Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Tăng cường huy động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.44 KB, 82 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008 đang dần khép lại với biết bao sự kiện, diễn biến phức tạp và khó
lường của nền kinh tế thế giới theo chiều hướng bất ổn rõ nét: Từ cuộc khủng hoảng
thị trường nhà đất của Mỹ lan rộng sang khủng hoảng tài chính mang tính toàn cầu,
suy thoái kinh tế đã xảy ra ở hầu hết các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, Anh và
nhiều nước thuộc khu vực Châu Âu… Kinh tế thế giới chuyển từ xu hướng suy thoái
kinh tế gắn lạm phát cao sang xu hướng thiểu phát và giảm phát đang là nỗi lo của
các quốc gia hiện nay.
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam không những phải đối mặt với
những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới mà còn phải đối mặt với nhiều khó
khăn nội tại như lạm phát tăng mạnh, thâm hụt cán cân thương mại đạt mức kỷ lục,
thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Để có thể giữ ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ
các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất, khuyến khích xuất khẩu trong điều
kiện kinh tế suy thoái thì một nguồn lực có ý nghĩa quyết định không thể thiếu được,
đó chính là vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Trước tình hình đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam, với vai trò là huyết mạch
cho các DNVN trong toàn bộ quá trình phát triển, từ khâu khởi sự, đi vào hoạt động,
mở rộng sản xuất kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế … phải đối mặt với những
khó khăn thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới. Một câu hỏi
đang được đặt ra cho thực tiễn hiện nay tại các NHTM Việt Nam nói chung và NH
TMCP Nhà Hà Nội nói riêng làm thế nào để tăng cường huy động vốn, đặc biệt là
huy động tiền gửi khách hàng – một nguồn huy động chiếm tỷ trọng lớn, là cơ sở đáp
ứng nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh doanh, cho nhu cầu mở rộng triển khai
các dịch vụ mới và áp dụng công nghệ hiện đại hóa NH.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với khoảng thời gian thực tế tại NH TMCP
Nhà Hà Nội, được tiếp cận và tìm hiểu nhu cầu, thực trạng về huy động tiền gửi
khách hàng tại đây, em nhận thấy quy mô huy động tiền gửi khách hàng còn chưa
tương xứng với tiềm lực của ngân hàng. Do đó, em lựa chọn đề tài “Tăng cường huy
động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” làm đề tài cho
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:


Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về huy động tiền gửi khách hàng của NHTM
Chương 2 : Thực trạng huy động tiền gửi khách hàng của NH TMCP Nhà Hà Nội
Chương 3 : Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi khách hàng của NH TMCP Nhà
HN
Phạm vi của đề tài là nghiên cứu hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong khoảng từ 3 năm trở lại đây. Dựa vào cơ sở lý
thuyết cũng như tình hình thực tiễn, bài viết sẽ đưa ra một số ý kiến nhằm phát triển
hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của ngân hàng.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI
KHÁCH HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngay từ xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm
trung gian trao đổi hàng hoá. Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hoá được tiến hành
một cách thuận lợi, dễ dàng hơn nhiều, góp phần kích thích sản xuất. Xã hội ngày
càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng đươc phát huy, đồng thời các nhu cầu
về tiền tệ cũng bắt đầu nảy sinh và ngày càng trở nên đa dạng, chính điều này đã thúc
đẩy sự ra đời và phát triển của một loại hình trung gian tài chính chuyên kinh doanh
về tiền tệ, đó là các ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một trong những loại hình NH trung gian lâu đời nhất.
Sự ra đời của NHTM là kết quả tất yếu khách quan của quá trình sản xuất, trao đổi
hàng hóa và phân công lao động xã hội. NHTM là một sản phẩm độc đáo của nền sản
xuất hàng hoá trong kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong
nền kinh tế: “Là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế.” [Peter Rose (2002), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính].
Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các NH hầu như là giống
nhau song quan niệm về NH lại không đồng nhất giữa các nước trên thế giới. Sở dĩ
có tình trạng này là do hoạt động NHTM rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp

vụ NH lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền
kinh tế. Mặt khác, do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã
dẫn đến những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên thế giới.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Mỹ thì “NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính”; Ở Pháp, theo điều 1 Luật
Ngân hàng Pháp 1941 quy định: “NHTM được hiểu là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành
nghề thường xuyên nhận được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác
các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính” ; Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 1997 thì NH được
định nghĩa như sau: “NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. “Hoạt động NH là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ NH với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng là loại hình doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ NH với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.”
 Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại về cơ bản
đều phản ánh hoạt động của NHTM là kinh doanh tiền tệ - tín dụng, dịch vụ NH. Có thể
hiểu tổng quát: NHTM là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức khác nhau
của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở hữu của NH để thực
hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh
toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế. [Lê Văn Tư
(2005), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính]
1.1.2. Chức năng của NHTM
NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh dịch vụ tiền tệ.
NHTM không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như những doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất,
lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu
tư cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng
nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Vai trò quan trọng của NHTM trong nền kinh tế được

thể hiện qua các chức năng cơ bản của nó như trung gian tài chính, trung gian thanh
toán, tạo phương tiện thanh toán.
- Trung gian tài chính: Chức năng trung gian tài chính của NH có thể
thấy rõ qua sơ đồ luân chuyển vốn sau:
Sơ đồ 1.1: Luân chuyển vốn trong nền kinh tế
Nguồn: www.saga.vn
NH là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết
kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh
tế: một là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ cần bổ sung vốn; hai là các cá nhân và
tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi
tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Khi thực hiện chức năng
trung gian tài chính, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người dư thừa vốn và người
có nhu cầu về vốn, vì vậy giải quyết được mâu thuẫn tín dụng trực tiếp, góp phần tạo
lợi ích cho tất cả các bên tham gia, bao gồm: người gửi tiền, NH, người đi vay, đồng
thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Chính vì thế NHTM với tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận tiền
gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số lượng và thời hạn phong phú và
đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với
mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều,
hoạt động ngày càng phong phú chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực NHTM đã thực

nhân

DN
Ngân
Hàng
TM

nhân


DN
Gửi tiền
Ủy thác
đầu tư
Cho vay
Đầu tư
sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng
cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường
Đây được coi là chức năng quan trọng nhất của NH thương mại, quyết định sự
tồn tại và phát triển của NH, đồng thời là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
- Trung gian thanh toán: Với chức năng này, NHTM đóng vai trò là
“người thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi NH là người giữ tài khoản của
họ và thực hiện các lệnh thu chi của khách hàng. K. Maxr đã viết: "Công việc của
người thủ quỹ chính là ở chỗ làm trung gian thanh toán. Khi NH xuất hiện thì chức
năng này được chuyển giao sang NH. Tuy nhiên, khác với nghề kinh doanh tiền tệ
dưới hình thức ban đầu giản đơn và thuần tuý của nó - nghĩa là tách khỏi chế độ tín
dụng - trong NH, thì chức năng trung gian tín dụng gắn bó một cách chặt chẽ với
trung gian thanh toán. NH dùng số tiền của nhà tư bản này để cho vay". Thật vậy,
chức năng này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng.
Việc mở tài khoản của khách hàng, nhận tiền gửi và thanh toán hộ khách hàng đã tạo
ra cơ sở để NH có thêm nguồn vốn để mở rộng cho vay. Đồng thời, thông qua việc
nhận tiền gửi, NH đã mở cho khách hàng tài khoản để theo dõi các khoản thu chi, đó
chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán qua NH.
Chức năng này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quan hệ thanh
toán với nhau, làm giảm đi đáng kể những chi phí có liên quan đến lưu thông tiền mặt
đối với từng doanh nghiệp cũng như đối với toàn xã hội. Đối với NHTM, chức năng
này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho NH thông qua việc thu lệ phí thanh toán, tăng
nguồn vốn cho vay của NH thể hiện trên số dư Có trong tài khoản tiền gửi của khách
hàng.

- Tạo phương tiện thanh toán: Khi hệ thống NH phân thành hai cấp
thì NHNN là NH phát hành còn NHTM thực hiện kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Với
chức năng là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo ra
tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Chức năng tạo tiền là chức năng cực
kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp
tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với
NHNN đặc biệt trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính
sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHNN phát hành
qua hệ thống NHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh
tế. Như vậy, quá trình tạo tiền chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cả hệ
thống NHTM chứ bản thân một NH không thể tạo ra được.
 Tóm lại, sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán là cơ sở để NHTM thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức
năng làm trung gian tín dụng, NH sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền
cho vay lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi
số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phân
của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, dịch vụ. Nếu NH chỉ thực hiện
chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, NH vẫn chưa tạo tiền. Chỉ đến khi thực
hiện cho vay, NH mới bắt đầu tạo tiền. Đây là một phát minh lớn trong hoạt động
NH. Có thể thấy, các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung hỗ trợ
cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở
cho việc thực hiện các chức năng còn lại. Đồng thời, khi NH thực hiện tốt chức năng
trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền sẽ góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng,
mở rộng hoạt động tín dụng.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Vai trò to lớn của NH đối với sự phát triển kinh tế xã hội xuất phát từ chính
đặc trưng của hoạt động NH. NHTM giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt
động vì mục đích lợi nhuận song lại ở lĩnh vực kinh doanh đặc biệt: kinh doanh tiền
tệ, một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm trong nền kinh tế và có tác động tới mọi hoạt động
khác. Do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, các NH không ngừng tăng cường mở

rộng các danh mục các sản phẩm NH nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách
hàng, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên, về cơ bản chúng ta
có thể xắp xếp các hoạt động đó vào một trong ba nhóm sau:
- Hoạt động huy động vốn
- Hoạt động sử dụng vốn
- Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính
Ba hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau và có vai trò quan
trọng trong việc quyết định đến sự thành công trong hoạt động kinh doanh của NH.
Hoạt động huy động vốn
Một đặc trưng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM tạo nên sự
khác biệt so với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực phi tài chính là hoạt
động huy động vốn, một nghiệp vụ kinh doanh hết sức quan trọng của NHTM.
NHTM sử dụng uy tín và điều kiện sẵn có của mình để tiến hành huy động vốn. Hoạt
động này tạo nguồn vốn cho NHTM, vì thế đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới
chất lượng hoạt động của NH. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu
các NHTM sử dụng tốt nguồn vốn này thì không những nguồn lợi của NH được tăng
lên mà còn tạo cho NH uy tín ngày càng cao. Qua đó NH có thể mở rộng được vốn
và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của NH. Kết cấu nguồn vốn bao gồm: Vốn
tự có, tiền gửi, tiền vay và các nguồn vốn khác.
Hoạt động sử dụng vốn
Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của NHTM vào mục đích nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán cũng như tìm kiếm
lợi nhuận. Nghiệp vụ này được thể hiện thông qua nhiều nghiệp vụ cụ thể như: cho
vay, đầu tư, hoạt động ngân quỹ...Trong đó, cho vay là nghiệp vụ cơ bản nhất trong
sử dụng và khai thác nguồn vốn của NHTM.
* Nghiệp vụ cho vay: Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng sinh
lời cao cho NH. Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn nhất.
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn
của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên
thị trường... với mục đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hoạt

động kinh doanh.
* Nghiệp vụ ngân quĩ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của NH
nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc do
NHNN đề ra.
Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính
Là nghiệp vụ của NH thực hiện các dịch vụ cho khách hàng thông qua đó nhận
được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Các hoạt động trung gian này có độ rủi
ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn mang lại nguồn thu lớn cho
NH. Nền kinh tế càng phát triển thì dịch vụ này càng mở rộng, bao gồm:
- NH tiến hành chuyển tiền cho khách hàng, thanh toán hộ khách hàng về các
khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng bằng hình thức
séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng...
- NH đóng vai trò làm trung gian trong việc mua bán hộ cho khách hàng.
- NH làm đại lý phát hành và bán chứng khoán cho công ty.
 Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ, thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp
vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ, NHTM đã chứng tỏ được sự cần thiết
của hệ thống NH trong phát triển nền kinh tế thị trường, là đòn bẩy của nền kinh tế.
1.2. Hoạt động huy động tiền gửi khách hàng của NHTM
1.2.1. Khái niệm và vai trò của tiền gửi khách hàng đối với hoạt động của NHTM
1.2.1.1. Khái niệm và kết cấu nguồn vốn của NHTM
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài chính
lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai trò chủ đạo
của các NHTM đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Để có
được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà các
NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được,
dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của các NHTM phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong sản
xuất kinh doanh được gửi vào NH với những mục đích khác nhau. NH đóng vai trò

tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu
cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn và các hoạt động về huy động vốn
quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của các
NHTM. Vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với việc thực hiện các chức
năng của NHTM.
Kết cấu nguồn vốn NHTM bao gồm : Vốn tự có, vốn huy động và vốn khác.
* Vốn tự có là nguồn lực tự có mà chủ NH sở hữu và sử dụng vào mục đích
kinh doanh theo luật định. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng, tùy theo tính
chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ NH, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Vốn tự có tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM song nó lại là
yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự tồn tại và phát triển của một NH. Mặt khác, với
chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin đối với khách
hàng, góp phần duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp NH gặp thua lỗ. Vốn tự
có cũng là căn cứ để tính toán các hệ số đảm bảo an toàn và các chỉ tiêu tài chính
trong hoạt động kinh doanh NH.
Trong thực tế, vốn tự có không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh
doanh của bản thân NH mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần đáng kể vào
vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, đồng thời góp phần vào nâng cao vị thế
của NHTM trên thương trường.
 Như vậy, vốn tự có là nguồn vốn ổn định, NH sử dụng một cách chủ động.
Do đó vấn đề đặt ra là NH phải bảo toàn và không ngừng tăng vốn tự có của mình
theo yêu cầu của sự phát triển hoạt động kinh doanh theo đúng chính sách, chế độ,
đồng thời phải sử dụng vào các mục đích đã định.
* Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà NH huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn huy động
là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, NH chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả
đúng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai
trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động của NH. Đây là khoản vốn chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt động sử dụng vốn tồn tại và phát triển được
là nhờ nguồn vốn huy động này.

- Vốn huy động từ tiền gửi: Khi một NH bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó NH
huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và dân cư. Đây là nguồn
vốn chủ yếu và quan trọng sử dụng để kinh doanh của NH, thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn vốn của NHTM và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các NH.
Vốn huy động từ tiền gửi bao gồm: tiền gửi khách hàng và tiền gửi khác (tiền gửi của
các tổ chức tín dụng, tiền gửi của kho bạc Nhà nước, tiền gửi của các đoàn thể xã hội
…)
- Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá: Trong hình thức này NH
chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát hành các giấy tờ có giá
như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu để bổ sung nguồn vốn kinh doanh của NH. Thông
thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những NH có uy tín hoặc trả lãi suất
cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Khả năng vay mượn này còn phụ thuộc vào trình
độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ
dài hạn của NH.
- Vốn đi vay từ các NH khác: Đối với nghiệp vụ này các NHTM tiến hành tạo vốn
cho mình bằng cách vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ và NHNN dưới hình
thức tái chiết khấu hay vay có bảo đảm, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của
bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. Thực
tế cho thấy, chi phí của vốn đi vay thường cao hơn chi phí của vốn huy động tại chỗ
cho nên nó chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NH. Tuy nhiên, tính chủ
động của vốn đi vay lại cao hơn vốn huy động tại chỗ.
* Vốn khác: Ngoài các nguồn vốn chủ yếu trên NHTM còn có các nguồn vốn
khác cũng không kém phần quan trọng như: vốn trong thanh toán, nguồn vốn uỷ thác
đầu tư...NHTM có thể sử dụng các nguồn vốn này để kinh doanh trong khoảng thời
gian và điều kiện nhất định.
 Tóm lại, NHTM có rất nhiều biện pháp nhằm thu hút tối đa các nguồn vốn
trong nền kinh tế, đó là: huy động các khoản tiền gửi; huy động thông qua phát hành
các giấy tờ có giá; huy động từ việc đi vay các NH khác. Vốn huy động đóng vai trò
rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHNN. Mặc dù bị giới hạn về

mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguốn vốn này thì không những
nguồn lợi của NH được tăng lên mà còn tạo cho NH uy tín ngày càng cao. Qua đó
NH có thể mở rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của NH.
1.2.1.2. Vai trò của tiền gửi khách hàng đối với hoạt động kinh doanh của NH
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải
có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng
đối với NH là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ”
nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NH lại càng có vai trò hết sức quan
trọng. Nói cách khác, nguồn vốn mà NH huy động được nhiều hay ít quyết định đến
khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng.
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động cổ điển và mang
tính đặc thù riêng có của NHTM. Đây cũng là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ
chức tín dụng phi NH. Quy mô của tiền gửi là rất lớn so với các nguồn vốn khác,
thông thường nó chiếm trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng của các
NH.
- Là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh
cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với
NHTM vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, là cơ sở để NH tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh của mình. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn điều lệ theo luật
định thì để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, việc đầu tiên mà NH phải làm là
huy động vốn, cụ thể là huy động tiền gửi khách hàng. Vốn huy động từ tiền gửi sẽ
cho phép NH cho vay, đầu tư... để thu lợi nhuận. Đồng thời, nguồn tiền này sẽ giúp
NH chủ động trong kinh doanh, tránh hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để
cho vay, vay để đầu tư, vay để thanh toán... Có thể nói, không có nguồn tiền gửi
khách hàng, NHTM sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Nghiệp
vụ huy động tiền gửi khách hàng góp phần giải quyết “đầu vào” của NH.
- Quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của NH
Ngoài vai trò là cơ sở để NH tổ chức các hoạt động kinh doanh, nguồn vốn từ
huy động tiền gửi khách hàng còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối

lượng tín dụng và các hoạt động khác của NHTM. Tiền gửi khách hàng chiếm tỷ
trọng lớn nhất và là nguồn vốn chủ yếu để NH tiến hành các hoạt động kinh doanh do
đó NH nào có nguồn tiền gửi huy động càng lớn thì khả năng cấp tín dụng cho nền
kinh tế và các hoạt động khác càng được mở rộng.
Thông thường, nếu so với các NH lớn thì NH nhỏ có khoản mục đầu tư cho
vay kém đa dạng hơn, phạm vi cho vay của các NH này cũng nhỏ hơn. Trong khi, các
NH lớn cho vay được tại các thị trường trong vùng, thậm chí trong nước và quốc tế,
thì các NH nhỏ bị giới hạn về phạm vi hoạt động hẹp, mà chủ yếu trong cộng đồng.
Thêm vào đó, do khả năng hạn hẹp nên các NH nhỏ không phản ứng nhạy bén với sự
biến động của lãi suất, giảm khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và
các thành phần kinh tế.
- Quyết định năng lực cạnh tranh của NH
Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh tế, một nguồn
tiền gửi huy động dồi dào sẽ tạo cho NH điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh,
đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo
dựng được uy tín cho NH. Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ,
phương tiện kỹ thuật hiện đại của NH là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư. Với tiềm năng vốn lớn từ hoạt động huy động tiền gửi, NH có đủ khả
năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay
mà còn mở rộng hình thức liên doanh, liên kết, kinh doanh trên thị trường chứng
khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong
hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho NH đồng thời tăng sức cạnh tranh của NH
trên thị trường.
- Mở rộng cơ sở khách hàng
Các NH thực hiện cho vay và nhiều hoạt động khác đều chủ yếu dựa vào nguồn
tiền gửi huy động vì đây là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của
NH, còn vốn tự có chỉ sử dụng trong những trường hợp cần thiết. Vì vậy, khả năng
huy động tiền gửi tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đối với NH trong việc mở rộng quan hệ
tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về
thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách

hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của NH sẽ
tăng lên nhanh chóng và NH sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh,
đảm bảo uy tín và năng lực trên thị trường.
Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động tiền gửi NHTM có thể đo lường
được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó, NHTM
có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy động tiền gửi để giữ vững
và mở rộng quan hệ với khách hàng.
 Với những vai trò hết sức quan trọng đó, các NH luôn tìm cách đưa ra
những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ những người gửi tiền cho
đến việc sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà quản trị NH
cũng luôn tìm cách để đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù hợp với tình hình chung
của nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết đưa NH đến thành công.
1.2.2. Các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của NHTM
Đây là hình thức huy động vốn mà NH huy động được từ các tổ chức kinh tế và
cá nhân trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm, thanh toán hộ, các
khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Đối với hầu hết các NH,
tiền gửi luôn là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NH .
Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày
càng cao, các NH đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động đa dạng. Tùy thuộc vào
tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý, người ta có thể phân loại tiền gửi thành nhiều hình
thức khác nhau.
Phân loại theo thời hạn
Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để
có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để NH xây dựng chiến lược dự
trữ phù hợp. Theo tiêu thức này, tiền gửi bao gồm: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi
có kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi đúng như tên gọi của nó là thời
gian gửi tiền không xác định, người gửi tiền có quyền rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi
suất thường thấp. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích
trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.

Hình thức này chủ yếu là mở cho các doanh nghiệp. Vì vậy, đây là bộ phận tiền chỉ
nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành.
Tiền gửi không kỳ hạn là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và
NH khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể huy động.
Do tính chất không ổn định của nó nên NH chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm
nhất định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và NH muốn sử dụng
thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng tiền này. Do vậy, quản lý tiền gửi
không kỳ hạn là một phần quan trọng của quản lý dự trữ trong các NH.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Ngược với tiền gửi không kỳ hạn, đây là loại tiền gửi có sự
thoả thuận giữa người gửi tiền và NH về số lượng, kỳ hạn, lãi suất của khoản tiền
gửi. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến thời
hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc trên thế
nữa.
Do có sự xác định rõ ràng về kỳ hạn, nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền
có sự ổn định cao, NH có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có thể
chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Chính vì lý do này
mà lãi suất của các khoản tiền gửi kỳ hạn thường cao hơn nhiều lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn. Bởi vì mục đích chính của việc gửi tiền vào NH là tiền lãi, do đó
thông thường thì lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, tức là khoản tiền gửi càng lâu thì lãi
suất càng cao và ngược lại.
Phân loại theo đối tượng
-Tiền gửi của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời nhàn
rỗi.Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với NH , họ đều có thể gửi tiết kiệm với mục tiêu
đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc biệt là nhu cầu bảo toàn.
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các NH đều khuyến khích dân cư thay đổi
thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các
hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn … Đây là một khu vực huy
động đầy tiềm năng cho các ngân hàng, và nguồn huy động từ dân cư này thường khá ổn
định.
- Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Các doanh nghiệp do yêu cầu của

hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào
NH để hưởng tiện ích trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ
với các đối tượng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế
và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các
khoản phải thanh toán nên NH luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải vì
sao đây là nguồn huy động chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, có chi phí thấp và
được sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có
hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp.
Phân loại theo mục đích
- Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi
vào NH, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng
tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng. Nó là một dạng đặc
biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Những người gửi tiền tiết kiệm là
những đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu
trong tương lai. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính
ổn định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua sắm nhà
cửa, phương tiện. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn .
- Tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá
nhân gửi vào NH để nhờ NH giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các
nhu cầu chi trả của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được NH thực hiện. Các khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán
theo yêu cầu. Lãi suất của khoản tiền này rất thấp , thay vào đó chủ tài khoản có thể được
hưởng các dịch vụ của NH với mức phí thấp. Mục đích của người gửi tiền không phải là
để hưởng thu nhập mà là hưởng các dịch vụ của NH. Thông thường các khoản tiền
gửi thanh toán có khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời NH có thể
sử dụng vào kinh doanh.
- Tiền gửi “lai” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch): Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có
thể yêu cầu NH thanh toán hộ, vừa có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi
tiết kiệm.Tuy nhiên, lãi suất của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết

kiệm bởi tính cố định của khoản gửi , NH có thể không sử dụng được hoặc sử dụng rất ít
số vốn huy động này để cho vay hoặc đầu tư.
Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi
- Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các NH, nó phụ thuộc vào
thu nhập trong nước và chiếm tỷ trong rất lớn trong tổng lượng tiền gửi.
- Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì NH còn nhận tiền gửi dưới dạng
ngoại tệ như USD, GBP, DEM,... những khoản ngoại tệ này cũng rất quan trọng cho
hoạt động NH như kinh doanh ngoại tệ trong nước, tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán
quốc tê,...
 Để dễ hình dung và nắm rõ hơn, có thể theo dõi các hình thức huy động tiền gửi
khách hàng của NHTM qua sơ đồ trang bên:
Hoạt động huy
động TGKH của
NHTM
Theo thời
hạn gửi
Theo đối
tượng gửi
Theo mục
đích gửi
Theo loại
tiền gửi
Không kỳ hạn
Có kỳ hạn
Dân cư
DN và TCXH
Nội tệ
Ngoại tệ
Tiết kiệm
Thanh toán

Tiền gửi lai
Sơ đồ 1.2: Các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của NHTM
Nguồn : www.saga.vn
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng huy động tiền gửi khách hàng của NHTM
1.2.3.1. Quy mô, tốc độ tăng trưởng nguồn tiền gửi
Quy mô nguồn tiền gửi được phản ánh qua khối lượng tiền gửi huy động được.
Trong tổng nguồn vốn của NH thì quy mô nguồn huy động từ tiền gửi là một bộ phận
chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Công tác huy động tiền gửi không
thể có hiệu quả khi mà nguồn tiền huy động lại không đạt được quy mô nhất định theo kế
hoạch huy động của NH hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh
doanh. Quy mô tiền gửi lớn sẽ tạo điều kiện cho NH mở rộng hoạt động kinh doanh của
mình. Ngược lại, quy mô tiền gửi thấp sẽ hạn chế khả năng tiếp cận của NHvới các khách
hàng có nhu cầu vay lớn, hạn chế khả năng mở rộng dịch vụ và quy mô hoạt động của
ngân hàng. Ngoài ra, có thể sử dụng chỉ tiêu Tổng tiền gửi/tổng vốn huy động để đánh giá
tỷ trọng của nguồn tiền gửi trong tổng nguồn vốn huy động được.
Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà NH cần quan tâm lúc này
là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó
khăn cho NH khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu NH không kiểm soát, không
dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào. Tốc độ tăng
trưởng lượng tiền gửi huy động được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô tiền
gửi hiện tại so với quy mô tiền gửi trong kì trước chia cho quy mô tiền gửi trong kì
trước. Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%),
trong đó Y là qui mô tiền gửi huy động trong năm trước của NH và y là tốc độ tăng
trưởng. Nguồn tiền gửi tăng đều qua các năm khi dY > 0, nghĩa là đạt mục tiêu về
nguồn huy động đặt ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn tăng trưởng ổn định.
1.2.3.2. Cơ cấu nguồn tiền gửi
Đối với NH, do mỗi nguồn tiền gửi có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong
việc khai thác và huy động nên cơ cấu tiền gửi biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu
“đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong
hoạt động kinh doanh. Một số chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nguồn huy động tiền gửi là:

- Tiền gửi không kỳ hạn/ Tổng tiền gửi và Tiền gửi có kỳ hạn/ Tổng tiền gửi: phản
ánh tỷ trọng nguồn tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn trong tổng tiền gửi. Nếu tỷ trọng
nguồn tiền gửi có kỳ hạn hạn có số lượng lớn chứng tỏ sự ổn định về thời gian của nguồn
tiền gửi là cao.
- Tiền gửi dân cư/Tổng tiền gửi và Tiền gửi của các doanh nghiệp tổ chức kinh tế xã
hội/Tổng tiền gửi: phản ánh tỷ trọng nguồn tiền gửi của dân cư và các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế xã hội trong tổng tiền gửi.
- Nội tệ/Tổng tiền gửi và Ngoại tệ/Tổng tiền gửi: phản ánh tỷ trọng tiền gửi nội tệ và
ngoại tệ trong tổng tiền gửi.
Cơ cấu nguồn tiền gửi huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của
NH mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi NH phải thường xuyên
nghiên cứu tiếp cận thị trường để xây dựng cơ cấu hợp lý.
1.2.3.3. Chi phí huy động tiền gửi
Có hai lý do chủ yếu mà NHquan tâm khi xác định chi phí huy động tiền gửi:
Thứ nhất, vì nguồn tiền gửi là nguồn tiền chủ yếu mà NHsử dụng để kinh doanh, do
đó tính toán tương đối chính xác chi phí huy động tiền gửi là yếu tố cơ bản để xác
định mức lợi nhuận mà NHcần thu được từ các tài sản có sinh lời. Thứ hai, do đặc
điểm loại hình nguồn tiền gửi mà NHhuy động được và việc sử dụng nguồn tiền gửi
này ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn. Do đó, phương
pháp xác định chi phí huy động tiền gửi rất hữu ích cho NHđể xây dựng chính sách
kinh doanh có hiệu quả, bao gồm chính sách huy động tiền gửi.
Chi phí huy động tiền gửi bao gồm: lãi suất huy động và các chi phí khác.
Lãi suất huy động: Đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế.
Người gửi muốn một lãi suất cao , người vay lại muốn lãi suất thấp. Là trung gian đóng
vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, NH phải tìm cách điều chỉnh mức lãi suất sao cho
hợp lý nhất đối với các bên , đồng thời phải đảm bảo lợi ích của NH. Vì vậy trong huy
động tiền gửi, mỗi NH đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được
những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn
đó để cho vay với một mức lãi suất chấp nhận được trên thị trường. Chi phí huy động
được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân (tính bằng bình quân

gia quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động
của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Mặt khác, cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân , sự đa dạng hoá trong lãi
suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết. Sự đa dạng hoá lãi suất làm
tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà NH đưa ra. Nếu có chính sách lãi suất phù
hợp, hiệu quả, NH sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn hoàn thành kế hoạch về
nguồn vốn.
Chi phí khác: Bên cạnh chi phí chính là lãi suất , trong quá trình huy động tiền gửi
còn có các chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động , chi phí in ấn phát
hành , chi phí cơ sở vật chất , chi phí giao dịch quảng cáo … Tuy chi phí này chiếm một tỷ
trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho
NH.
Ngoài các chỉ tiêu chính trên , chất lượng công tác huy động tiền gửi còn được
đánh giá qua một số chỉ tiêu :
- Mức độ hoạt động của tiền gửi huy động: Được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử
dụng vốn. Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến 1 càng tốt, điều này thể hiện nguồn vốn huy
động được sử dụng tối đa.
- Mức độ thuận tiện khách hàng : Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền , rút tiền ,
các dịch vụ kèm theo của NH …nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí cho khách hàng.
- Thời gian để huy động một số lượng tiền gửi nhất định.
- Một số chỉ tiêu khác như : số lượng tiền gửi bị rút ra trước thời hạn , kỳ hạn thực tế
của nguồn tiền gửi…
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động tiền gửi khách hàng của
NHTM
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Các hình thức huy động tiền gửi mà ngân hàng đang sử dụng
Xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu, tâm lý trong dân cư mà các hình thức đầu tư
của người dân, doanh nghiệp là khác nhau. Để có thể tiếp cận được nguồn tiền gửi của
khách hàng, các NH cần phải đáp ứng được nhu cầu của người gửi tiền, giúp cho họ tìm
được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất. Do đó, khối lượng vốn mà NH huy

động được phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động tiền gửi mà NH áp dụng.
Cụ thể, khi các NHTM đưa ra các hình thức huy động tiền gửi ngày càng đa dạng và
hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống mạng lưới hoạt động và nâng cao chất lượng các
dịch vụ, NH sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với NH, đáp ứng được nhu cầu
của nhiều đối tượng khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho NH trong việc huy động tiền
gửi. Ngược lại khi các hình thức huy động của NH chưa đa dạng, phong phú, chất lượng
hoạt động dịch vụ chưa cao, hệ thống mạng lưới còn ít chưa thuận lợi cho khách hàng
trong việc giao dịch với NH, thì nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới khả năng huy động tiền
gửi của NH .
1.3.1.2. Lãi suất huy động
Lãi suất huy động là một trong những mối quan tâm của hầu hết các cá nhân,
tổ chức và dân cư muốn gửi tiền vào NH. Tuy nguồn tiền gửi không chỉ phụ thuộc
vào lãi suất cao mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như kỳ hạn, mức độ rủi ro,
điều kiện thanh toán, uy tín, địa điểm ... của NH nhưng với mức lãi suất linh hoạt,
hợp lý thì luôn có tác dụng kích thích người gửi tiền, đặc biệt là các đối tượng gửi
tiền với mục đích chủ yếu là hưởng lãi như tiền gửi tiết kiệm. Điều này hoàn toàn
hợp lý vì trong nền kinh tế, lĩnh vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được
nhiều người tham gia đầu tư hơn. Như vậy, lãi suất là nhân tố ảnh hưởng vì nó quyết
định NH huy động được bao nhiêu nhiều hay ít, đặc biệt trong bối cảnh các NH chủ
yếu cạnh tranh bằng lãi suất.
1.3.1.3. Chất lượng dịch vụ NH cung cấp
Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp NH cạnh trạnh phi lãi suất vì khách hàng mà
NH phục vụ hiện nay không chỉ quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến chất lượng và
loại hình dịch vụ mà NH cung ứng. Với cùng một lãi suất huy động như nhau, NH nào
cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh
tranh sẽ cao hơn. Chất lượng dịch vụ thể hiện ở trình độ công nghệ của NH, trình độ
nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên NH.
Với một NH có cơ sở vật chất càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến sẽ
mang lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ cho khách
hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng yên tâm hơn

khi gửi tiền ở một NH có trình độ công nghệ NH cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên
tâm gửi tiền thì NH sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động.
Trình độ nghiệp vụ của cán bộ NH là điều kiện quan trọng để thực hiện tốt các
nghiệp vụ NH bởi họ chính là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Cán bộ
NH chuyên nghiệp, nhiệt tình chu đáo, có để lại ấn tượng tốt đẹp với khách hàng thì
hình ảnh của NH trong mắt khách hàng sẽ tốt hơn rất nhiều. Nhưng nếu họ không
được đào tạo bài bản, được huấn luyện các kỹ năng, thái độ phục vụ không tốt sẽ ảnh
hưởng tiêu cực tới hình ảnh ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới công tác huy động tiền
gửi khách hàng.
1.3.1.4. Uy tín của Ngân hàng
Uy tín của NH cũng có ảnh hưởng nhất định đối với lượng tiền gửi huy động.
Có thể coi đây chính là tài sản vô hình của NH, đặc biệt trong công tác huy động tiền gửi
vì NH đã tạo được một hình ảnh riêng của mình trong lòng khách hàng. Một NH lớn, sẵn
có uy tín sẽ có lợi thế hơn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho NH có khả năng
ổn định khối lượng tiền gửi huy động và tiết kiệm chi phí huy động, từ đó, NH có thể
đề ra chiến lược dự trữ dễ dàng hơn. Thậm chí trong điều kiện lãi suất gửi tiền tại NH
uy tín có thấp hơn đôi chút, những người có tiền vẫn lựa chọn NH đó để gửi mà
không tìm những nơi trả lãi hấp dẫn hơn vì họ tin rằng ở đây đồng vốn của mình sẽ
tuyệt đối an toàn.
1.3.1.5. Chính sách truyền thông Marketing
Truyền thông Marketing là việc NH sử dụng các công cụ truyền tin để cung
cấp thông tin, hình ảnh, dịch vụ NH nhằm xây dựng mối thông tin hai chiều giữa NH
và khách hàng nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Một NH với quy mô lớn, mạng lưới
rộng khắp chắc chắn sẽ tạo ra uy tín, sự tin tưởng đối với khách hàng đến gửi tiền, hoạt
động quảng bá sẽ dễ dàng hơn, tiếp xúc với khách hàng sẽ dễ dàng hơn.
Mỗi NH tùy theo chiến lược phát triển sẽ có chính sách truyền thông Marketing
khác nhau, sử dụng các công cụ khác nhau của riêng mình: quảng cáo, khuyến mại,
quan hệ công chúng, … Mỗi chính sách sẽ mang lại những hiệu quả khác nhau,
nhưng nhìn chung đều hướng tới mục tiêu quảng bá hình ảnh ngân hàng. Chính sách
Marketing thành công sẽ là cầu nối giữa NH với khách hàng, góp phần thu hút được

lượng khách gửi tiền đông đảo, chi phí thấp.
1.3.1.6. Mối quan hệ giữa huy động và sử dụng tiền gửi khách hàng
Hoạt động của NH gồm hai khâu cơ bản là huy động và sử dụng vốn. Đây là hai
vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau, giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả đồng vốn. Hoạt động huy động tiền gửi làm nhiệm vụ khơi tăng các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế trong khi hoạt động nghiệp vụ sử dụng vốn thực
hiện sử dụng nguồn tiền đó vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.... để đem lại khả năng sinh
lời, thu lợi nhuận về cho NH.
Do vậy, nếu sử dụng vốn không hiệu quả tất yếu dẫn đến việc thất thoát vốn: một
phần sẽ làm giảm lợi nhuận của NHtrong khi chi phí huy động không thay đổi, mặt khác
dẫn đến giảm sút lòng tin của dân chúng vào NH. Từ đó sẽ rất khó khăn cho các hình thức
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi, kết quả là quy mô huy động tiền gửi bị thu hẹp lại. Mặt
khác, nếu NH sử dụng vốn có hiệu quả tạo cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế kinh
doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, đời sống của
dân cư ngày càng nâng cao, nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng tăng, tạo tiền đề cho nguồn tiền
gửi NH huy động ngày càng tăng trưởng để thực hiện đầu tư cho các chu kỳ sản xuất tiếp
theo.
1.3.2. Nhân tố khách quan
1.3.2.1. Chu kỳ phát triển kinh tế
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp
đến mọi hoạt động của của NHTM nói chung và hoạt động huy động tiền gửi nói riêng.
Các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tình trạng thất nghiệp, lạm phát …
có tác động trực tiếp tới hoạt động huy động và sử dụng vốn của NHTM.
Cụ thể, trong điều kiện nền kinh tế phát triển ổn định, thu nhập dân cư được
đảm bảo và ổn định thì nguồn tiền vào ra của các NH cũng ổn định, lượng tiền gửi
huy động được của NH ngày càng tăng lên và cơ hội đầu tư cho vay của NH cũng
được mở rộng do lòng tin của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Nếu nền kinh tế suy
thoái, thu nhập dân cư biến động thì lòng tin về đồng tiền của dân chúng bị giảm sút.
Khi đó khả năng huy động tiền gửi của NH không những bị giảm xuống mà lượng
tiền dân cư đã ký gửi vào NH cũng có nguy cơ bị rút ra. Và như vậy NH sẽ gặp khó

khăn trong công tác huy động tiền gửi, quản lý dự trữ và củng cố niềm tin cho khách
hàng.
1.3.2.2. Môi trường chính trị pháp luật
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định.
Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ
vốn của NH với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này cũng là nhân
tố ảnh hưởng tới công tác huy động tiền gửi khách hàng của NH.
Như chúng ta đã biết, hoạt động của NH có mức độ ảnh hưởng, tác động hết sức
mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể, việc huy động tiền gửi và sử
dụng vốn của NH đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập
của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát … Chính vì
lẽ đó, hoạt động của NH phải chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanh
nghiệp khác. Thực tế là NH phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều luật định của chính phủ,
NHNN: và hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ,
hạn mức… Trong sự ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động tiền gửi
bị thay đổi làm ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng của hoạt động huy động.

×