người cho thấy Việt Nam bắt đầu từ mức gần với mức của Trung
Quốc vào năm 1997, nhưng sau đó lại bị tụt xuống. Trên thực tế thì Trung Quốc đã vượt được
mức trước đây của mình trong khi FDI vào Việt Nam vẫn dậm chân ở con số thấp hơn mức
năm 1997 tới 40%. Để có thể quay trở lại sự chênh lệch về FDI bình quân đầu người giữa hai
nước như trong năm 1997 thì FDI bình quân đầu người của Việt Nam phải tăng gấp đôi. Và ở
đây chúng ta có thể nhắc lại một lần nữa là Trung Quốc và Việt Nam đều là những nền kinh tế
chuyển đổi có thu nhập thấp và chịu tác động của những điều kiện kinh tế quốc tế gần giống
nhau. Cả hai nước đều không bị ảnh hưởng nặng bởi Khủng hoảng châu Á vì hai nước có


8
chính sách kiểm soát dòng vốn và mức vay thương mại của cả hai đều tương đối thấp. Tuy
nhiên, Việt Nam thì gặp phải tình hình suy giảm đáng kể trong khi Trung Quốc đã phục hồi
hoàn toàn. Tại sao lại như vậy?

So sánh Việt Nam với Trung Quốc có thể là việc làm không công bằng và thậm chí không
thích hợp. Dù sao thì Trung Quốc cũng là một thị trường lớn và có những nét đặc thù ít nước
khác có được. Nhưng mặt khác, Việt Nam có lượng viện trợ nước ngoài bình quân đầu người
lớn hơn, có lợi thế là nguồn thu đáng kể từ dầu lửa và nhận được từ 1-2 tỷ USD kiều hối hàng

năm. Tổng lượng vốn từ các nguồn vừa kể đạt tới 20% GDP. Thu nhập bình quân đầu người
của Việt Nam cũng chỉ bằng một nửa của Trung Quốc. Bình thường thì trong hai nước có các
điều kiện gần giống nhau, nước nào có thu nhập bình quân thấp hơn sẽ dễ đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn. Đó là do việc áp dụng công nghệ và đầu tư vào nơi có xuất phát điểm thấp
hơn sẽ đem lại tác động lớn hơn tính theo tỷ lệ phần trăm. Nói một cách khác, một nhà kinh tế
sẽ
kỳ vọng
rằng so với Trung Quốc thì Việt Nam phải có một số lợi thế thậm chí ngay cả khi
xét tới việc Trung Quốc có được những lợi thế khác như quan hệ sắc tộc với Hồng Công, Đài
Loan và Xing-ga-po.

Nếu chúng ta không muốn so sánh Việt Nam với Trung Quốc thì có thể so Việt Nam với
chính Việt Nam. Từ 1995 đến 1997, Việt Nam tăng trưởng 8,8%/năm và đầu tư trung bình là
27,8% GDP. Điều đó có nghĩa là Việt Nam cần 3,2 đơn vị đầu tư để tạo ra 1 đơn vị tăng
trưởng. Theo những số liệu của ADB thì từ năm 2000 đến năm 2002, Việt Nam cần 4,5 đơn vị
đầu tư để có 1 đơn vị tăng trưởng; tỷ lệ này sẽ là 5:1 nếu dùng các số liệu của IMF. Tại sao
vào năm 2002, để tạo ra cùng một lượng tăng trưởng, lại cần một lượng đầu tư cao hơn những
năm 1990 tới 50%? Có thể một lý do là sự sụt giảm của lượng FDI. Dù rằng bây giờ Việt
Nam không quá cần vốn như trước đây thì FDI còn mang lại công nghệ, trình độ quản lý và
những mối liên hệ về thị trường. Đồng thời, phần đầu tư do khu vực nhà nước thực hiện cũng
gia tăng. Nếu như giờ đây quá trình tích lũy vốn chứa đựng nhiều hơn các cơ sở hạ tầng có
hiệu quả thấp và các ngành công nghiệp nặng được lựa chọn chưa đúng thì không có gì là
ngạc nhiên nếu cần phải có những
“yêu cầu”
vốn lớn hơn để tạo ra cùng một lượng tăng
trưởng như trước đây.

Một cách làm nữa để so Việt Nam với chính Việt Nam là trong lĩnh vực FDI. Có một số nhân
tố thuận lợi lẽ ra phải giúp được Việt Nam thu hút được nhiều FDI hơn - đó là sự ổn định về
chính trị, tránh được rủi ro của nạn khủng bố và những lợi thế của việc mới thông qua BTA

với Hoa Kỳ. Mặc dù có những lợi thế như vậy, mức cam kết FDI đã giảm mạnh và hiện chỉ
bằng khoảng 1/4 mức của giữa thập kỷ 90 và thậm chí còn thấp hơn mức ngay sau Khủng
hoảng châu Á tới 20%. Mặt khác, FDI thực hiện và FDI thực tế chảy vào trong những năm
2001-2002 cũng tăng lên so với những năm 1998-2000. Nguyên nhân của sự gia tăng này là
do những đầu tư lớn trong lĩnh vực năng lượng vào năm 2002. Những chỉ số sơ bộ cho thấy
FDI đăng ký trong năm 2003 sẽ thấp hơn năm 2002, nhưng lượng FDI chảy vào và thực hiện
có thể sẽ cao hơn chút ít. Các con số trong bảng tiếp theo được tính theo tỷ USD.

Lượng FDI chảy vào trong những năm 1995-2002 đạt 11 tỷ USD, trong đó có 3 tỷ USD là
vào lĩnh vực dầu khí. Có khoảng 400.000 việc làm trong các doanh nghiệp nước ngoài nhưng
số việc làm trong các doanh nghiệp dầu khí lại rất ít. Như vậy, cần tới 20.000 USD FDI để tạo
ra một việc làm mặc dù rằng ở các ngành công nghiệp nhẹ (có khoảng 2 tỷ USD đầu tư) thì
con số này có thể thấp hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, một lượng FDI khá lớn lại chảy vào các


9
liên doanh được hưởng mức bảo hộ cao và như vậy, về nhiều mặt, các liên doanh này cũng
giống với một số DNNN có mức chi phí sản xuất cao. Không phải các đầu tư FDI đều có tác
dụng tốt như nhau đối với tăng trưởng và việc làm – hộp ở phần sau về ngành đường sẽ cho
thấy rõ hơn điều này.


Bảng 3
Một số cách tính lượng FDI hàng năm ở Việt Nam

1995-1997
1998-2000 2001-2002
Lượng FDI đăng ký 7,2 2,5 2,0
Lượng FDI thực hiện 2,6 2,1 2,3
Lượng FDI chảy vào 2,1 0,8 1,1


Những số liệu này là sự kết hợp các số liệu đôi khi không thống nhất của IMF và Bộ Kế hoạch - Đầu
tư. Tình hình này có thể là do sự điều chỉnh định kỳ theo hướng phản ánh lượng FDI đăng ký thấp đi
nếu việc đầu tư bị trì hoãn quá lâu hoặc điều chỉnh theo hướng tăng lên nếu có các khoản tăng FDI
được chấp thuận. Nói chung thì số liệu FDI đăng ký theo giấy phép được sử dụng. Số liệu về FDI
chảy vào được dựa trên các ước tính của IMF gồm cả góp vốn chủ sở hữu của bên nước ngoài và vay
nước ngoài. FDI thực hiện gồm tất cả các loại vốn, trong đó có vốn đóng góp của đối tác Việt Nam.


Sự lưỡng thể bất thường ở Việt Nam


Tại sao Việt Nam lại khác với Trung Quốc và khác cả với quá khứ mới đây của mình? Chúng
ta hãy quay lại với sự “lưỡng thể” được mô tả ở phần trên. Trước hết, nếu như có một khu vực
“hiện đại” theo cái nghĩa là một khu vực chiếm tỷ phần đầu tư lớn và thậm chí còn tăng lên thì
đó là khu vực nhà nước. Khu vực này chiếm 41% tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 1993-1996
và tăng lên 56% trong những năm 2001-2002. Tuy nhiên, khu vực nhà nước chỉ chiếm một tỷ
lệ nhỏ về lao động trong giai đoạn này và tạo ra tốc độ tăng trưởng việc làm có 2% kể từ năm
1998. Mặc dù chiếm phần đầu tư lớn, nhưng tỷ trọng của các DNNN trong khu vực phi nông
nghiệp lại giảm đi so với các thành phần kinh tế khác vốn được đầu tư ít hơn. Ví dụ, tỷ trọng
của khu vực nhà nước trong công nghiệp giảm từ 50% năm 1995 xuống 37% vào tháng 1-3
năm 2003. Ngoài ra, các DNNN thường có mức bảo hộ rất cao và cần phải vay những lượng
vốn lớn để có thể tiếp tục phát triển. Điều này thậm chí ngược với tình hình thường thấy ở
những nơi khác là các doanh nghiệp độc quyền không bị điều tiết thường không cần vay nhiều
vì có siêu lợi nhuận. Trên một nửa vốn đầu tư của các DNNN là từ tín dụng nhà nước, trong
đó có nguồn từ hệ thống ngân hàng và các nguồn khác.

Khi một quốc gia đưa phần lớn vốn đầu tư nhưng lại không đưa được lực lượng lao động vào
một khu vực, và khu vực này lại không thể tự tạo ra được ngân lưu hay không duy trì được tỷ
phần đóng góp của mình vào sản lượng của nền kinh tế dù đó được bảo hộ và những lợi thế

khác, thì đó không phải là biểu hiện của quản lý kinh tế tốt. Khu vực kinh tế quốc doanh với
chi phí cao, thể hiện qua thí dụ về ngành mía đường, cho thấy hậu quả của việc theo đuổi
chính sách tự cung tự cấp bằng bất cứ giá nào. Các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có thể
tạo ra việc làm ổn định hơn nhiều và tạo ra một lượng sản phẩm lớn hơn trên mỗi đồng đầu
tư. Nếu các khu vực này có được vai trò lớn hơn thì sẽ có nhiều xuất khẩu hơn, nợ ít hơn và
lợi nhuận cao hơn mà không cần bảo hộ.


10

Thành công ngọt ngào hay lại là một cái lỗ sâu răng có giá hàng tỷ Đô la

Theo Ngân hàng Thế giới (năm 2002, trang 101), Chương trình một triệu tấn đường bắt đầu vào năm
1995. Kết quả của Chương trình này là 32 nhà máy đường được xây dựng mới với chi phí đầu tư 750
triệu USD, thêm vào đó còn là 350 triệu USD đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở các vùng sản xuất đường.
Trước đó đã có 12 nhà máy, vì vậy tổng số các nhà máy đường là 44, trong đó “15 nhà máy là DNNN
của trung ương, 23 nhà máy là DNNN của tỉnh, 3 nhà máy là liên doanh với nước ngoài và 3 nhà máy
100% vốn nước ngoài.” Ngân hàng Thế giới nêu tiếp là “tuy nhiên, vào năm 2000 tình hình thị trường
đường bị bão hòa và buôn lậu [đường!] đã đưa giá đường xuống gần bằng mức giá nhập khẩu. Ở mức
giá này thì không nhà máy nào có thể trang trải được chi phí đầu tư, trong khi tất cả các nhà máy nhỏ
cùng lắm chỉ trang trải được 60-70% chi phí hoạt động”. Vào năm 2003, Hiệp hội Mía Đường Việt
Nam – tổ chức của các nhà sản xuất – đưa ra giải pháp cho khó khăn của họ. Họ đề nghị rằng Nhà
nước cung cấp 200 tỷ VNĐ [tương đương 13 triệu USD] để bù lỗ cho việc họ xuất khẩu 200.000 tấn
đường [Theo báo Saigon Times Daily,
10/2/2003]. Điều này có nghĩa là những người đóng thuế ở Việt
Nam phải giúp làm rẻ đường xuất khẩu cho người nước ngoài mua để rồi giá đường trong nước vẫn ở
mức cao! Giá gần đây ở Việt Nam là 278 USD/tấn trong khi giá đường thế giới là 210-218 USD/tấn.
Nếu như 1,1 triệu tấn đường được sản xuất, tức là vượt mức cầu trong nước tới 200.000 tấn, thì chi phí
sản xuất đường cao hơn giá trị của nó tính theo mức giá thế giới tới 66 triệu USD. Một giám đốc nhà
máy đường nói rằng giá đường sẽ phải giảm từ 7000 VNĐ/kg xuống 4000 VNĐ/kg để thúc đẩy xuất

khẩu và giảm nhập lậu đường. Nhưng nếu giảm giá như vậy thì nhiều nhà máy đường sẽ phải đóng
cửa và không trả được các khoản vay ngân hàng. Vì thế, người tiêu dùng vẫn phải trả mức giá cao giả
tạo trong khi chính phủ hoặc là hàng năm sẽ phải chi những khoản tiền lớn để trợ giá hoặc sẽ phải
đứng ra chi trả cho các khoản nợ vay của phần lớn các nhà máy được xây dựng từ năm 1995. Đây là
một minh chứng khá rõ cho thấy sự tự cung tự cấp và lối suy nghĩ chạy theo chỉ tiêu hiện đang va
chạm như thế nào với thương mại rộng mở hơn (AFTA) và mong muốn hội nhập vào nền kinh tế thế
giới của Việt Nam.


Trong giai đoạn 2000-2002, có 1,75 triệu việc làm được tạo ra trong khu vực kinh tế tư nhân
chính thức trong nước. Vốn đầu tư ở khu vực này là 4,7 tỷ USD, tức là khoảng 2.700 USD
cho một việc làm. Cũng trong giai đoạn đó, đầu tư của các DNNN từ nguồn vốn của
chính họ là 4 tỷ USD và số việc làm của DNNN về cơ bản không thay đổi. Đó là chưa
tính đến 4 tỷ USD “tín dụng do nhà nước điều tiết” nằm ngoài hệ thống ngân hàng mà
phần lớn là dành cho các DNNN. Tín dụng nhà nước còn đến từ các nguồn khác như Quỹ
Hỗ trợ Phát triển. Tăng trưởng tín dụng của quỹ này lớn ngang bằng với các khoản cho vay
của ngân hàng.

Sẽ là đi một lẽ nếu hầu hết đầu tư của nhà nước được sử dụng cho những đầu vào cần thiết,
như điện, nơi không sử dụng nhiều lao động. Đầu tư nhà nước cũng có thể được dùng để xây
dựng đường sá mà bên nhận thầu thường là các doanh nghiệp quân đội để các doanh nghiệp
này có thêm việc làm. Song, hãy thử xem xét những loại dự án khác đã được tài trợ – các nhà
máy đường không thể bù đắp được chi phí ngay cả ở mức giá cao hơn nhiều so với giá thế
giới. Các nhà máy xi-măng và thép phàn nàn là ngay cả với mức thuế bảo hộ cao họ vẫn bị lỗ
và tạo ra được ít việc làm. Hoặc hãy thử xem xét nhà máy lọc dầu dự kiến được xây dựng ở
Dung Quất. (Xem hộp ở dưới). Qua việc xem xét nhiều khoản đầu tư công, kết luận rút ra là
nhiều dự án chưa hẳn là những đầu tư kinh tế nghiêm túc. Các dự án đó sẽ cần có trợ giá hay
bảo hộ để hoạt động hoặc sẽ có suất sinh lợi thấp hơn mức giá thực của vốn.




11

Nhà máy lọc dầu trị giá bao nhiêu?

Trong năm 2002, giá dầu thô xuất khẩu từ Việt Nam là 191 USD/tấn. Giá nhập khẩu xăng dầu đã lọc
là 202 USD/tấn. Chênh lệch là 11 USD/tấn và đây cũng là mức chênh lệch trung bình trong 5 năm
qua. Như vậy, đối với Việt Nam thì cả khâu lọc dầu dẫn vận chuyển dầu chỉ có giá trị trung bình
không quá 11 USD/tấn. Điều này có nghĩa là một nhà máy lọc dầu với công suất chế biến 6,5 triệu
tấn/năm có giá trị gia tăng là 72 triệu USD/năm theo mức giá thế giới
5
, không tính đến chi phí dầu thô.

[11 USD/tấn x 6,5 triệu tấn = 72 triệu USD]. Chi phí đầu tư của nhà máy lọc dầu Dung Quất với công
suất 6,5 triệu tấn/năm sẽ là 1,5 tỷ USD khi tính cả số lãi vay phải trả trong thời gian xây dựng nhà
máy. Mức lãi suất thấp nhất cũng phải là 10%/năm. Ngay mức lãi suất tiền gửi (tiền đồng) cũng là
8,5%/năm. Lãi suất cho vay phải cao hơn lãi suất tiền gửi và các khoản vay dài hạn có mức lãi suất
cao hơn vay ngắn hạn. Thậm chí các khoản vay thương mại bằng USD cũng có mức lãi suất từ 8-10%
nhưng tất nhiên thu nhập của nhà máy lọc dầu sẽ là bằng tiền đồng và phần lớn các nguồn vốn cũng
bằng tiền đồng. Vì vậy, chỉ riêng trả lãi suất cũng là khoảng 150 triệu USD/năm. Thêm vào đó, chi phí
cho nhiên liệu sử dụng khi lọc đầu, hóa chất, lao động, sửa chữa,... sẽ vào khoảng 50 triệu USD/năm.
Như vậy, mỗi năm Việt Nam phải chi 200 triệu USD nếu lọc dầu ở Việt Nam, nhưng chỉ phải chi 72
triệu USD cho việc lọc dầu ở nước ngoài nếu Việt Nam nhập dầu lọc. Tính trung bình thì trong mỗi
năm hoạt động của nhà máy lọc dầu, Chính phủ hoặc người tiêu dùng phải trả một khoản chi
phí vượt trội là 130 triệu USD.

Tác động về việc làm của nhà máy khi đã hoàn thành sẽ chỉ là 1000 công nhân. Nếu khoản tiền đầu tư
được dùng cho khu vực tư nhân vay thì số việc làm tạo ra có thể sẽ là 500.000.

Có lập luận rằng Việt Nam “cần” một nhà máy lọc dầu để hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Nếu đúng

là như vậy thì chắc cũng không cần phải đặt nhà máy vừa nằm xa nguồn nguyên liệu hay xa thị trường
lại vừa tại nơi thường xuyên chịu bão. Vì các công ty dầu khí nước ngoài quan tâm đến một nhà máy
lọc dầu ở gần TP.HCM, nên họ sẽ không đầu tư vào một nhà máy quá xa các trung tâm tiêu thụ lớn.
Họ quan tâm đến những dự án có tính thương mại.

Một lập luận khác là cần có nhà máy lọc dầu ở vị trí hiện nay để có sự đồng đều giữa các vùng và giúp
các tỉnh nghèo. Nếu như Việt Nam nhập dầu và đánh thuế ở mức mà giá người tiêu dùng phải trả cũng
tương đương như giá vượt trội của Dung Quất thì mỗi năm Việt Nam có thêm 130 triệu USD để chi
cho đường sá, trường học, thủy lợi, điện và chợ ở các tỉnh nghèo. Cách làm như vậy sẽ tạo ra tác động
tích cực lớn hơn nhiều đối với sự phát triển vùng và cuộc sống của người nghèo.

Những quyết định đầu tư như dự án vừa nêu sẽ khiến Việt Nam mắc nợ nhiều hơn, tăng trưởng chậm
hơn do chi phí cao và tạo ra ít việc làm hơn. Những quyết định này cần được xem xét lại.




Có thể thấy tác động của sự lưỡng thể bất thường nói trên đối với kiểu hình thu nhập của các
hộ gia đình ở nông thôn và thành thị. Từ năm 1995 đến 2001-2002, thu nhập thực bình quân
đầu người ở nông thôn tăng khoảng 13% trong khi thu nhập ở thành thị tăng 60%. Do ngay từ
đầu thu nhập thành thị đã cao hơn nhiều thu nhập ở nông thôn, mức tăng tuyệt đối trong thu


5
Sẽ có các thời điểm khi giá trị chênh lệch giữa giá dầu thô và dầu lọc cao hơn như trong những tháng đầu năm
2003. Cũng có những thời điểm chênh lệch giá thấp hơn. Tuy vậy, mức trung bình mới là cơ sở cho phân tích
kinh tế.





12
nhập ở thành thị trong giai đoạn này bằng 13 lần mức tăng ở nông thôn.
6
Nếu có thêm vốn
cho khu vực tư nhân thì sẽ có thêm việc làm phi nông nghiệp, lao động nông nghiệp sẽ giảm
và diện tích các thửa ruộng sẽ lớn hơn. Do vậy, thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng nhanh
hơn. Thay cho việc dùng tiền nhà nước để xây dựng những nhà máy lọc dầu, sản xuất phân
bón, thép, đường và xi măng thâm dụng vốn và có chi phí cao, nên tạo điều kiện cho các công
ty tư nhân tiếp cận với các nguồn vốn lớn hơn qua những kênh ngân hàng hay công ty cho
thuê tài chính. Tương tự, hàng tỷ đô-la đầu tư hạ tầng hiện vẫn bị đưa vào những dự án không
hiệu quả hoặc có mức chi phí quá cao.

Những phân tích trên giải thích tại sao phải mất 5 đô-la đầu tư chứ không phải chỉ khoảng 3
đô-la để có được 1 đô-la tăng trưởng. Nếu đầu tư thâm dụng vốn được kiềm chế như ở mức
trước đây thì tốc độ tăng trưởng sẽ không chỉ là 5,5% mà là 8% hoặc còn hơn nữa. Tốc độ
tăng trưởng thấp hơn có nghĩa là sẽ có ít tiến bộ hơn trong giảm nghèo, có thêm sức ép đối
với sự ổn định xã hội vì khi đó việc làm mới và tốt hơn sẽ khó kiếm.

Nếu như việc giảm nghèo được coi là một ưu tiên thì sự khác biệt rõ rệt về
tỷ lệ
giảm nghèo
phải là một mối quan tâm lớn. Trong 5 năm (1992/1993-1997/1998), tỷ lệ nghèo giảm từ 58%
xuống 37%. Như vậy đã giảm được 21%. Trong 4-5 năm sau đó, chỉ giảm thêm được 5%. Tốc
độ giảm nghèo bị chậm đi một phần là do giá một số nguyên liệu cơ bản bị giảm, song nguyên
nhân lớn nhất vẫn là do giảm sút tốc độ tăng trưởng GDP và một kiểu hình phát triển dẫn đến
thu nhập tập trung ở các thành phố và có ít việc làm mới so với trước đây. Nếu không có Luật
Doanh nghiệp thì các kết quả đạt được còn ít khả quan hơn nữa. Để có lại được sung lực trong
quá trình giảm nghèo, đầu tư tốt hơn về y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng phải đi cùng với việc
phân bổ vốn đầu tư tốt hơn và nhiều việc làm mới hơn. So với các khoản vay định hướng và

các dự án công trình đặc biệt nhằm giảm nghèo thì cách làm như vừa đề cập sẽ đưa được
nhiều người vượt lên trên ranh giới nghèo quốc tế hơn. Điều này đòi hỏi chiến lược tốt hơn
không chỉ ở cấp trung ương mà cả ở cấp địa phương
.


Làm theo các tỉnh đã thành công – Một cơ hội


Có lẽ người ta vẫn chưa thấy hết được tầm quan trọng của các chính sách kinh tế khôn ngoan
ở cấp tỉnh. Các tỉnh có các khả năng rất khác nhau trong việc tạo ra tăng trưởng mà không cần
có bao cấp của chính phủ. Một số người lập luận rằng có sự khác biệt như vậy chủ yếu là nhờ
may mắn hoặc điều kiện địa lý. Ví dụ, chỉ một vài tỉnh làm tốt việc thu hút FDI. Nói chung thì
người ta đều thấy rằng FDI thường tập trung ở một vài nơi, phần lớn là ở hai thành phố lớn là
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) hoặc xung quanh hai thành phố đó. Trong một
vài trường hợp khác thì địa phương có lượng đầu tư lớn là nhờ vào một vài dự án lớn hoặc có
được một số tài nguyên thiên nhiên thuận lợi cho việc chế biến thực phẩm hoặc du lịch. Theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì Hà Nội, TP.HCM và sáu tỉnh lân cận chiếm tới 2/3 số FDI thực
hiện được tích tụ cho đến thời điểm cuối năm 2002.
7
Tám tỉnh khác chiếm 12% tổng FDI, như


6
Người ta nói rằng những biện pháp xử lý gần đây đối với người bán rong trên các phố ở Hà Nội một phần cũng
là để hạn chế người dân ở nông thôn vào thành phố. [Bài “Các đường phố gọn ghẽ” trong Tạp chí Kinh tế Viễn
Đông, 29/5/2003, trang 38].
7
Sáu tỉnh, xắp theo số lượng FDI từ cao xuống thấp thì sáu tỉnh khác là: Đồng Nai, Hải Phòng, Bình Dương, Bà
Rịa-Vũng Tàu, Hà Tây và Vĩnh Phúc. Đây là tổng FDI chứ không phải FDI bình quân đầu người.

×