Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU TRÍCH THIÊN ĐƯỜNG CỦA TRÁI TIM CỦA TÁC PHẨM LÝ LUẬN DẠY HỌC VĨ ĐẠI JAN AMOS KOMENSKY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.66 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM

Bài tập môn học: Lịch sử tư tưởng giáo dục Việt Nam

NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU TRÍCH
“ THIÊN ĐƯỜNG CỦA TRÁI TIM”
CỦA TÁC PHẨM LÝ LUẬN DẠY HỌC VĨ ĐẠI
JAN AMOS KOMENSKY

Học viên thực hiện: Hoàng Thu Hồng
Lớp cao học QLGD khoá 18

Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2009
1


MỤC LỤC

I/ Tiểu sử Jan Mos Komensky
II/ Sự ra đời của tác phẩm
III/ Tóm tắt tài liệu trích
Chương XII: Nhà trường có thể cải cách cho tốt hơn
Chương XVI: Những yêu cầu phổ biến của việc dạy
Và việc học, nói khác đi là dạy và học bằng cách nào
để đạt kết quả chắc chắn

2

Trang 2
Trang 4


Trang 5
Trang 5
Trang 6


Tiểu sử JAN AMOS KOMENSKY:
Jan Amos Komensky (còn có tên Latinh là Comenius) sinh ngày 26 tháng
3 năm 1592 tại một làng nằm trong thị trấn Vhersky Brod thuộc sứ Môrava,
miền trung Cộng hoà Séc. Dòng họ Komensky thuộc tầng lớp những người
trung lưu và được trọng vọng. Ông thân sinh của J.A Komensky là một chủ
Xưởng xay bột ở ven thị trấn.
Thời niên thiếu, Komensky đã trải qua những năm ttháng đau khổ lận đận.
Năm 12 tuổi bố và mẹ của J.A Komensky lần lượt qua đời vì dịch bệnh. J.A
Komensky được bà Zusana mang về nuôi nhưng do tình hình chiến tranh khiến
ông phải dời đi nơi khác.
Năm 16 tuổi, Komensky học chuyên tiếng La Tinh tại trường trung học
thành phố Prerov. Nhờ có trí thông minh và học giỏi, Komensky được gửi sang
Đức để học đại học và tốt nghiệp khoa Thần học tại Học viện Herbon.
Năm 1614 ông trở về nước và dạy học tại trường cũ. Tại đây ông lập gia
đình và có hai con, nhưng rồi cảnh loạn lạc và dịch bệnh đã cướp đi vợ và hai
con của ông. Đất nước xứ Xêkhy sau cuộc khởi nghĩa thất bại của những người
yêu nước ủng hộ phong trào cải cách xã hội và chống lại triều đại Hăpxua, cuối
năm 1620 xứ Xêkhy rơi vào tình trạng mất nước; nhà cầm quyền áp dụng những
chính sách trả thù tàn bạo những người tham gia khởi nghĩa; còn các tầng lớp tri
thức yêu nước thì bị truy nã, giam cầm và buộc phải dời tổ quốc nếu không theo
đạo Thiên chúa. Komensky cũng đã phải hứng chịu số phận nghiệp ngã đó. Sau
thời gian trốn tránh sự truy nã của chính quyền. Năm 1628 Komensky (lúc đó 36
tuổi) buộc phải dời tổ quốc sang Ba Lan cùng với những người đồng hương
chung cảnh ngộ. Từ đó, ông đã lưu lạc sang nhiều nước như Thuỵ Điển, Anh,
Hungary và cuối cùng là Hà Lan.

14 năm cuối đời, ông được người bạn là Louisde Geer mời sang sống tại
Amstecdam, có lẽ đây là thời kỳ nở rộ nhất của Komensky trên con đường sự
nghiệp. Ông đã xuất bản ít nhất 135 ấn phẩm bằng tiếng La Tinh và tiếng Séc
bao gồm các Sách giáo khoa, sách về phương pháp giảng dạy, từ điển, sách văn
học, triết học và cả bản đồ nước Tiệp. Cuộc sống tha hương của ông kéo dài cho
đến cuối cuộc đời.
Komensky qua đời vào ngày 15 tháng 11 năm 1670 tại Hà Lan (thọ 78
tuổi). Thi hài của ông được chôn cất tại một vùng ngoại ô Amstecdam. Một thời
gian dài, ngôi mộ rơi vào quên lãng. Mãi đến năm 1937 (tức là 267 năm sau)
chính phủ Tiệp khắc mới có điều kiện tìm kiếm xác định phần mộ và dựng
tượng tài kỷ niệm ngay tại thị trấn Naarden là nơi Komensky yên nghỉ trên đất
Hà Lan.
Nhắc đến Jan Amos Komensky chúng ta nghĩ đến một nhà giáo Tiệp khắc
yêu nước, nhà sư phạm lỗi lạc của thế giới, được người đời thừa nhận là “ông tổ
của nền giáo dục cận đại”; không những là nhà lí luận, ông còn tích cực lao
mình vào những hoạt động thực tiễn, viết sách giáo khoa, cải tạo nhà trường vì
mục đích cao cả. Cống hiến lớn nhất của ông là những sách viết về phương pháp
3


dạy học mà chúng ta gọi là lý luận sư phạm, tác phẩm “lý luận dạy học vĩ đại”
(1632) của ông đã đi vào lịch sử như một cái mốc đánh dấu sự ra đời của lý luận
giáo dục và nhà trường hiện đại. Trên thế giới, các chuyên gia sư phạm coi
Komensky là người đặt nền móng cho “Lý luận dạy học tiên tiến, hiện đại” và
người ta gọi ông là “Nhà giáo của các dân tộc” (Teacher of Nations)
Sự ra đời của tác phẩm
Chế độ phong kiến Tây Âu được bắt đầu từ năm 476, năm lụi tàn của chế
độ La Mã và kết thúc năm 1453 với việc xác lập đế quốc Constantinople (hay
bằng khởi đầu của thời kỳ Phục Hưng 1517).
Trong bầu không khí của chế độ mới những tư tưởng nhân văn tràn đầy

nhựa sống của nền văn minh Hy Lạp cổ đại trở nên ế thừa chìm vào quên lãng.
Đời sống kinh tế, văn hoá – xã hội đầy biến động và đảo lộn. Nền tảng của xã
hội là sản xuất nông nghiệp. Các lãnh địa phong kiến mọc lên nhan nhản. Vị trí
của cá nhân phụ thuộc vào vị trí của dòng họ. Xã hội là một cái thang tôn ti trật
tự phức tạp. Nếu trên cùng là bậc quân Vương với quyền lực vô song, thì tận
cùng là nông dân và thợ thủ công bị bóc lột nặng nề. Không chỉ có phong kiến
quý tộc giữ vai trò thống trị mà ở thời kỳ lịch sử này, giới tăng lữ, giáo hội và
nhà thờ đã thiết định một sứuc , mạnh chưa từng có của thần quyền, có khả năng
chi phối cả quyền lực chính trị. Toàn bộ khuôn mặt của thời kỳ Trung cổ đã
được Engel đánh giá như sau: “Thời kỳ Trung cổ đã phát triển một cách hoàn
toàn thô sơ. Nó đã xoá sạch nền văn minh cổ đại, nền triết học, chính trị, luật
học cổ đại. Để lại bắt đầu tất cả ngay từ đầu”.
Khi bóng tối của đêm trường Trung cổ đã bị ánh sang bình minh của nền
công nghiệp chói rọi thì Tây Âu đã có bước chuyển dữ dội, chuyển sang thời kỳ
Phục Hưng, thời đại phục sinh nền văn hoá cổ đại Hy Lạp dường như bị lãng
quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu. Xét
về bản chất kinh tế, thời kỳ Phục Hưng là giai đoạn quá độ của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng.
Người nông dân bị đẩy ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của kẻ cường hào đã
tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Các công trường thủ công dần dần
lấn át cách làm ăn theo kiểu phường hội phong kiến. Các chủ thủ công nghiệp
ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Họ trở thành giai tầng mới
nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản. Trong khi người nông dân do không
còn ruộng đất phải ra thành phố tìm kế sinh nhai bằng cách làm thuê cho các
công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp công nhân sau này. Chế độ
phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó đã bước vào giai
đoạn lụi tàn, phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ công trào dâng
khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không chỉ đòi
xoá bỏ mọi đặc quyền đặc lợi của chế độ phong kiến, những chướng ngại trên
con đường phát triển theo xu hướng tư bản chủ nghĩa mà còn chĩa mũi nhọn vào

giáo hội La Mã, thành luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong
4


trào đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả
sự phát triển của những tư tưởng giáo dục.
Komensky sống trong thời kỳ phục hưng, giai đoạn vừa bước qua thời kỳ
Trung cổ. Bối cảnh thời kỳ này, tình hình tổ chức trường lớp và công việc giảng
dạy ở Tiệp khắc cũng như các nước Châu Âu mang nặng tính sách vở, kinh viện,
không có hệ thống, kiến thức nhà trường xa rời cuộc sống. Đó là những điều mà
Komensky không thể bỏ qua. Tác phẩm này được Komensky viết (bằng tiếng
Séc) trong những năm sống lưu vong tại Hà Lan với hy vọng sẽ góp phần cải
cách nền giáo dục nước nhà sau chiến tranh. Do không có hy vọng trở về tổ
quốc nên sau đó ông đã dịch ra tiếng La Tinh và xuất lần đầu tiên vào năm 1657
tại Amstecdam (Hà Lan) lấy tên sách là Opera didactika omnia.
Trong tác phẩm của mình, Komensky chủ trương việc giáo dục con người
phải được tiến hành theo quy luật chung của tạo hoá bởi lẽ con người chẳng
những là một thành viên mà còn là một sinh vật hoàn thiện nhất của tạo hoá.
Xuất phát từ những kinh nghiệm chuyên môn và quan niệm triết lý của mình,
Komensky đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể trong công việc giáo dục. Tác phẩm
này ngay sau khi ra đời đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng Châu Âu và được
coi là những nguyên tắc lý luận làm cơ sở cho nền giáo dục hiện đại sau này.
Tóm tắt tài liệu trích “Thiên đường của trái tim” của tác phẩm “Lý luận
dạy học hiện đại”

Chương XII: Nhà trường có thể cải cách cho tốt hơn (nguyên bản
dịch)
Có thể điều chỉnh tên chương này là “Tìm hiểu đối tượng giáo dục - dạy
học” vì trong chương này tác giả đã phân chia ra 6 diện trẻ có sự khác biệt về
khả năng trí tuệ, với mỗi diện trẻ đó nhà giáo dục cần có biện pháp, phương

pháp giáo dục cho phù hợp để giáo dục trẻ trở thành người tốt.
Komensky cho rằng ở vị trí hàng đầu (diện thứ nhất) là những em sắc xảo,
ham hiểu biết và lanh lợi. Những em này có khả năng tốt nhất trong việc học
tập. Đối với những em thuộc diện này không cần cung cấp gì khác ngoài những
hạt giống trí tuệ, những hạt giống đó sẽ tự nảy mầm và mọc lên xanh tốt như
những loài cây đã được chọn giống. Có chăng là phải thận trọng để những hạt
giống đó đừng bị thúc ép một cách quá vội vàng, làm như thế chúng sẽ sớm bị
thui chột trước tuổi.
Diện thứ hai là những em hóm hỉnh, thiếu triệt để nhưng biết nghe lời.
Với những em thuộc diện này chỉ cần có sự quan tâm đúng mức.
Diện thứ ba là những em hiếu học nhưng ương ngạnh, ngang bướng,
những em này thường bị ghen ghét và được coi là bỏ đi. Trên thực tế, những em
như thế nếu được dạy dỗ đến nơi đến chốn lại thường là những người nổi tiếng
sau này.
Diện thứ tư là những em chậm chạp, tuy chăm học nhưng chậm tiếp thu.
Tuy vậy, những em thuộc loại này có khả năng bước theo vết chân của những
5


người đi trước. Để giúp số em này làm được điều đó, chúng ta phải hạ thấp yêu
cầu đối với chúng bằng cách không đặt ra cho chúng những bài tập khó, không
thúc bách chúng bằng những đòi hỏi chớp nhoáng. Ngược lại trong mọi trường
hợp, ta cần kiên trì, tận tình giúp đỡ, động viên tư duy và tính năng động của
chúng. Những em đó có thể tới đích chậm nhưng vững vàng, ta có thể ví chúng
như một lứa quả chin muộn, như ta đóng con dấu trên lớp chì, tuy khó nhưng
bền lâu. Số học sinh nhận thức chậm trên đây lại thường có trí nhớ lâu bền hơn ở
những em có năng khiếu và một khi chúng đã nhập tâm được điều gì, thường
điều đó không dễ dàng phai mờ trong trí nhớ của chúng. Vì vậy không được loại
bỏ những em thuộc diện này ra khỏi sự giáo dục của nhà trường.
Diện thứ năm là những em đần độn lại thường chểnh mảng, lơ mơ. Những

em nào bướng bỉnh thì vẫn có thể uốn nắn. Tuy nhiên đối với đối tượng này cần
có một nghệ thuật lớn và hết sức kiên nhẫn.
Diện cuối cùng (thứ sáu) là những em thuộc diện đần độn mà tính tình
đồng thời lại quanh co, ngang bướng, loại này thường không nên cơ sự gì.
Những bởi lẽ trong toàn bộ thiên nhiên thế nào cũng tìm được phương thuốc loại
trừ các bệnh nan giải và từ những cây mọc hoang dại trong tự nhiên, nếu biết xử
lý cũng có thể biến thành những cây ươm trồng, cho nên chúng ta không được
phép hoàn toàn tuyệt vọng mà phải để tầm mắt đến chúng, ít ra cũng có thể ngăn
chặn và loại bỏ cái tính ngang bướng của chúng. Chỉ khi cùng cực, bất đắc dĩ
mới chấp nhận những thân gỗ cong, nhiều mắt, sẹo. Có điều những hiện tượng
như thế chỉ mới xuất hiện trong muôn mặt, âu cũng là bằng chứng về long tốt
của trời.
Như vậy tác giả đã đề cao vai trò quyết định của nhà nhà giáo dục trong
việc dẫn dắt học sinh một cách đúng đắn để đứa trẻ trở thành người tốt. Điều đó
đòi hỏi nhà giáo dục phải có những biện pháp thích hợp với từng loại trẻ em có
các sự khác biệt khả năng trí tuệ khác nhau. Điều này như Plutach đã nói “Đứa
trẻ ra đời như thế nào - điều đó chẳng ai có thể quyết định được nhưng dẫn dắt
một cách đúng đắn để đứa trẻ trở thành người tốt - điều đó lại tuỳ thuộc vào khả
năng của chúng ta”.

Chương XVI: Những yêu cầu phổ biến của việc dạy và việc
học, nói khác đi là việc dạy và học bằng cách nào để đạt kết quả
chắc chắn (nguyên bản dịch)
Có thể đổi tên chương này lại là “ Những nguyên tắc chung của việc dạy
học” bởi vì trong chương này cũng như xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm, quan
điểm Komensky cho rằng con người là một thực tế của tụ nhiên, vì vậy việc giáo
dục con người phải phù hợp với quy luật tự nhiên; các nguyên tắc dạy học và
giáo dục của ông nêu lên luôn luôn được rút ra từ những quy luật chung của tạo
hoá.
6



Nội dung trong chương này và các chương kế tiếp được tác giả trình bày
theo cấu trúc:
- Nêu nguyên tắc
- Nêu các ví dụ song hành trong tự nhiên và trong xã hội
- Phê phán, đối chiếu với các tồn tại của dạy học – giáo dục
- Đưa ra lời khuyên, đây chính là những đề nghị mà nhà trường và nhà
giáo dục phải cải tiến để đảm bảo hiệu quả trong giáo dục.
Cụ thể trong chương này, tác giả đã nêu ra 9 nguyên tắc chung về phương
pháp trong dạy học – giáo dục để bảo đảm đạt được những mục tiêu như:
Nguyên tắc 1: Tạo hoá luôn quan tâm đến thời gian thích hợp (Chọn đúng
thời gian, thời điểm trong dạy học – NV)
Tác giả đã rút ra nguyên tắc này dựa trên ví dụ con chim sinh nở vào mùa
xuân; người làm vườn gieo hạt giống vào mùa xuân và trong quá trình sinh
trưởng của cây, người làm vườn biết đến giai đoạn nào thì phải chăm sóc cây
như thế nào cũng như người thợ xây phải làm những việc gì vào thời điểm nào.
Đối chiếu với nguyên tắc này, công việc nhà trường đang bị vi phạm ghê
gớm bởi lẽ người ta không chọn đúng thời điểm để rèn luyện tâm tính cho học
sinh cũng như không phân chia một cách chính xác nội dung học theo mức độ
và trình tự.
Từ đó tác giả đã đưa ra lời khuyên: Việc tu luyện con người cần bắt đầu
vào mùa xuân của cuộc đời, tức là tuổi ấu thơ; những giờ buổi sáng là thời điểm
minh mẫn hơn đối với việc học tập vào buổi trưa hoặc buổi chiều; đồng thời
phải phân chia nội dung học tập theo độ tuổi, đừng để điều gì vượt quá khả năng
nhận thức của học sinh (tính vừa sức – NV)
Nguyên tắc 2: Tạo hoá bao giờ cũng chuẩn bị hoàn tất chất liệu trước khi
triển khai sự hình thành tạo vật (Làm tốt công tác chuẩn bị trong dạy học – giáo
dục – NV)
Tác giả đã rút ra nguyên tắc này dựa trên ví dụ con chim chuẩn bị cho quá

trình sinh nở và trưởng thành như thế nào; người thợ xây phải làm những việc gì
để chuẩn bị khi bắt tay xây dựng một căn nhà; người hoạ sĩ cần chuẩn bị gì
trước khi vẽ một bức tranh; người gieo hạt cần chuẩn bị gì cho việc gieo hạt
giống.
Đối chiếu với nguyên tắc này, các nhà trường chưa làm tốt việc chuẩn bị
các học cụ, điều kiện trước khi dạy học; sách giáo khoa thì hình thức đi trước
nội dung, phương pháp giảng dạy tiếng và dạy các môn học chưa hợp lý, xem
nhẹ vai trò của phương pháp trực quan.
Từ đó, tác giả đưa ra lời khuyên: cần chuẩn bị đầy đủ các phương tiện
trước khi dạy học; dạy kiến thức gắn với dạy ngôn ngữ; học tiếng không nên học
ngữ pháp thuần tuý mà phải thông qua văn chương; nội dung khoa học đi trước
tổ chức; ví dụ đi trước luật định.

7


Nguyên tắc 3: Để thực hiện chức năng của mình, tạo hoá luôn tiếp nhận
những vật phù hợp hoặc làm cho nó phù hợp trước khi tiếp nhận (Dạy học –
giáo dục những gì phù hợp hoặc tạo ra sự phù hợp trước khi dạy học – NV)
Tác giả rút ra nguyên tác này từ việc con chim chỉ ấp trong tổ quả trứng
của mình, người thợ xây dựng lựa chọn và chuẩn bị những nguyên vật liệu phù
hợp với nhu cầu xây dựng của mình; người họa sĩ trau chuốt khung vải và màu
nền phù hợp cho bức vẽ của mình; người làm vườn lựa chọn giống cây tốt để
chiết cành và khi cây đã mọc rễ thì mới chiết cành mới và cắt bỏ những cành
xung quanh để cho nhựa cây tập trung nuôi cành mới.
Đối chiếu với nguyên tắc trên đây, các trường học thường có những vi
phạm, không phải là do tiếp nhận những trẻ em yếu kém (bởi vì dụng ý của
chúng ta là mọi trẻ em đều được học) mà là ở chỗ: không giao phó tất cả trẻ em
cho nhà trường đào tạo để chúng thành người, để đừng một em nà o rời khỏi
xưởng đào tạo mà chưa học hành đến nơi đến chốn; nhà trường thường đòi hỏi

các em về kiến thức, đạo đức và niềm tin khi mà các em chưa được tạo nên
lòngham học tập ở những em đó; nhà trường thiếu giáo dục tư tưởng để học sinh
giữ được kỷ luật, làm quen với trật tự và tránh những việc làm vô ích.
Từ đó tác giả đưa ra lời khuyên: bất cứ một em nào khi đã được giao phó
cho nhà trường, cần phải theo đuổi đến cùng; khi đã chọn bất cứ môn học nào,
trước đó cần tác động vào ý thức của học sinh trước; cần tháo gỡ những trở ngại
cho học sinh trong quá trình giáo dục – đào tạo. Bởi vì như lời Seneca đã nói:
“Việc bạn đặt ra những quy định nhưng trước đó không gạt bỏ những trở ngại
trên đường thực hiện các quy định thì sẽ là vô hiệu.
Nguyên tắc 4: Trong quá trình tiến triển, tạo hoá không hành động chồng
chéo mà có phân định và giải quyết phân minh từng việc (Không tiến hành hoạt
động dạy học – giáo dục một cách chồng chéo mà có sự phân định và giải quyết
phân minh từng việc – NV)
Tác giả rút ra nguyên tác này từ quả trứng chim được ấp và chim con
được hình thành từ những bộ xương, các mạch máu, cơ bắp, da thịt, long tơ,
long cánh… rồi dần dần chim con mới tập vỗ cánh bay; cũng như người thợ xây
không làm cùng lúc nhiều việc mà mỗi việc phải làm đúng lúc đúng chỗ; người
hoạ sĩ không cùng lúc vẽ nhiều bức tranh mà chỉ tập trung hoàn thành một tác
phẩm chính trong thời điểm nhất định; người làm vườn bao giờ cũng tiến hành
lần lượt theo một trình tự ấn định đối với từng cây, có thế mới không bị chồng
chéo và không làm tổn thương cho thiên nhiên; người khâu giầy và người làm
bánh phải hoàn tất từng chiếc rồi mới sang cái khác.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu “Một sự chồng chéo đã diễn
ra trong nhà trường khi cùng một lúc người ta nhồi nhét cho học sinh nhiều điều
lẫn lộn”.
Tác giả đã đưa ra lời khuyên: Nhà trường không nên để học sinh khi đang
học môn học này lại bị phân tán, rối trí bởi môn học khác bởi vì hãn hữu mới có
trường hợp một người có khả năng lĩnh hội được nhiều nội dung khác nhau cùng
8



một lúc. Do vậy, nhà trường khi dẫn dắt học sinh cần tập trung vào một môn học
trọng tâm vào những thời điểm nhất định.
Nguyên tắc 5: Trong mỗi công việc, tạo hoá bắt đầu từ bên trong (Dạy
học- giáo dục phải bắt đầu từ cái bên trong (bản chất) – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc con chim non chuẩn bị ra đời được
tạo hoá hành thành từ phần ruột bên trong rồi mới đến cái móng, bộ long, đôi
cánh bên ngoài; Người làm vườn chiết cây sâu vào bên trong thân cây chứ
không phải chiết cây bên ngoài lớp vỏ; cây xanh sống nhờ việc hấp thu chất dinh
dưỡng qua các tế bào; động vật không nạp thức ăn vào các chi bên ngoài mà nạp
thức ăn vào dạ dày từ đó thức ăn mới được chế biến, hấp thu và chuyển vào cơ
thể.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu ra “Sự khiếm khuyết của
giáo viên thường là ở chỗ họ muốn cho thanh niên đạt trình độ hiểu biết bằng
cách ấn định và nhồi nhét cho chúng biết bao thứ phải học thuộc lòng mà không
có sự giảng giải chu đáo. Nhưng lại có giáo viên muốn giảng giải cho học sinh
thì lại không có phương pháp, không biết đâu là cụm rễ nào cần phải tưới bón
nhẹ nhàng và từ đó chiết ra cành nhận thức. Chính vì vậy, người ta đã làm uổng
học sinh.
Từ đó tác giả đưa ra lời khuyên: trước hết cần hình thành sự cảm thụ nội
dung rồi sau đó mới bàn đến trí nhớ, cái lưỡi và bàn tay; người giáo viên phải
quan tâm tìm tòi mọi con đường dẫn tới với việc mở mang trí tuệ và tận dụng
hợp lý những con đường đó.
Nguyên tắc 6: Tạo hoá khai trương toàn bộ sự sang tạo của mình bắt đầu
từ cái tổng thể rộng nhất và kết thúc bằng những tình tiết chi li nhất (Dạy học –
giáo dục theo nguyên tắc từ tổng thể trước rồi sau đó mới phân tích một cách chi
tiết – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc con chim ủ ấm quả trứng trong quá
trình ấp trứng để các chất liệu bên trong trứng hình thành dáng dấp chung rồi từ
đó mới định hình cái đầu, đôi cánh, đôi chân…; nhà xây dựng trước hết hình

dung trong đầu của mình toàn bộ ngôi nhà rồi sau đó vẽ phác trên giấy hoặc làm
một mô hình rồi sau đó mới thực hiện những bộ phận chi tiết của ngôi nhà như
cửa, hàng hiên, trang trí nội thất…; người họa sĩ khi vẽ chân dung bao giờ cũng
vẽ phác thảo hình dáng khuôn mặt rồi sau đó mới vẽ đến các chi tiết như mắt,
mũi, miệng…; nhà điêu khắc muốn làm một pho tượng gỗ thì trước tiên phải
đẽo phác bề ngoài khúc gỗ để tạo dáng, rồi sau đó mới thực hiện một cách chi
tiết một cách thận trọng và cuối cùng mới phủ sơn.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Sẽ sai lầm nếu chỉ phổ biến
kiến thức từng phần mà ngay từ đầu không cung cấp cho học sinh cái nhìn tổng
quát. Không ai có thể trở thành người uyên bác khi chỉ hiểu thấu đáo ngành của
mình mà không biết đến các ngành khác.
Từ đó, tác giả đưa ra lời khuyên: Đối với học sinh chuyên ngành, trước
khi nhập môn cần có bài giảng khái quát làm cơ sở, tức là cần trang bị cho học
9


sinh những kiến thức khởi điểm để khi đi sâu chúng khỏi ngỡ ngàng, chúng sẽ
thấy đó chỉ là sự nối tiếp của môn học; khi học tiếng hoặc các môn nghệ thuật,
mở đầu cần trang bị cho học sinh những kiến thức giản lược dể học sinh có cái
nhìn khái quát, sau đó mới đưa ra những định lý và ví dụ một cách đầy đủ hơn,
sau đó mới gắn những ngoại lệ với hệ thống những thông lệ một cách đầy đủ
hơn, cuối cùng là những lời thuyết minh chỉ đưa ra khi cần thiết.
Nguyên tắc 7: Tạo hoá không phát triển nhảy vọt mà tuần tự từng bước
Dạy học – giáo dục phải theo tuần tự, từng bước hợp lý phù hợp với những thời
điểm nhất định, không đốt cháy giai đoạn hoặc đảo lộn trình tự - NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ quá trình ấp trứng nở thành chim con,
chim mẹ phải nuôi dưỡng chim con và từng bước dạy choc him con tập vỗ cánh,
tập bay đoạn ngắn rồi mới cho chim con tự bay. Do vậy cần có thời gian và trình
tự từ thấp đến cao; người xây nhà phải tiến hành từng bước cho việc xây nền
móng, tường, mái theo một trình tự và có sự gắn bó với nhau; người làm vườn

thực hiện công việc của mình theo một trật tự nghề nghiệp như chọn giống, đào
lỗ, tra hạt, ươm cây, vùi đất…
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Sẽ là khiếm khuyết nếu các
giáo viên không tự sắp xếp cho bản thân mình và cho học sinh một trình tự bài
vở có trước có sau, có mở đầu, có kết thúc trong từng thời điểm nhất định. Bởi
vì nếu không đề ra mục tiêu, phương pháp thực hiện, sẽ dễ lãng quên, bỏ sót, dễ
xáo trộn trật tự và làm hỏng toàn bộ công việc.
Từ đó tác giả đưa ra lời khuyên: cần phải phân chia bài mục một cách
chính xác theo từng lớp, cái gì trước, cái gì sau, cái trước soi đường cho cái sau;
cần phân chia thời gian biểu hết sức chi li để mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày,
mỗi giờ đều có mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng. Khi đã có thời gian biểu và nội dung
công việc, cần phải giữ đúng, không được bỏ qua một cái gì, không được đảo
lộn.
Nguyên tắc 8: Khi tạo hoá đã khai trương một việc gì đó, nó sẽ không
dừng lại chừng nào chưa kết thúc (Dạy học – giáo dục phải thường xuyên, liên
tục cho đến khi đạt được kết quả, không để dạy học bị chi phối, gián đoạn hoặc
bỏ dở - NV)
Tác giả đã rút ra nguyên tắc này từ việc ấp trứng liên tục của chim mẹ và
khi chim con đã chui ra khỏi vỏ trứng thì chim mẹ vẫn tiếp tục ấp ủ chim con
cho đến khi chim con đủ sức chống chọi với thời tiết; người họa sĩ hay người
thợ xây, cách tốt nhất là làm việc liên tục từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, bởi lẽ
làm như vậy thì tư duy không bị ngắt quãng, các chất liệu, vật liệu sẽ kết chặt,
không bị hư hỏng; người làm vườn khi bắt tay vào việc chiết cành, anh ta sẽ
không rề rà mà phải kết thúc một cách gọn gang để vết chiết không bị khô nhựa,
làm tổn thương đến cây.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Quả là đáng tiếc khi học sinh
đầu tư năm tháng vào việc học hành rồi sau đó bỏ bẵng và đẩy chúng vào những
công việc không thích hợp hoặc thầy giáo dạy cho học sinh những kiến thức này
10



nọ nhưng chẳng đến nơi đến chốn, còn trong giờ học thì không có cái sườn nhất
định, khiến cho thầy cũng như trò chẳng hấp thụ them điều gì mới.
Từ đó, tác giả đưa ra lời khuyên: Khi một học sinh được giao phó cho nhà
trường, hãy để cho nó được học hành đến nơi đến chốn về tri thức, đạo đức,
niềm tin; nhà trường nên đặt nơi yên tĩnh, cách xa sự ồn ào và những trở ngại
khác; điều gì đã quy định cần làm thì hãy làm bằng được, không bỏ dở, không
được bỏ mặc trường lớp, bỏ mặc học sinh.
Nguyên tắc 9: Tạo hoá hết sức tránh né sự đối kháng và tổn thương
(Không làm tổn thương học sinh, dạy học - giáo dục phải đảm bảo chắc chắn,
tránh sự hoài nghi về tri thức, đạo đức và long tin của học sinh, không làm tổn
thương đến những tri thức đạo đức và long tin của học sinh – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc chim mẹ chống chọi với mưa gió,
thời tiết khắc nghiệt trong quá trình ấp trứng hoặc sự bảo vệ chim con chống lại
những loài hung dữ khác; người xây dựng bảo quản vật tư ở nơi thích hợp,
không làm hư hỏng, người họa sĩ bảo vệ bức tranh không bị bụi bặm hoặc cho
người khác sờ mó tay vào; người làm vườn đóng cọc xung quanh để bảo vệ cây
con mới trồng.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Một việc làm không hiểu
biết thường diễn ra ở các trường là khi các em bắt đầu một bài mục nào đó,
người ta thường gợi ra những vấn đề đang còn bàn cãi, làm thế chẳng qua chỉ
kích thích sự hoài nghi về nội dung những điều chúng sắp được học. Điều đó
chẳng khác nào lung lay một thân cây nhỏ bé khi nó sắp sửa mọc rễ. Cho nên sẽ
không biết điều gì khi để cho lớp trẻ tiếp cận với những loại sách mang nội dung
mờ ám quanh co, rẻ tiền cũng như những môi trường xã hội không lành mạnh.
Từ đó, tác giả đưa ra lời khuyên: Không nên trao cho học sinh những sách
ngoài phạm vi quy định của nhà trường; sách phải được biên soạn xứng đáng
với tên gọi là phễu rót tri thức, đạo đức và long tin; không cho phép buông lỏng
đạo đức ở trong cũng như ngoài nhà trường.
Tóm lại, nếu tất cả những nguyên tắc này được áp dụng sát sao thì sẽ

không có lý do gì bảo rằng nhà trường không đạt được những mục tiêu giáo dục
đã đề ra.

Chương XVII: Những nguyên tắc khiến cho việc dạy học được
dễ dàng (nguyên bản dịch)
Có thể điều chỉnh tên chương này là “Những nguyên tắc cụ thể của việc
dạy học” bởi vì trong chương này, Komensky đã nêu ra kinh nghiệm cho thấy
việc dạy dỗ thanh niên được dễ dàng khi:
- Bắt đầu sớm việc giáo dục trước khi có sự hư hỏng trong suy nghĩ
- Việc dạy dỗ được tiến hành với sự chuẩn bị chu đáo
- Công việc được tiến hành tuần tự từ khái quát đến đặc trưng
- Từ dễ đến khó
- Không để học sinh vất vả vì bài vở vượt quá sức
11


- Mọi khâu đều phải tiến hành thư thái, đúng trình tự
- Không gò ép học sinh vào những đòi hỏi vượt qúa phạm vi tuổi tác và
phương pháp
- Mọi việc được giới thiêu có chủ định
- Nhằm vận dụng tức khắc
- Luôn luôn dựa vào một phương pháp nhất quán
Tác giả đã nêu ra 10 nguyên tắc mang tính chất cụ thể trong lý luận dạy
học – giáo dục nhằm đạt được mục tiêu như:
Nguyên tắc 1: Tạo hoá bao giờ cũng chỉ khởi đầu bằng sự tinh khiết (Dạy
học sinh từ khi đầu óc còn non trẻ (sớm), không để học sinh bị chi phối, ràng
buộc, phân tán và đạo đức cần đặt ra trước tiên “tiên học lễ hậu học văn” – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Con chim khi ấp trứng bao giờ cũng
chỉ ấp những quả trứng tươi; người thợ muốn xây một ngôi nhà, anh ta cần một
khoảng đất trống. Hoặc nếu anh ta định xây ở vị trí ngôi nhà cũ, trước tiên anh ta

phải phá bỏ ngôi nhà cũ; người họa sĩ vẽ tranh bao giờ cũng vẽ trên một tấm lụa
mới; ai đó muốn cất giữ một loại thuốc mỡ bao giờ cũng cần một cái lọ tinh
khiết hoặc một cái lọ cũ nhưng đã được tẩy rửa sạch sẽ; với người làm vườn tốt
nhất là nên trồng những cây con; những người huấn luyện ngựa trước tiên
thường xiết chặt dây cương rồi nới dần dần trước khi cho ngựa đi từng bước.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Việc trau dồi tri thức tiến
hành tốt nhất khi đầu óc còn non trẻ, nếu bắt đầu càng muộn càng khó bởi vì đầu
óc con người lúc đó sẽ bị ràng buộc nhiều thứ…Có những nhà giáo dục đã xử lý
thiếu kinh nghiệm khi tiếp nhận học sinh lớn tuổi, tức là không bắt đầu bằng
những bài học luân lý để kiềm chế tính bồng bột và hướng chúng vào những
môn học khác.
Tác giả đã đưa ra lời khuyên: Việc dạy dỗ thanh thiếu niên cần bắt đầu
sớm; cùng một bài mục, một đối tượng học sinh, chỉ nên phân cho một thầy giáo
đảm nhận; tuỳ theo sự chỉ đạo của nhà giáo dục, đạo đức cần đặt ra trước tiên
như Seneca đã nói “Trước tiên hãy học đạo đức rồi sau đó học tri thức. Không
có đạo đức thì tri thức sẽ khó thành đạt”. Còn Xixero thì nói “Triết lý về đạo đức
là sự chuẩn bị tư duy để tiếp nhận hạt giống trí tuệ”.
Nguyên tắc 2: Tạo hoá sửa soạn chất liệu sao cho phù hợp với ước mơ
của sự trưởng thành (Kích thích long ham hiểu biết và ham học của học sinh
bằng nhiều cách nhưng không gò ép – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc trứng nở ra chim con và chim con tự
nó mong mau chóng được làm những công việc thuộc về bổn phận của loài chim
nhưng với một tiến độ tuần tự; người làm vườn chăm lo sao chỗ cành cây đang
chiết luôn có đủ độ ẩm và dinh dưỡng để cho cây sớm bắt rễ, đâm chồi.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Có những trường hợp quan
tâm đến trẻ em, bắt chúng học nhưng chúng không muốn. Rồi kết quả sẽ như thế
nào? Socrate đã từng nói “Chỉ khi nào ham học, bạn mới trở thành người có
12



học” Còn Quintilianus thì nói “Lòng ham học là điều tuỳ thuộc vào ý chí chứ
không thể gò ép”.
Tác giả đã đưa ra lời khuyên: long ham hiểu biết và ham học ở lứa tuổi trẻ
cần được kích thích bằng mọi cách; phương pháp dạy học cần giúp cho học sinh
giảm nhẹ sự vất vả, không được làm một điều gì cản trở hoặc làm nản chí các
em về phương diện học tập; long ham học ở các em cần được kích thích từ phía
bố mẹ, nhà trường, bài vở và phương pháp giảng dạy; sự niềm nở, nhiệt tình của
giáo viên, thỉnh thoảng cần tuyên dương khen thưởng học sinh sẽ thu hút được
trái tim của chúng thậm chí học sinh thích đến trường hơn là ngồi ở nhà; nhà
trường cần có cảnh quan và tổ chức tốt để thu hút học sinh; nội dung bài giảng
phải hấp dẫn tức là trình bày theo khả năng nhận thúc của từng lứa tuổi và rõ
ràng. Bài giảng càng hấp dẫn khi thỉnh thoảng xen vào một chút hài hước ý nhị;
phương pháp giảng dạy càng hồn nhiên bởi lẽ bất cứ cái gì hồn nhiên tự nó sẽ
tiến triển một cách suôn sẻ; thầy giáo không thể thiếu năng khiếu dạy học, ban
giám hiệu và thanh tra nhà trường có thể kích thích lòng ham học của học sinh
bằng cách cùng tham gia trực tiếp một số hoạt động của lớp cũng như tăng
cường khen thưởng.
Nguyên tắc 3: Tạo hoá sinh ra mọi vật đều bắt đầu từ những khởi điểm có
tầm vóc không đáng kể, nhưng lại có tác dụng to lớn (Không bỏ qua những điều
nhỏ nhặt nhưng quan trọng, nội dung phải ngắn gọn nhưng chính xác, súc tích,
rõ ràng – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: chất liệu để cho một con chim ra đời
được thu gọn lại chỉ vẻn vẹn bằng giọt nước và được bao bọc gọn gàng để chim
mẹ có thể dễ dàng mang trong mình hoặc dễ dàng ấp nó trong tổ; loài cây dù lớn
đến đâu cũng đều được khép kín trong một hạt giống hoặc một cành cây mảnh
mai khi được chiết khỏi cây mẹ.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: Trong nhà trường có lúc
người ta không coi trọng nguyên tắc này bằng cách nhồi nhét cho học sinh một
mớ bài vở lộn xộn thay cho những chân lý cơ bản; sự hiểu biết tuỳ thuộc vào
một số ít ỏi nhưng rồi từ những yếu tố đó sẽ nhân lên vô vàn kết quả.

Tác giả đã đưa ra lời khuyên: Mỗi bài giảng cần ngắn gọn nhưng phải thật
chính xác; mỗi quy tắc cần diễn đạt thật xúc tích, nhưng lời lẽ phải rõ ràng; mỗi
quy tắc nên có thật nhiều ví dụ để học sinh nhận thức được đầy đủ sự bổ ích
rộng lớn của nó.
Nguyên tắc 4: Tạo hoá tiến dần từ dễ đến khó (Dạy học từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Chim con muốn bay được phải tập
đứng cho vững, tập giương cánh, vỗ nhẹ rồi mới bay vào không trung; người
học nghề mộc làm nhà phải bắt đầu bằng việc đẽo gọt, cắt, làm mộng rồi mới
dựng thành ngôi nhà.

13


Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: trong việc giảng dạy thường
diễn ra sự ngu ngốc khi lấy một điều học sinh chưa biết để lý giải một điều mới
lạ mà các em cũng chưa biết nốt.
Nguyên tắc 5: Tạo hoá không ôm đồm mà bằng lòng với sự ít ỏi bẩm sinh
(Nội dung dạy học – giáo dục không ôm đồm, phân tán mà phải tập trung vào
một số trọng tâm, trọng điểm trong một thời gian hợp lý, vừa đủ - NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: với một quả trứng, tạo hoá không
đòi hỏi nở ra hai con chim mà bằng lòng với một con; trên một thân cây, người
làm vườn không tham lam chiết nhiều cành.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: việc học hành sẽ phân tán
nếu như trong cùng một khoảng thời gian mà đưa ra quá nhiều chủ điểm để
giảng dạy cho học sinh.
Nguyên tắc 6: Tạo hoá không hấp tấp vội vàng mà tiến từ từ từng bước
(không nhồi nhét, mà phải tuỳ theo khả năng tiếp thu của học sinh, tạo thuận lợi
và làm cho học sinh ham mê học tập một cách tự nhiên “Tính vừa sức và cá thể
hoá người học” – NV)

Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: chim mẹ không muốn vì mau có con
mà đẻ trứng vào đống lửa, bao giờ chim mẹ cũng ấp trứng từ từ bằng sức nóng
tự nhiên của mình, cũng như chim mẹ không nhồi nhét thức ăn cho chim con để
chim con chóng lớn mà bao giờ cũng choc him con ăn từ tốn phù hợp với khả
năng tiêu hoá còn mong manh của chúng; nhà xây dựng không vội vã xây móng,
cất mái khi móng chưa khô, tường chưa đủ độ rắn; người làm vườn không đòi
hỏi cây chiết sau một tháng phải mọc rễ hoặc sau một năm phải đơm hoa kết
trái. Anh ta không bận tâm đến việc tưới nước hàng ngày và dung lửa để sưởi
ấm cho cây mà anh ta bằng lòng để cho cây lớn từ từ bằng sự sưởi ấm của mặt
trời và hút nước trong tự nhiên; một cái bình có miệng thì nhỏ mà người ta cứ
hết sức đổ ào nước vào chứ không rót từ từ từng giọt thì kết quả sẽ ra sao?
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: trong nhà trường, người ta
đã hành hạ học sinh vì cái bệnh ôm đồm, học nhiều giờ trong ngày, giao cho học
sinh thật nhiều bài tập, nhiều bài học thuộc lòng. Thật là khờ khạo khi một nhà
giáo không dạy theo khả năng tiếp thu của học sinh mà lại theo ý muốn chủ
quan của thầy.
Tác giả đã đưa ra lời khuyên: những giáo viên biết tạo thuận lợi cho học
sinh và làm cho chúng ham mê học tập là những giáo viên: biết tổ chức ở lớp
với số giờ ít nhất tức là khoảng bốn giờ, thời gian học cá nhân cũng khoảng
chừng ấy; biết huy động trí nhớ của các em một cách đúng mức, không làm
chúng quá mệt mỏi, tức là chỉ đặt ra những vấn đề cơ bản, còn lại cứ để mặc
theo tự nhiên; lường được sức tiếp thu của học sinh và mở rộng khả năng tiếp
thu đó tuần tự theo tuổi tác và nội dung bài vở.
Nguyên tắc 7: Tạo hoá không ép buộc mà để cho sự vật chín muồi từ bên
trong rồi tự nó bộc lộ ra bên ngoài (không ép buộc học sinh phải hiểu, nhớ, làm
14


những gì mà lứa tuổi và trình độ của chúng chưa hiểu được hoặc chưa hiểu một
cách thấu đáo hoặc chưa được hướng dẫn cặn kẽ - NV)

Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Chim mẹ không ép buộc chim con
chui ra khỏi quả trứng khi mà bên trong chưa tác thành một con chim có đủ sức
phá vỡ vỏ trứng; tạo hoá cũng không ép buộc chim con phải bay lên khi nó chưa
đủ long, đủ cánh và chim mẹ cũng không ép buộc chim con rời khỏi tổ khi
chúng chưa biết bay thành thạo; thân cây chưa đâm chồi, chồi non sẽ chưa mọc
lá, đơm hoa khi nhựa sống trong thân cây chưa đủ…
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: việc dạy dỗ thanh thiếu niên
sẽ là thô bạo khi chúng ta ép buộc chúng phải hiểu những điều mà lứa tuổi
chúng chưa hiểu được hoặc không có sự giải thích mào đầu một cách đầy đủ…
Tác giả đưa ra lời khuyên: chỉ nên cho thâm nhập những kiến thức mà lứa
tuổi và khả năng nhận thức cho phép và có nhu cầu; không bắt chúng nhớ những
điều mà chúng chưa hiểu một cách thấu đáo; không dung mệnh lệnh để bắt trẻ
em làm một điều gì mà chúng chưa được hướng dẫn đến nơi đến chốn về mẫu
mực, kể cả cách bắt chước.
Nguyên tắc 8: Tạo hoá luôn tự mình tìm mọi cách khắc phục để bảo tồn
và phát triển (giáo viên phải hướng dẫn cặn kẽ và tạo điều kiện để học sinh hiểu
bài, nhớ bài và làm được bài; nếu học sinh không hiểu, nhớ và làm được bài,
trước hết là lỗi ở giáo viên “nguyên tắc học thông thạo” – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: quả trứng bản thân có sức sống và
nhờ sức nóng của mặt trời cũng như của chim mẹ, quả trứng sẽ nở ra chim con.
Chim mẹ lại tiếp tục chăm sóc và chuẩn bị cho chim con vào đời; người bảo
mẫu tập cho trẻ bằng nhiều cách, mới đầu tập cho chúng ngẩng cao đầu, tập
ngồi, đứng, đi chập chững, đi bình thường, chạy, tập nghe, tập nói…
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu: sẽ là tàn nhẫn khi giáo viên
giao bài cho học sinh mà không giảng giải một cách cặn kẽ, không chỉ dẫn cách
làm bài… và khi các em làm không được lại trách móc chúng. Tạo hoá dạy cho
chúng ta phải hết sức kiên nhẫn đối với trẻ thơ trước khi chúng có đủ nghị lực.
Tác giả đưa ra lời khuyên: không bao giờ đánh đập trẻ trong học tập (bởi
vì khi một đứa bé không học được, lỗi trước hết thuộc về giáo viên, hoặc anh ta
không thạo nghề, hoặc anh ta không quan tâm làm cho học sinh tha thiết với học

tập); toàn bộ nội dung bài giảng cần được lý giải một cách rõ ràng để các em có
thể hình dung được; nội dung bài giảng cần lắng đọng trong học sinh một cách
nhẹ nhàng để từ đó các em rút ra những nhận thức thông qua các giác quan khi
có thể; cần tạo điều kiện để học sinh học hỏi lẫn nhau để sớm biết diễn đạt nội
dung vấn đề bằng lời nói, bằng tay viết, vẽ…việc sử dụng các hình ảnh treo
tường để minh hoạ nội dung dạy học là việc làm tốt vừa giúp học sinh khắc sâu
kiến thức, nâng cao trí tưởng tượng vừa dễ dàng hồi tưởng sự việc.
Nguyên tắc 9: Tạo hoá không bày đặt ra cái gì không cần thiết cho sự
sống (Dạy cái gì cần học để ứng dụng, học đi đôi với hành – NV)
15


Tác giả rút ra nguyên tắc từ việc: các bộ phận của chim con do tạo hoá
sinh ra đều có mục đích: đôi chân để chạy, đôi cánh để bay…hoặc tất cả những
gì mọc trên cây đều có mục đích như thân cây, vỏ, lá, hoa, trái…
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: bạn sẽ giúp học sinh được
dễ dàng nếu như tất cả nội dung bài giảng đều được liên hệ với lợi ích sử dụng
trong cuộc sống hàng ngày. Việc bạn chỉ dẫn cho học sinh thấy được những kiến
thức kia dung vào việc gì tức là bạn giúp cho học sinh về sự hiểu biết của chúng
và sau này tìm cách áp dụng những hiểu biết đó.
Tác giả đưa ra lời khuyên: nên dạy cho học sinh những điều có thể ứng
dụng mau chóng.
Nguyên tắc 10: Tạo hoá duy trì một tiến trình trước sau không thay đổi
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: quá trình sinh nở của con chim này
cũng giống quá trình sinh nở của nhiều con chim khác; quá trình phát triển từ
hạt giống được đem gieo sau đó nảy mầm và mọc thành cây non, cây trưởng
thành cho hoa trái…của nhiều loại thực vật cũng có giống nhau.
Từ nguyên tắc này ta có thể rút ra: trong dạy học nên lựa chọn những nội
dung mang tính tổng quát, cơ bản chung nhất để học sinh có thể vận dụng vào
những cái tương tự “học một, biết mười” – NV


Chương XVIII: Những nền tảng của tính triệt để trong khi
dạy học
Chương này có thể điều chỉnh tên chương là “Cách đào sâu và vận dụng
hệ thống tri thức” bởi vì Komensky cho rằng, trong quá trình học tập, có rất ít
học sinh tiếp thu triệt để những kiến thức của nhà trường bởi vì các nguyên nhân
sau đây:
- Kiến thức truyền thụ của nhà trường không hữu ích, không thiết yếu
- Học sinh không nhớ những gì đã học
Biện pháp khắc phục:
- Nội dung giảng dạy phải chọn lọc, thiết thực bổ ích
- Nội dung phải cô đọng có chiều sâu
- Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
- Nội dung dạy học phải có hệ thống: cái trước làm cơ sở cho cái sau;
cái sau – cái trước có mối liên quan nhau
- Nội dung giảng dạy phải được sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp
- Nội dung được củng cố và mang tính thực tiễn
Từ những vấn đề trên, Komensky đã gợi ra 10 nguyên tắc trong giảng dạy
mà người thầy cần quan tâm chú ý:
Nguyên tắc 1: Tạo hoá không bày đặt ra một cái gì vô dụng (Nội dung
giảng dạy phải thiết thực, phục vụ cho cuộc sống hiện tại và tương lai – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Khi sinh ra con chim, tạo hoá không
cho nó những bộ phận không dung để làm gì như vẩy bọc, bộ vây, đôi càng hoặc
16


đôi sừng mà tạo hoá cho nó cái mỏ, trái tim và đôi cánh; tạo hoá sinh ra cây có
vỏ cây, xơ bọc, nhựa nuôi cây mà không cho nó long vũ, lông tơ; người nông
dân muốn đồng lúa tốt, màu mỡ thì không gieo cỏ gấu mà phải lựa chọn thóc

giống tốt; người thợ xây muốn xây nhà vững chắc thì không dung rơm rạ, gỗ tạp
mà phải dung những loại gỗ tốt và những nguyên liệu cứng rắn tương tự.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: nhà trường đừng làm gì
ngoài những điều có thể vận dụng một cách chắc chắn vào cuộc sống hiện tại và
tương lai, nhưng nhằm vào tương lai nhiều hơn (Nhà thần học Jeronym đã
khuyên chúng ta học cho được điều này trên thế gian, học lấy những tri thức
vĩnh hằng tận trời xanh); nếu cần phải trang bị cho thanh niên những tri thức để
phục vụ cho cuộc sống hôm nay (và điều này là cần thiết) thì nên trang bị những
gì không gây cản trở cho những tri thức vĩnh hằng, chính như vậy những kiến
thức kia mới mang lại lợi ích thật sự cho cuộc sống hiện tại.
Tác giả nêu ra lời khuyên: những thứ rỗng tuếch phô trương để mà làm
gì? Học để làm gì những thứ không mang lại cho người học sự bổ ích, những
thứ biết không có lợi gì mà không biết cũng chẳng có hại gì? Và cũng chẳng để
làm gì những thứ mà trải qua thời gian sẽ rơi rụng hoặc vì một nghề khác mà ta
quên nó? Cuộc sống ngắn ngủi của chúng ta có biết bao nhiêu điều có thể học
một cách trọn vẹn mà chẳng hề vô ích chút nào. Cho nên bổn phận của nhà
trường là không được bỏ qua việc trang bị cho học sinh những kiến thức nghiêm
túc (kể cả các trò chơi cũng mang lại kiến thức nghiêm túc).
Nguyên tắc 2: Tạo hoá không bỏ qua một điều gì mà tự mình cảm thấy có
ích cho cơ thể của tạo vật (Giáo dục phải toàn diện: đào tạo học sinh vừa có kiến
thức vừa có đạo đức nhân cách – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Khi con chim ra đời, tạo hoá không
quên là phải có cái đầu, đôi cánh, đôi chân, các móng, con mắt…nghĩa là tuyệt
nhiên không bỏ sót một thứ gì thuộc về bản chất của loài chim.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: nhà trường cũng như thế, có
bổn phận đào tạo con người một cách toàn vẹn để con người có khả năng lao
động đối với cuộc sống thực tại cũng như đối với sự vĩnh hằng vốn là mục tiêu
của tất cả những gì đã có trước nó.
Tác giả đưa ra lời khuyên: đến trường, học sinh không những cần học
kiến thức mà còn phải học đạo đức và tín ngưỡng. Học vấn giúp cho con người

có trí tuệ, có lời nói và hành động một cách hữu ích và hiểu biết. Bỏ qua một
trong những yếu tố trên đây tất sẽ tạo ra khe hở, chẳng những làm cho kiến thức
trở nên khiếm khuyết mà còn bấp bênh. Không có gì bền vững bằng sự gắn bó
trên mọi mặt.
Nguyên tắc 3: Tạo hoá không làm điều gì mà lại bỏ qua nền tảng và cội rễ
(Kích thích, khơi gợi tính ham học cho cho học sinh đồng thời cung cấp nội
dung tổng kết trước khi đi vào nội dung chi tiết – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: đối với loài chim và các động vật
khác thì các cơ quan bên trong cơ thể bao giờ cũng được hình thành trước để
17


làm nền tảng cho sự sống của cơ thể; các loài thực vật trước khi rễ cắm vào lòng
đất thì nó không thể phát triển lên cao được, nếu cứ cố vươn lên thì cây sẽ khô
héo và chết; người xây dựng không bao giờ xây nhà khi nền móng phía dưới
chưa vững; người họa sĩ phải có lớp bột màu làm nền, nếu không, đường nét sẽ
nham nhở, nhợt nhạt không nổi bật.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: nền tảng của việc trau dồi
kiến thức sẽ thiếu nếu như các giáo viên không quan tâm tạo cho học sinh có sẵn
ý thức ham học và sự chăm chỉ, không trang bị cho học sinh có một khái niệm
trước về cái sườn nội dung học tập để các em biết được chính xác những gì
thuộc về bổn phận trước mắt và tương lai. Khi một học sinh học hành lơ là,
không hào hứng thì làm sao có thể hy vọng đạt tới một kiến thức vững vàng?
Tác giả đưa ra lời khuyên: Thật sự cần khơi dậy ở học sinh đức tính ham
học, đồng thời cũng vạch cho các em thấy những nguyên do dẫn đến sự thành
công, bổ ích và những hứng thú trong học tập; trước khi bắt đầu một bài mang
tính chi tiết, cần giới thiệu cho học sinh một cách sơ lược để ngay từ lúc bắt đầu
học, các em đã hình dung được tất thảy những mục tiêu và phạm vi của vấn đề
cũng như nội dung bên trong. Nếu như bộ xương là cái khung của một cơ thể thì
sự phác thảo trên đây chính là chỗ dựa và là nền tảng của toàn bộ bài giảng.

Nguyên tắc 4: Tạo hoá bắt rễ từ sâu trong lòng đất (Khơi gợi tinh thần
hiếu học - khắc sâu ấn tượng học tập cho học sinh – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Với các loài động vật, các cơ quan
nội tạng nằm ẩn kín trong cơ thể. Ở các loài thực vật, khi rễ đâm càng sâu, cây
mọc càng vững, còn cây nào rễ nông cạn, cây đó sẽ dễ đổ.
Từ đó tác giả đưa ra lời khuyên: Ở đây rõ ràng là cần thiết sự khơi dậy
đức tính hiếu học ở học sinh cũng như khắc sâu ấn tượng chung trong ý nghĩ học
sinh. Dù chỉ là một bước nhỏ, chúng ta không được tiến sâu vào hệ thống hoàn
hảo của nghệ thuật và ngôn ngữ chừng nào ta chưa chắc chắn rằng cái ấn tượng
chung đã được xác định hoàn toàn rõ ràng và được bắt rễ tốt.
Nguyên tắc 5: Tạo hoá làm nảy sinh mọi vật đều từ cội rễ, cội nguồn chứ
không phải từ đâu khác (Dạy cái mới phải trên cơ sở cái đã có sẵn – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: tất cả những gì mọc ra trên thân cây:
thân gỗ, vỏ cây, cành, lá, hoa, trái…đều xuất phát từ cội nguồn chứ không phải
từ đâu khác. Với loài chim, khi con chim muốn mọc long, nó không thể trông
chờ vào con chim khác mà phải được nảy sinh từ những cơ quan nội tạng của
chính mình; người thợ xây thận trọng là người biết tìm cách xây ngôi nhà sao
cho nền tảng có đủ sức gánh chịu toàn bộ ngôi nhà mà không phải nhờ vào sự
chống đỡ từ bên ngoài, nếu không sẽ có nguy cơ sụp đổ.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả đã nêu: việc dạy dỗ trẻ em đến nơi
đến chốn không có nghĩa là nhồi nhét vào đầu óc chúng một mớ ngôn từ, những
tư duy triết lý lôi ra từ các sách vở mà là mở ra cho chúng tầm hiểu biết về các
sự vật để rồi từ nguồn nước sinh động đó tuôn ra những dòng suối nhỏ ví như từ
những chồi non mọc lên bao cành lá xum xuê và hoa trái, và năm sau lại từ
18


những chồi non mới lại lớn lên thành những cành lá và hoa trái nối tiếp. Điều đó
có thể khẳng định là cho đến nay các trường chưa thực hiện được việc trau dồi
cho lớp trẻ ý thức như một cây non biết sống bằng bộ rễ của chính mình, mà chỉ

mới dạy cho các em sống dựa như những cành cây chiết từ đâu đưa tới. Đó là lối
làm dáng bằng bộ long của người khác, giống như con quạ trong chuyện ngụ
ngôn của Êzốp. Nhà trường chỉ mới cố làm cái việc tưới mát tâm hồn trẻ bằng
dòng suối của người khác hơn là khơi lên dòng suối nhận thức của chính học
sinh mà bấy lâu còn tiểm ẩn. Nói cách khác là nhà trường chưa chỉ ra cho học
sinh thấy sự vật tự nó bao giờ cũng có mối gắn bó bên trong mà chỉ mới làm cho
các em thấy người này nghĩ thế này, người kia nghĩ thế kia, và kẻ nào biết nhiều,
nghe nhiều…
Có những trường đang hành động như thế, họ đang dạy cho học sinh nhìn
bằng mắt của người khác và hiểu bằng bộ óc của người khác…Làm như vậy tức
là không dạy cho học sinh khai thông những mạch nước để rồi từ đó nhen lên
những dòng suối nhỏ. Làm như thế có nghĩa là mới chỉ ra những dòng suối có
sẵn và cứ dựa theo đó mà lần về ngọn nguồn.
Có những bất lợi, thậm chí đúng hơn là những tai hại gây nên do việc
không sửa chữa phương pháp khi có rất nhiều học sinh, nếu không thì cũng là
đại đa số chỉ dừng lại ở mức sách vở, nghĩa là tuy có thuộc tiêu đề và quy tắc
công nghệ nhưng không biết áp dụng kiến thức vào những việc hữu ích, hoặc
không một em nào có kiến thức toàn năng để tự duy trì và mở rộng sự hiểu biết
mà chỉ thường là một sự chắp vá chỗ này một tý, chỗ kia một tý, không có mối
liên hệ tử tế cho nên cũng không mang lại kết quả tử tế…Những kiến thức thu
lượm kiểu như vậy chẳng khác nào một thứ cây cảnh mừng xuân lấp lánh đầy
hoa trái. Nó cũng có cành, có nụ, có hoa quả thậm chí trông nó còn hấp dẫn hơn
bởi những vòng trang trí nhưng chúng không phải là thứ sản phẩm từ rễ mọc ra
và không được nhựa cây nuôi sống.
Tác giả đưa ra lời khuyên: Con người cần phải trau dồi kiến thức nhưng
không phải chỉ từ sách vở mà từ bầu trời mặt đất, từ cây sồi, cây dẻ, tức là nhận
thức và khám phá sự vật chứ không phải chỉ quan sát sự vật bằng bộ óc của
người khác và làm nhân chứng trước sự vật. Điều đó cũng có nghĩa là lần theo
dấu chân của các bậc thông thái thời xưa, một khi muốn trau dồi kiến thức thì
dựa vào cái mẫu mực cổ xưa của sự vật chứ không ở đâu khác.

Nguyễn tắc 6: Tạo hoá mưu cầu một vật gì càng đa dạng thì vật sinh ra
càng có nhiều tính năng (Giảng dạy phải có sự lý giải cặn kẽ. Học sinh am hiểu
thì việc làm mới có ý thức – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: loài động vật nào được tạo hoá ban
cho nhiều đối khớp trong cơ thể thì loài vật đó giàu tính năng vận động hơn; với
các loài thực vật thì loài nào có nhiều cành, nhiều rễ thì loại đó càng đứng vững
hơn.
Từ đó tác giả đưa ra lời khuyên: toàn bộ công việc đào tạo thanh thiếu
niên cần được phân ra các bộ môn sao cho thật rành rọt để chẳng những giáo
19


viên mà cả học sinh đều không bị lúng túng, hiểu được mình đang ở đâu và đang
làm gì. Cho nên cũng tuỳ thuộc rất nhiều vào việc nhà trường huy động các sách
vở vào việc học sao cho thật chuẩn xác để được ánh sang cửa tự nhiên soi rọi.
Nguyên tắc 7: Tạo hoá vận động liên tục trong quá trình tiến hoá và
không bao giờ ngừng, không bao giờ bỏ dở quá trình thứ nhất để bước sang quá
trình thứ hai, bao giờ cũng tiếp diễn, làm lớn lên và kết thúc những gì bắt đầu.
(Dạy học phải có cái nền vững chắc, cái dạy sau phải gắn kết và có liên hệ liền
mạch với cái đã dạy trước, giúp cho học sinh nhớ lâu – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: khi một bào thai được hình thành,
chỗ nào là cái đầu, chỗ nào là đôi chân, chỗ nào là trái tim…mọi thứ đều được
giữ nguyên vẹn cho đến lúc kết thúc. Trên một cây ăn quả, những cành ra ban
đầu không bị thải bỏ mà cây tiếp tục đem nhựa sống nuôi dưỡng chúng để rồi
năm sau từ đó lại vươn lên những cành mới.
Đối chiếu với nguyên tắc này tác giả đã nêu: ở nhà trường mọi bài vở phải
được sắp xếp sao cho bài sau kế tiếp bài trước, bài trước mở đường cho bài sau;
tất cả những gì đã được giảng giải và học sinh đã hiểu cần để lại những dấu ấn
trong trí nhớ.
Tác giả đã đưa ra lời khuyên: trong lúc áp dụng phương pháp tự nhiên

trên đây, những bài trước phải là nền tảng cho bài sau. Cho nên vấn đề đặt ra
không có gì khác là phải có cái nền vững. Có điều muốn có cái nền đó thì học
sinh phải hiểu bài, không hiểu thì chẳng cái gì đọng lại trong trí nhớ. Nhà sư
phạm Quintilian thời xưa đã nói rất đúng “Toàn bộ việc học đều tuỳ thuộc vào
trí nhớ, cho nên công việc của chúng ta sẽ trở thành vô ích nếu những gì ta nghe
được hoặc học được đều rơi rụng”. Còn Luis Vives (Juan Luis Vives 1492 –
1540 là nhà triết học và nhà giáo dục nhân văn, người Tây Ban Nha) cũng đã nói
“Trí nhớ cần tập luyện khi còn trẻ, qua đó trí nhớ sẽ được tăng cường. Cần giao
phó cho các em nhiều việc nhưng cẩn thận và thường xuyên. Đó là lứa tuổi
không cảm thấy mệt mỏi và coi thường vất vả…” Trong cuốn Đại cương về trí
tuệ ông còn viết: “Bạn đừng để cho trí nhớ nghỉ ngơi”. Lao động sẽ làm cho
người ta vui và lớn lên – không có gì khác. Mỗi ngày nên giao cho trí nhớ một
việc gì đó, càng nhiều sự việc trí nhớ càng lưu trữ một cách trung thành. Ngược
lại, càng loãng sự việc càng kém trung thành”. Những lời nói trên đây là đúng,
tạo hoá cũng dạy như vậy. Một cây xanh hút nước càng nhiều thì nó mọc càng
khoẻ. Còn động vật, con nào ăn nhiều thì con ấy càng chóng lớn, thân hình con
vật càng to mập, càng đòi hỏi nhiều thức ăn. Tất cả những gì lớn lên một cách tự
nhiên về phương diện, tầm vóc đều phát triển theo cách đó. Cho nên về mặt này
không được hà tiện đối với tuổi trẻ (trừ khi đó là câu chuyện lý trí). Trên đây là
nền tảng của sự thành công vững vàng nhất.
Nguyên tắc 8: Tạo hoá gắn bó mọi việc với nhau bằng sự liên kết liên
hoàn (Dạy học phải có sự lý giải nguyên nhân vì sao có hiện tượng đó không là
hiện tượng khác – NV)
20


Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Khi tạo hoá sinh ra con chim, nó
gắn chi liền chi, xương liền xương, bắp liền bắp…; cây cở cũng vậy, rễ gắn liền
với thân cây, thân cây gắn liền với cành, cành bé gắn liền với những chồi non và
hoa trái; ngôi nhà muốn đứng vững, nó phải liên kết với nhau vào chân móng,

thành tường và mái, các chi tiết đều liên kết với nhau để tạo thành một ngôi nhà.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Việc học tập của cả một đời
người phải được sắp xếp như một kho bách khoa trong đó không có một chi tiết
nào tách khỏi cội rễ chung, không có một điều gì lạc long, đứng sai vị trí; mọi
kiến thức dạy cho học sinh phải được siết chặt với nhau bằng những lý do trí tuệ
để không còn chỗ cho sự hoài nghi hoặc quên lãng. Chính lý do trí tuệ kia là
những cái chốt, những vì kèo, những con sỏ khiến cho ngôi nhà đứng vững,
không lung lay và không sụp đổ.
Tác giả đưa ra lời khuyên: Dùng những lý do trí tuệ để củng cố kiến thức
có nghĩa là tất cả đều phải giảng giải nguyên do, là nêu sự việc hiện tượng,
nhưng do đâu mà có hiện tượng đó và vì sao hiện tượng không thể khác được.
Có kiến thức có nghĩa là nắm bắt sự việc trong mối tương quan có nhân có quả.
Vì lẽ trên đây, trong giảng dạy cần sự lý giải nguyên nhân.
Nguyên tắc 9: Tạo hoá luôn giữ sự cân đối giữa rế và cành, trong đó có
tính đến lượng và chất (Dạy học phải chú ý đến sự tiếp thu của học sinh và luôn
tạo điều kiện để học sinh phát biểu ý kiến về những vấn đề đang học, đã học –
NV)
Tác giả rút ra nguyên tác này từ việc: dưới mặt đất, tuỳ theo rễ cây mạnh
hay yếu mà cành cây và tán lá sẽ rộng hay hẹp. Luật tạo hoá là như vậy, bởi lẽ
nếu cây vươn lên cao mà không có rễ giữ chặt thì cây sẽ dễ đổ ngã; ở các loài
động vật cũng thế các chi trên mình con vật tương xứng với các bộ phận bên
trong cơ thể. Con vật nào có những bộ phận bên trong cường tráng, con đó sẽ có
các chi bên ngoài khoẻ mạnh.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu: việc học vấn cũng vậy, sự trau
dồi kiến thức phải được bắt đầu , phát triển và tăng cường từ cội rễ bên trong
của sức tiếp thu. Nhưng đồng thời chúng ta vẫn quan tâm đến biểu hiện bên
ngoài sao cho cành lá sum suê. Sự phát triển cành lá ở đây là đem những gì học
được đồng thời thể hiện trong việc vận dụng hiểu biết của mỗi người.
Từ đó tác giả đưa ra lời khuyên: Ai hiểu được điều gì hãy nên suy ngẫm
ngay tức khắc làm thế nào để sự hiểu biết đó mang lại lợi ích chứ không phải

học một cách cho uổng công; ai có hiểu biết gì hãy nên chia sẻ sự hiểu biết đó
với những người khác, đừng để kiến thức đó trở nên vô dụng.
Về điểm này đã có một lời nhận xét chi lý: Sự hiểu biết của bạn sẽ chẳng
nghĩa lý gì nếu như người khác không biết đến. Cho nên chẳng cần phải nhen
lên làm gì những ngọn lửa tri thức mà từ những ngọn lửa tri thức đó không tuôn
ra theo dòng suối nhỏ.

21


Nguyên tắc 10: Tạo hoá tự mình tạo nên sự tươi mát và tăng cường sức
mạnh bằng sự vận động thường xuyên (Kiến thức muốn được vững chắc phải
được ôn luyện thường xuyên thông qua các bài tập – NV)
Tác giả rút ra nguyên tắc này từ việc: Con chim ấp trứng không chỉ ấp
trên quả trứng mà hằng ngày nó còn trăn trở để quả trứng được sưởi ấm đều đặn
mọi phía. Thế rồi khi trứng đã nở, chim con thường tập vươn mình, duỗi cánh,
nghển cổ duỗi chân hoặc tập đi, tập bay cho đến khi nào nó cảm thấy đủ sức; đối
với cây cỏ, nếu càng được gió thổi, cây càng trở nên tươi xanh, rễ bám chặt. Nói
chung mưa gió sấm chớp…đều có ích đối với các loài thực vật; người thợ xây
cần ánh nắng và gió để làm khô cứng công trình của họ; người thợ rèn, khi
muốn tôi luyện dụng cụ, anh ta phải nhiều lần nung đỏ và dung vào nước, sự
thay đổi nóng lạnh làm sắt thép trở nên cứng rắn hơn.
Đối chiếu với nguyên tắc này, tác giả nêu ra: Việc học hành muốn trau dồi
kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà phải ôn đi ôn lại, có bài tập
thường xuyên phù hợp với trình độ. Tuy nhiên, cách luyện tập tốt nhất sẽ dạy ta
những động tác tự nhiên trên cơ thể sống của con người…
Tác giả đưa ra lời khuyên: Có một sự thật là khi dạy người khác, bản thân
người dạy chẳng những được củng cố kiến thức do việc nhắc đi nhắc lại và
khẳng định những khái niệm đối với bản thân mà còn có cơ hội để đi sâu vào nội
dung vấn đề. Nhà sư phạm Jachym Fortinus đã kể lại một kinh nghiệm của bản

thân rằng rất nhiều điều ông đã nghe hoặc đã học, có khi chỉ sau một tháng là
quên nhưng những gì ông đã dạy cho học trò thường gắn liền với đời ông như
mười ngón tay, và ông nghĩ những điều đó có lẽ chỉ cái chết mới cướp đi được.
Cho nên Fortinus đã có lời khuyên là mỗi người nên tìm lấy những học trò của
mình để truyền lại những gì đã học được trong ngày…

Chương XIX: Các nguyên tắc rút ngắn thời gian trong giảng
dạy
Trong chương này, nhà sư phạm Komensky đã nêu lên thực tiễn tính phức
tạp, sâu, rộng của kiến thức nhân loại. Ông cũng cho rằng nguyên nhân dẫn đến
việc truyền tải không đầy đủ những nội dung phong phú đa dạng của thế giới tự
nhiên xã hội là do người thầy chưa tiến hành các hoạt động sau:
- Chưa xác định mục tiêu giảng dạy theo từng giai đoạn cụ thể
- Không vạch đường đi cho học sinh hướng tới
- Nội dung giảng dạy chưa gắn với qui luật tự nhiên, tách rời các vấn đề
liên quan
Từ đó tác giả đưa ra lời khuyên:
- Người thầy phải rút ngắn những nội dung kiến thức dài (chọn kiến
thức cơ bản)
- Chuyển nội dung khó thành dễ để học sinh tiếp thu dễ dàng
- Dạy học phải mang tính thiết thực. Dạy những gì ứng dụng được cho
hiện tại và mai sau.
22


- Tiến hành đồng bộ các vấn đề: Giáo dục kiến thức - đạo đức và niềm
tin.
Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu tác phẩm:
Tác phẩm bàn về nghệ thuật dạy học, một nghệ thuật chung liên quan đến
tất cả các môn học và tất thảy mọi đối tượng, hay nói cách khác là đề cập đến

một phương pháp tin cậy và có chọn lọc, khiến cho tất cả các làng xã, các thành
phố và kể cả những xứ đạo cũng có thể tổ chức các trường lớp phù hợp cho
thanh niên nam nữ, không bỏ rơi bất cứ ai, người nào cũng có thể trau dồi kiến
thức về các khoa học, về đạo đức, về lòng tin…Và thông qua cách làm đó, trong
phạm vi tuổi trẻ của mình, thanh niên sẽ được tiếp cận với tất cả những gì thuộc
về cuộc sống hiện tại cũng như tương lai, một cách ngắn gọn, hấp dẫn và đến
nơi đến chốn.
Sự mở đầu cũng như kết thúc công việc của ngành sư phạm chúng ta là ở
chỗ tìm tòi và phát hiện ra một phương pháp khiến cho người học lao lực ít hơn,
nhà trường đỡ vất vả hơn, loại bỏ được những công việc nhàm chán vô ích,
nhưng lại yên tĩnh, hồ hởi và đạt kết quả lâu bền.
Tác phẩm trình bày về một nghệ thuật tổng hợp trong việc giảng dạy tất
cả các môn đối với mọi đối tượng. Lối dạy nhẹ nhàng, khiến cho người dạy cũng
như người học không cảm thấy vất vả, chán nản, mà đúng hơn là để gây hứng
thú tối đa cho cả đôi bên. Mục đích đặt ra là giảng dạy một cách triệt để chứ
không nông cạn, hời hợt, nghĩa là một lối giảng dạy mang lại kiến thức thực sự,
một nền đạo đức cao thượng và lòng tin nhiệt thành.
Nghiên cứu nội dung tác phẩm “Thiên đường của trái tim” trích từ tác
phẩm “Lý luận dạy học vĩ đại” của Komensky theo lý thuyết cấu trúc hệ thống
ta rút ra:
1. Mục đích: đào tạo con người phát triển toàn diện theo quy luật tự nhiên
2. Nội dung:
Những nội dung trong tác phẩm chính là thành tố của quá trình dạy học
như mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức dạy học, kết quả
dạy học và mối quan hệ của chúng. Komensky đã lựa chọn những kiến thức, kỹ
năng, thái độ quan trọng nhất làm nền tảng cho sự phát triển lâu dài của hệ thống
tri thức, kỹ năng, thái độ. Về mặt cấu trúc Komensky đã sắp xếp từ cái chung
đến cái riêng, cái tổng quát đến cái chi tiết.
3. Phương pháp: Komensky đã dùng phương pháp trực quan và thực nghiệm
4. Hình thức dạy học:

Komensky là người có cống hiến lớn nhất khi đã đề cập đến hình thức lớp
– bài. Đây chính là tổ chức cơ sở bảo đảm các hoạt động của nhà trường và hình
thức này hiện nay vẫn đúng cho nhà trường hiện đại.
5. Những nguyên tắc mà Komensky đã nêu ra mặc dù cách đây đã gần 400 năm
nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị bởi vì nó là nội dung tổng kết từ thực tiễn
giáo dục và dạy học. Ở góc độ dạy học kỹ thuật thì một số lớn nguyên tắc,
nguyên lý mà ông đã nêu ra lại càng phù hợp với thực tiễn dạy học kỹ thuật hiện
23


nay. Ví dụ: Nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với thực tiễn, nhà
trường gắn liền với xã hội; tư tưởng quy trình công nghệ xuyên suốt trong quá
trình hình thành kỹ năng nghề nghiệp của học sinh, nguyên tắc học thông thạo
hay đào tạo theo năng lực thực hiện cũng là những vấn đề mà đến hiện nay cũng
còn là những vấn đề khá mới mẻ. Trong đào tạo kỹ năng nghề cần phải có nội
dung lý thuyết cơ sở để người học có thể học được kỹ năng nhưng đồng thời
hoạt động làm mẫu của giáo viên phải thật chuẩn xác, rõ ràng để học sinh có thể
quan sát bắt chước, làm lại hoặc ứng dụng vào các trường hợp tương tự. Trong
dạy học kỹ thuật, phương pháp trực quan là không thể thiếu được, sự chuẩn bị
đầy đủ phương tiện, đồ dùng dạy học góp phần quan trọng cho việc giảng dạy
thực hành kỹ thuật; trong dạy học kỹ thuật cũng đề cập đến tác dụng nhớ lâu (trí
nhớ) khi người học được tiếp nhận thông qua càng nhiều giác quan càng tốt.
6. Những hạn chế của Komensky:
6.1 Những nguyên tắc dạy học do Komensky đề xuất là rất có giá trị, nhưng cần
điều chỉnh lại một số vấn đề như mối quan hệ giữa trực quan và trừu tượng.
Trực quan chỉ cho phép nhận thức được những biểu hiện bề ngoài của sự vật.
Phải phối hợp trực quan và trừu tượng mới cho phép tìm hiểu được bản chất của
các sự vật và quá trình. Nhất là trong điều kiện hiện đại, khi đi sâu vào tìm hiểu
thế giới vi mô, siêu vĩ mô và những quá trình trừu tượng thì việc tuyệt đối hoá ý
nghĩa của trực quan là không thích hợp vì tư duy trừu tượng giữ vai trò vô cùng

quan trọng.
6.2 Komensky cho rằng con người là một thực thể tự nhiên, việc giáo dục con
người phải phù hợp với quy luật tự nhiên. Tư tưởng này đã xuyên suốt toàn bộ
tác phẩm “Lý luận dạy học” của ông. Tuy nhiên ông không thấy được con người
còn là một thực thể xã hội và mối quan hệ giữa con người với xã hội, sự phát
triển của một con người vừa có quá trình xã hội hoá và cá nhân hoá.
6.3 Komensky cho rằng sự phát triển của học sinh là theo một tiến trình tương
ứng với các thời điểm nhất định mà không thấy sự nhảy vọt của sự phát triển
con người cũng như các sự vật hiện tượng khác.
6.4 Komensky cho rằng nội dung và chương trình giáo dục chủ yếu là do nhà
trường, tuỳ thuộc vào giáo viên nhưng thực chất nguồn nội dung giáo dục không
còn giới hạn bởi nhà trường và thầy giáo nữa mà nội dung hiện nay học sinh còn
được tiếp nhận từ các nguồn khác.
Kết luận:
Hệ thống tư tưởng, quan điểm và các nguyên tắc liên quan đến “Lý luận
dạy học” của Komensky được trình bày trong tác phẩm mang tính “cách mạng”
và tính “trường tồn” bởi vì Komensky đã từ quan sát các hiện tượng tự nhiên
vận dụng vào quá trình dạy học – giáo dục con người mà kết quả đạt được vẫn
còn giữ được giá trị đến ngày nay. Mặt khác những tư tưởng, quan điểm, nguyên
tắc ấy liên quan nhiều đến thực tiễn mà đến ngày nay hoạt động dạy học – giáo
dục của nhà trường và của các giáo viên vẫn còn đang áp dụng một cách có hiệu
quả.
24


25


×