Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

tình hình phát triển công nghệ cao trên thế giới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.16 KB, 63 trang )

TRUNG TÂM THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHỆ CAO TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY

Hà Nội, 3/2008

1


MỤC LỤC

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CAO Trang
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
LỜI NÓI ĐẦU
I.

II.

III.

ĐỊNH NGHĨA CÔNG NGHỆ CAO VÀ CÔNG NGHỆP
CÔNG NGHỆ CAO, DOANH NGHIỆP CÔNGNGHỆ
CAO, KHU CÔNG NGHỆ CAO

1

1.1.Công nghệ cao

1


1.2. Công nghiệp công nghệ cao

2

1.3. Khu công nghệ cao

3

CÁC LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ CAO

4

2.1. Các ngành công nghiệp công nghệ cao

5

2.2. Phân loại các ngành công nghiệp công nghệ cao

6

MÔ HÌNH CÁC KHU CÔNG NGHỆ CAO TRÊN THẾ
GIỚI

8

3.1.Các đặc khu công nghiệp và khu công nghệ cao

8

3.2. Mô hình các khu công nghệ cao trên thế giới


9

3.3. Một số khu công nghệ cao đặc trưng trên thế giới

10

3.4. Một số khu công nghệ cao trong khu vực châu Á

14

IV PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CAO CỦA CÁC NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
V

DANH MỤC CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP CÔNG
NGHỆ CAO VÀ SẢN PHẨM CÔNG NGHỆ CAO

2

16
24


Lời nói đầu
Công nghệ cao là loại hình công nghệ được coi là tiên tiến nhất hiện nay. Đó là
những công nghệ cho phép sản xuất với năng suất cao và sản phẩm có chất lượng
cao, nghĩa là có thể mang lại giá trị gia tăng cao với cùng nguồn lực vốn và lao
động. Bản thân công nghệ cao đã bao hàm “3 cao”: hiệu quả cao, giá trị gia tăng
cao và độ thâm nhập cao.

Công nghệ cao hiện diện ở khắp mọi nơi, lan tỏa trực tiếp và gián tiếp tới mọi
ngành trong nền kinh tế, làm chuyển hóa các hoạt động kinh tế ra khỏi các nguồn
lực truyền thống như hàng tiêu dùng lâu bền hay đầu tư vào kết cấu, trong khi
cùng lúc làm tăng thêm mức độ tổng đầu ra. Bản thân những tiến bộ trong lĩnh vực
công nghệ cao đã tạo nên các ngành công nghiệp tăng trưởng hoàn toàn mới, được
gọi là các ngành công nghiệp công nghệ cao, được đặc trưng bằng sự đổi mới liên
tục về công nghệ và sản phẩm. Các ngành này cho thấy có tỷ lệ tăng trưởng cao
hơn so với nền kinh tế nói chung và chiếm một tỷ lệ ngày càng tăng trong thương
mại nội địa và quốc tế, là phần đóng góp quan trọng và trực tiếp cho tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế.
Đầu tư phát triển các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin là một
hướng đi mà hầu hết các nước trên thế giới đều tuân theo để nhằm tạo ra một động
lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế trong nước, cũng như để tìm cho mình một chỗ
đứng vững chắc trên thị trường thương mại quốc tế. Trung tâm Thông tin KH&CN
Quốc gia xin giới thiệu bản báo cáo “Tình hình phát triển công nghệ cao trên
thế giới hiện nay”, cung cấp các khái niệm, định nghĩa về công nghệ cao, các
ngành công nghiệp công nghệ cao, các khu công nghệ cao và một số nét chính về
tình hình phát triển công nghệ cao trên thế giới. Ở phần cuối là danh mục các
ngành công nghệ cao và các sản phẩm công nghệ cao.
TRUNG TÂM THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA

3


I. ĐỊNH NGHĨA CÔNG NGHỆ CAO VÀ CÔNG NGHỆP CÔNG
NGHỆ CAO, DOANH NGHIỆP CÔNGNGHỆ CAO, KHU CÔNG
NGHỆ CAO
1.1.Công nghệ cao
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công

cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.
Công nghệ cao (CNC) là những công nghệ cho phép sản xuất với năng suất
cao và sản phẩm có chất lượng cao, nghĩa là có thể mang lại nhiều giá trị gia
tăng hụn với cùng lượng vốn và lao động. Bản thân công nghệ cao đã bao
hàm “3 cao”: hiệu quả cao, giá trị gia tăng cao và độ thâm nhập cao.
CNC còn có khả năng mở rộng phạm vi, hiệu quả của các loại hình công
nghệ khác nhờ tích hợp các thành tựu khoa học và công nghệ (KH&CN) tiên
tiến. Mức độ CNC có thể được đo bằng độ ngắn của chu kỳ sống sản phẩm.
Hiện nay, đối với ngành công nghiệp máy tính, chu kỳ sống của sản phẩm là
dưới hai năm.
Sản phẩm CNC là sản phẩm được tạo ra nhờ CNC thông qua quá trình thiết
kế hoặc sản xuất sản phẩm.
CNC thường phải có các đặc điểm sau đây:
(i)

Chứa đựng nỗ lực quan trọng về nghiên cứu-phát triển (NCPT);

(ii)

Có ý nghĩa chiến lược đối với quốc gia;

(iii)

Sản phẩm được đổi mới nhanh chóng;

(iv) Đầu tư lớn, độ rủi ro cao, nhưng khi thành công sẽ đem lại lợi nhuận
khổng lồ;
(v) Thúc đẩy năng lực cạnh tranh và hợp tác trong NCPT, sản xuất và tìm
kiếm thị trường trên quy mô toàn cầu.
Tiêu chí quan trọng nhất để xác định một CNC là hàm lượng NCPT cao

(high R&D intensity) trong sản phẩm. Các đặc điểm và tiêu chí trên đây về
CNC được chấp nhận một cách rộng rãi, song việc xác định các ngành CNC
lại phụ thuộc khá nhiều vào quan niệm của từng quốc gia, từng nhóm quốc
gia về ý nghĩa chiến lược của các ngành cụ thể đối với mỗi nước trong từng
thời kỳ xác định.

4


1.2. Công nghiệp công nghệ cao
Công nghiệp CNC là ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm CNC. Công
nghiệp CNC được đặc trưng bởi sự đổi mới liên tục về công nghệ, sản phẩm.
Như vậy, doanh nghiệp CNC thường dành nhiều nguồn lực cho cải tiến,
sáng tạo công nghệ và sản phẩm.
Ngành công nghiệp CNC có những đặc điểm chủ yếu sau:
(i) Đặc điểm nổi bật là sự tích hợp các thành tựu KH&CN. Do vậy, trong
lĩnh vực CNC, các ngành công nghiệp gắn liền với nhau và liên quan đến
nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, lĩnh vực vật liệu mới liên quan nhiều
đến điện tử, tin học, cơ-điện tử, sinh học và năng lượng mới.
(ii) Năng suất lao động tương đối cao do sử dụng hàm lượng trí tuệ, kỹ thuật,
kỹ năng và thông tin, cao hơn hẳn các ngành công nghiệp thông thường.
(iii) Cấu trúc sản phẩm khá phức tạp và đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ngành
công nghiệp nhằm đáp ứng tính đa dạng của công nghệ và sản phẩm đầu
vào. Các ngành công nghiệp hỗ trợ không chỉ bao hàm việc sản xuất hàng
hóa, mà còn cả những dịch vụ khác nhau như thiết kế, kỹ thuật, tư vấn, sản
xuất thử, thử nghiệm, kiểm tra và đánh giá chất lượng sản phẩm, chuyển
giao công nghệ.
(iv) Tiềm năng thị trường lớn. Thị trường của sản phẩm CNC được mở rộng
cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng. Vì
vậy, cạnh tranh toàn cầu để xuất khẩu các sản phẩm CNC là điều rất quan

trọng.
(v) Quá trình sản xuất công nghiệp CNC và sản phẩm của nó thường sử
dụng rất ít nguyên liệu, năng lượng, bởi lẽ chúng được phát triển với mục
tiêu hạn chế chi phí các nguồn nguyên liệu và năng lượng không tái tạo,
cũng như nhằm bảo vệ môi trường. Cũng vì vậy phần lớn sản xuất công
nghiệp CNC đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu khá lớn. Hơn nữa, những sản phẩm
công nghiệp CNC thường không cồng kềnh, mà “sáng, mỏng, nhỏ và nhẹ”.
(vi) Về mặt quản lý kinh doanh, công nghiệp CNC là kinh doanh "mạo hiểm
cao và được bù đắp cao". Việc đổi mới các hoạt động NCPT liên tục cũng
như việc thường xuyên tìm kiếm các thị trường mới là rất tốn kém và mạo
hiểm. Vì vậy, đòi hỏi một sự cạnh tranh gay gắt, tuy nhiên lợi nhuận cao sẽ
là phần bù đắp thỏa đáng cho những hoạt động kinh doanh có độ mạo hiểm
cao này.

5


1.3. Khu công nghệ cao
Sự hình thành và phát triển các khu công nghệ (Technology Park) là yếu tố
rất quan trọng và không thể thiếu để thúc đẩy nhanh sự ra đời các công nghệ
mới. Từ khu công nghệ đầu tiên và cũng rất tiêu biểu cho thế hệ khu công
nghệ thứ 1 (thập niên 50 - 60 của thế kỷ XX) là Khu Thung Lũng Silicon
(Mỹ) đến các khu CNC xuất hiện gần đây trong bối cảnh toàn cầu hóa (thế
hệ thứ 3), đã có nhiều thuật ngữ khác nhau, như: công viên khoa học, công
viên công nghệ, trung tâm công nghệ, trung tâm đổi mới công nghệ, công
viên KH&CN, trung tâm CNC, song về bản chất đều có một số điểm chung.
Thuật ngữ “Khu CNC” được dùng chỉ một trung tâm, một khu vực riêng
biệt, thuộc quyền quản lý và sở hữu của các công ty, trường đại học, viện
nghiên cứu, của địa phương, quốc gia hoặc của nhiều thành phần khác nhau.
Hoạt động của các khu này nhằm mục đích trao đổi, sáng tạo, phát triển,

ươm tạo các công nghệ mới, thúc đẩy hình thành nền công nghiệp CNC và
góp phần quan trọng cho việc xây dựng năng lực công nghệ của quốc gia.
Đối với các nước đang phát triển, có thể quan niệm một cách khái quát: Khu
CNC là nơi tiếp thu CNC của thế giới, là cửa ngõ nhập khẩu các CNC của
các công ty đa/xuyên quốc gia có CNC hàng đầu thế giới, là nơi làm việc có
đủ điều kiện để sáng tạo của các nhà khoa học quốc tế và trong nước. Nơi
đây, trong giai đoạn đầu sẽ tiếp thu chuyển giao công nghệ và sau đó là sáng
tạo các CNC. Trong vai trò cửa khẩu trên siêu xa lộ thông tin, với môi
trường thuận lợi cho việc đầu tư CNC, quá trình chuyển giao thực hiện tại
chính khu vực sản xuất, hoặc NCPT, đào tạo, giúp cho việc tiếp thu và sử
dụng CNC có hiệu quả.
Khu CNC thường được quy hoạch giới hạn trong một vùng lãnh thổ có quy
mô lớn nhỏ khác nhau, nhưng phải là địa điểm có môi trường tốt nhất để:
- Đầu tư công nghiệp CNC;
- Sản xuất các sản phẩm CNC;
- Chuyển giao, thích nghi CNC;
- Dịch vụ-thương mại các sản phẩm CNC;
- Nghiên cứu, ươm tạo và phát triển các CNC;
- Tăng cường năng lực công nghệ nội sinh của đất nước;
- Đào tạo, huấn luyện kỹ năng CNC;

6


II. CÁC LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ CAO
Đến nay, trên thế giới đã cơ bản thống nhất với nhau có 6 lĩnh vực công
nghệ cao sau đây để nghiên cứu phát triển trong thế kỷ XXI:
1. Công nghệ thông tin - CNTT là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa
học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình xử lý thông tin.
Theo đó, CNTT là hệ thống các tri thức khoa học, các kỹ thuật và phương

tiện hiện đại để thu thập, xử lý, lưu trữ, sản xuất và truyền thông tin nhằm
khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin vào mọi lĩnh vực
hoạt động của con người. Công nghệ thông tin chính là lực lượng nòng cốt
và xung kích của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, dẫn dắt
nhân loại bước vào kỷ nguyên trí tuệ.
2. Công nghệ sinh học - CNSH là một tập hợp các ngành khoa học (sinh
học phân tử, di truyền học, vi sinh vật, sinh hóa học và công nghệ học) nhằm
tạo ra các công nghệ khai thác ở quy mô công nghiệp các hoạt động sống
của các vi sinh vật, tế bào thực vật và động vật. Sản phẩm đặc trưng là giống
cây, con, vi sinh vật có chất lượng cao và các sản phẩm chưa từng có dùng
trong nông nghiệp, công nghiệp, y tế...
Cùng với các ngành công nghệ mũi nhọn khác (công nghệ thông tin và công
nghệ vật liệu mới), CNSH sẽ góp phần khai thác tối ưu các nguồn lực của
đất nước phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân và chuẩn bị những tiền đề cần thiết về mặt công nghệ trong thế kỷ
XXI.
3. Công nghệ vật liệu mới dựa trên khoa học vật liệu, khoa học về cấu trúc
các hệ đông đặc, khoa học mô phỏng hệ nguyên tử v.v.. Sản phẩm chủ yếu
của nó là các vật liệu chức năng (ví dụ: vật liệu bán dẫn, siêu dẫn, laze...),
vật liệu siêu bền, siêu cứng, siêu chịu nhiệt, vật liệu compozit, vật liệu nanô
v.v..
Với công nghệ nanô, con người có khả năng thao tác vật liệu ở mức phân tử
hay nguyên tử, mở ra khả năng điều khiển cấu trúc vật liệu. Nó cho phép chế
tạo những vật liệu có các chức năng rất đặc thù như thăm dò môi sinh và xử
lý thông tin. Vật liệu được thao tác ở cấp nanô sẽ có tiềm năng rất lớn do có
các tính chất hoàn toàn khác với những vật liệu chế tạo trước đó.
4. Công nghệ năng lượng mới bao gồm năng lượng hạt nhân, năng lượng
mặt trời, năng lượng địa nhiệt, năng lượng hải dương v.v., trong đó đặc biệt
là lợi dụng sự phát triển của năng lượng hạt nhân và năng lượng mặt trời,
nhằm thoát khỏi sự ràng buộc vào loại năng lượng hóa thạch (dầu mỏ và

7


than đá), mở ra một thời đại năng lượng mới. Song, đến nay hầu hết các
nước trên thế giới rất coi trọng công nghệ năng lượng hạt nhân. Công nghệ
này dựa trên vật lý học hạt nhân, năng lượng học, v.v.. Sản phẩm chủ yếu là
nhà máy nhiệt, nhà máy điện hạt nhân, các phương tiện giao thông vận tải
dùng năng lượng hạt nhân, các thiết bị y tế dùng năng lượng hạt nhân v.v..
5. Công nghệ hàng không vũ trụ dựa trên các thành tựu hiện đại của khoa
học về Vũ trụ, về vật lý địa cầu, vật lý khí quyển và vùng lân cận trái đất, vật
lý thiên văn của Thái dương hệ v.v.. Các sản phẩm điển hình: vệ tinh nhân
tạo, tàu vũ trụ, tàu con thoi v.v..
Công nghệ hàng không vũ trụ tạo ra một loạt các sản phẩm, dịch vụ chưa
từng có: thông tin viễn thám, thông tin liên lạc toàn cầu, thông tin địa lý toàn
cầu v.v...
6- Công nghệ hải dương bao gồm việc sử dụng, khai thác tài nguyên sinh
vật, khoáng vật, hoá học, động lực v.v.. trong lòng các đại dương.
2.1. Các ngành công nghiệp công nghệ cao
Công nghiệp công nghệ cao được đặc trưng bởi sự đổi mới liên tục các công
nghệ, sản phẩm. Doanh nghiệp công nghệ cao thường dành nhiều nguồn lực
cho việc cải tiến, sáng tạo công nghệ và sản phẩm. Tại các nước công nghiệp
hoá, các ngành công nghệ cao là những nguồn sáng tạo việc làm và thuê
mướn nhân công có năng lực, được trả lương cao hơn so với mức trung bình.
Các ngành này có tỷ lệ tăng trưởng cao hơn so với nền kinh tế nói chung và
chiếm một tỷ trọng ngày càng tăng trong thương mại nội địa và quốc tế, là
phần đóng góp chủ yếu cho xuất khẩu hàng công nghiệp ở hầu hết các nước.
Ngoài ra, các ngành này còn có hàm lượng vốn, NCPT cao và rất có hiệu
quả trong việc sáng tạo ra tri thức và công nghệ mới. Chúng hoạt động dựa
trên một tốc độ phát triển NCPT rất nhanh, thường xuyên tung ra thị trường
các hàng hoá và dịch vụ mới.

Công nghiệp công nghệ cao còn được gọi là công nghiệp dựa trên khoa học
và công nghệ ở đó, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, sản phẩm có hàm lượng khoa học cao, năng suất lao động rất cao.
Theo UNESCO, hạng mục “công nghệ” được xác định dưới hình thức “hàm
lượng NCPT” ở các ngành công nghiệp thuộc lĩnh vực chế tạo, trong đó chi
phí NCPT được tính theo tỷ lệ phần trăm của một biến số kinh tế khác,
thường là giá trị sản phẩm (doanh thu) của ngành đó. Hiện nay đang nghiên
cứu xem xét một ngành tương đối mới mẻ, đang ngày càng trở thành “công
nghệ cao”, đó là ngành dịch vụ.
8


Hàm lượng NCPT cao (high-tech) tương ứng với tỷ số chi phí NCPT/doanh
thu ≥ 4%; hàm lượng NCPT trung bình (medium-tech) có chi phí
NCPT/doanh thu = 1-4%; và hàm lượng NCPT thấp (low-tech) khi chi phí
NCPT/doanh thu ≤1%.
Định nghĩa công nghiệp CNC như thế nào phụ thuộc vào quyết định dùng
phương pháp nào trong hai phương pháp tiếp cận chủ yếu: a) Phương pháp
sử dụng tỷ lệ phần trăm số nhân lực NCPT trong một ngành công nghiệp cụ
thể so với tất cả các ngành công nghiệp hoặc b) Tính theo phần trăm chi phí
NCPT trong tổng doanh thu, như là một đại lượng về hàm lượng NCPT.
Hiện nay, 10 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học cao nhất là: hoá
chất y học và sản phẩm thực vật; sản phẩm sinh học, ngoại trừ sản phẩm
dùng cho chẩn đoán; phần mềm bao gói sẵn; sản phẩm chẩn đoán in vitro và
in vivo; điện thoại và thiết bị truyền thông; dược phẩm; nghiên cứu thương
mại; thiết bị điện dùng trong y học; thiết bị truyền thông máy tính và các
dụng cụ phân tích trong phòng thí nghiệm.
Mặc dù 10 ngành công nghiệp này là các ngành có hàm lượng khoa học cao,
nhưng không nhất thiết tất cả chúng đều có tác động lớn đến nền kinh tế.
Một số ít ngành, được coi là các ngành công nghiệp công nghệ siêu cao,

đứng hàng đầu các ngành công nghiệp CNC: dược phẩm; điện thoại và thiết
bị truyền thông, sản phẩm sinh học, ngoại trừ sản phẩm dùng cho chẩn đoán;
thiết bị bán dẫn và thiết bị có liên quan và phần mềm bao gói sẵn. Các ngành
này có cường độ nghiên cứu cao, chi phí NCPT lớn và có tăng trưởng doanh
thu cao hơn tăng trưởng doanh thu bình quân.
2.2. Phân loại các ngành công nghiệp công nghệ cao
Công nghiệp công nghệ cao là những ngành đang phát triển mạnh nhất trong
thương mại quốc tế. Các ngành này đóng vai trò động lực, giúp nâng cao
hoạt động của các ngành khác. Để phân tích ảnh hưởng của công nghệ đối
với hoạt động công nghiệp, điều quan trọng là phải xác định được các ngành
công nghiệp và sản phẩm nào có hàm lượng công nghệ cao nhất, thông qua
các tiêu chí cho phép xây dựng các hệ thống phân loại hài hòa trên phạm vi
quốc tế.
Phân loại các ngành công nghiệp chế tạo theo hàm lượng công nghệ toàn
cầu:
Công nghiệp công nghệ cao
Hàng không vũ trụ
Máy tính, máy văn phòng

9


Điện tử - viễn thông
Dược phẩm
Công nghiệp công nghệ trung bình cao
Thiết bị khoa học
Ô-tô
Máy điện
Hóa chất
Các thiết bị vận tải khác

Máy không dùng điện
Công nghiệp công nghệ trung bình thấp
Sản phẩm cao su và chất dẻo
Đóng tàu
Các ngành chế tạo khác
Luyện kim màu
Sản phẩm khoáng phi kim loại
Các sản phẩm kim loại chế tạo
Lọc dầu
Luyện kim đen
Công nghiệp công nghệ thấp
In ấn, giấy
Dệt, may
Thực phẩm, đồ uống và thuốc lá
Gỗ và đồ gỗ
Các nhóm sản phẩm công nghệ cao:
Thiết bị hàng không vũ trụ

10


Máy tính và thiết bị văn phòng
Điện tử - viễn thông
Dược phẩm
Thiết bị khoa học
Điện máy
Hoá chất
Máy công cụ và dụng cụ đo lường
Vũ khí
II. MÔ HÌNH CÁC KHU CÔNG NGHỆ CAO TRÊN THẾ GIỚI.

3.1.Các đặc khu công nghiệp và khu công nghệ cao
Có thể phân biệt các đặc khu và khu CNC theo chức năng của chúng như
sau:
a) Khu công nghiệp (Industrial Zone, Industrial Park): là một quần thể liên
hoàn các xí nghiệp công nghiệp xây dựng trên một vùng đất có thuận lợi về
các yếu tố địa lý tự nhiên, về kết cấu hạ tầng, về xã hội và nhân văn để thu
hút đầu tư và hoạt động theo một cơ cấu hợp lý các doanh nghiệp công
nghiệp và các doanh nghiệp dịch vụ nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động
sản xuất công nghiệp và kinh doanh.
b) Khu chế xuất (Export Processing Zone): là một đặc khu công nghiệp và
dịch vụ đặt trên một diện tích được khép kín, thường ở trong cảng hoặc gần
cảng để nhập các nguyên liệu miễn thuế, chế biến các nguyên liệu này nhằm
mục đích xuất khẩu. Khu chế xuất nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
thực hiện những hoạt động sản xuất và dịch vụ xuất khẩu, được hưởng
những ưu đãi nhất định của Nhà nước (thuế, điều kiện thương mại) liên quan
đến tận dụng các nguồn lực trong nước để tiến hành các hoạt động sản xuất
và dịch vụ xuất khẩu.
c) Khu công nghiệp công nghệ cao (Hi-Tech Industrial Zone): là khu công
nghiệp tập trung chuyên sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ về các sản
phẩm có sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao. Mục đích của khu này
là sử dụng tối ưu các cơ sở hạ tầng và các điều kiện tốt của môi trường, mà
nếu để rải rác sẽ phải đầu tư quá lớn, để có thể tạo ra các sản phẩm của một
số lĩnh vực công nghệ cao.

11


d) Công viên khoa học (Science Park): là một khu vực tập trung các phòng
thí nghiệm, nơi thử nghiệm, kiểm chứng các ý tưởng khoa học.
e) Khu công nghệ cao (Hi-Tech Park): là khu vực tập trung các tổ chức

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, các phòng thí nghiệm, các tổ
chức đào tạo, các xí nghiệp công nghệ cao và các tổ chức dịch vụ nội bộ khu
và các đối tượng nằm ngoài khu. Khu công nghệ cao là trung tâm ươm tạo
công nghệ, gắn KH&CN hiện đại với sản xuất các sản phẩm công nghệ cao.
Khu công nghệ cao định hướng hoạt động của mình vào việc thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài và trong nước để tiến hành các hoạt động chuyển giao
công nghệ, nghiên cứu nhằm phát triển các công nghệ cao, không chỉ nhằm
phục vụ mục đích xuất khẩu, mà chủ yếu nhằm tạo ra năng lực công nghệ
trong nước, biến đổi cơ cấu công nghiệp và dịch vụ trong nước. Do vậy, khu
công nghệ cao phải có một môi trường thuận lợi để sáng tạo ra công nghệ
mới trong lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, luôn luôn được đổi mới bằng những
thành tựu KH&CN tiên tiến nhất.
3.2. Các loại hình khu công nghệ cao trên thế giới
Tuỳ thuộc trình độ KH&CN của vùng và do các mục tiêu khác nhau mà mô
hình khu CNC của một số nước trên thế giới cũng rất khác nhau và đa dạng.
Khu CNC có thể được phân loại theo mức độ hoạt động NCPT, hoặc theo
mô hình.
1) Theo trình độ hoạt động nghiên cứu và phát triển (NCPT)
(i) Công viên khoa học truyền thống (Traditional Science Park)
-Tỷ trọng NCPT rất cao, chủ yếu thúc đẩy quá trình NCPT và thương mại
hóa các kết quả NCPT;
-Thường do các trường đại học thành lập hoặc liên kết - gắn chặt với các
trường đại học.
Thí dụ: Đại học Stanford (Mỹ), Đại học Cambridge (Anh).
(ii) Thành phố khoa học (Science City hoặc Technopolis)
- Kết hợp chặt chẽ hoạt động NCPT với sản xuất;
- Thường kết hợp tạo vùng công nghiệp mới;
Thí dụ: Khu Tsukuba (Nhật Bản), Sophia Antipolis (Pháp).
(iii) Công viên đổi mới công nghệ (Technology Innovation Park)
- Kết hợp sản xuất hàng hóa có trình độ CNC với phát triển NCPT;

12


- Chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp lớn và thu hút đầu tư từ bên ngoài, có
liên kết với viện nghiên cứu, trường đại học.
Thí dụ: Khu Tân Trúc (Hsinchu) của Đài Loan, các Khu CNC ở Hà Lan,
Đức, áo, Singapo.
(iv) Trung tâm Công nghệ/Vườn ươm (Technology Centre/Incubator)
- Giúp các doanh nghiệp nhỏ (mới thành lập) phát triển công nghiệp (nhờ
trung tâm ươm tạo doanh nghiệp);
- Liên kết với Viện nghiên cứu/Đại học và có thể đứng độc lập (thường nhỏ
hơn 10 ha trong thành phố) hoặc nằm trong khu công nghệ.
Thí dụ: nhiều khu ở Hồng Kông, Trung Quốc, Philippin, Nigeria.
(v) Khu khoa học chuyên biệt (Special Science Park)
- Là Công viên khoa học nhưng tập trung vào một số lĩnh vực, một thị
trường sản phẩm nhất định.
Thí dụ: Khu y học (Singapo), Khu công nghệ phần mềm (ấn Độ).
2) Theo mô hình chức năng
- Mô hình công viên khoa học thường được xây dựng ở các nước có công
nghệ tiên tiến, nhấn mạnh phát triển nghiên cứu, thương mại hóa các kết quả
NCPT, gắn liền với các trường đại học,... như ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,...
- Mô hình "Trung tâm đổi mới công nghệ" (Technology Innovation Center)
như ở Đức, Hà Lan, Đài Loan, Singapor và các nước Bắc Âu. Trong các khu
này, hoạt động NCPT ở các viện nghiên cứu nhà nước, trường đại học được
tổ chức gắn với các doanh nghiệp để thương mại hoá các kết quả, chú trọng
tạo việc làm và có chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Mô
hình hoạt động của các khu này tại Singapo và Malaixia gần đây có những
nét khá điển hình: chủ yếu là vai trò hỗ trợ rất quan trọng của Nhà nước (vốn
và chính sách công nghệ).
- Mô hình “Vườn ươm doanh nghiệp” (Incubator), chú trọng phát triển kinh

doanh và tạo việc làm, hoạt động NCPT là thứ yếu, như một số ở Trung
Quốc, Philippines, Trinidad và Tobago, Nigeria,...
- Nhiều khu công nghệ trên thực tế thường pha trộn giữa các mô hình trên
đây.
3.3. Một số khu công nghệ cao đặc trưng trên thế giới
1) Khu thung lũng Silicon (Silicon Valley)
13


Được thành lập năm 1951 tại Palo Alto (Tây Nam San Francisco, Mỹ), rộng
gần 1.000 km2 chủ yếu phát triển CNTT. Năm 2000 có 330.000 lao động kỹ
thuật cao (chiếm 73% tổng lực lượng lao động), có 6.000 tiến sĩ khoa học,
hơn 8.000 doanh nghiệp, có hơn 4.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực điện tử - tin học, doanh thu xấp xỉ 200 tỷ USD/năm. Là nơi tập trung
các công ty điện tử - tin học, được phát triển xung quanh một trường đại học
có hoạt động nghiên cứu cao cấp: Đại học Stanford (Mỹ). Một trong những
yếu tố thành công của Khu này là cơ cấu quản lý linh hoạt, nhạy bén và con
người ở đây trẻ, sẵn sàng chịu rủi ro và mạnh dạn đối với những cách tiếp
cận mới. Khu này có sự đóng góp nhân lực khá lớn (khoảng 10.000 người)
của người Việt Nam định cư ở Mỹ, nhưng chủ yếu là kỹ thuật viên và kỹ sư.
Quá trình hình thành và phát triển Silicon Valley được tóm tắt theo các giai
đoạn như sau:
- Các hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ điện tử thế
giới bắt đầu tại trường Đại học Stanford. Công ty sản xuất thiết bị điện tử
đầu tiên được thành lập là Federal Telegraph Company of Palo Alto.
- Năm 1950, Khu CNC này được thành lập dựa trên hạt nhân là Khu công
nghệ Stanford với sự tham gia của nhiều công ty điện tử trong đó có HP.
Trường Đại học Stanford đóng vai trò lớn trong việc hình thành Khu CNC
này.
- Những năm 1960, được sự hỗ trợ của các chương trình điện tử quốc phòng

Mỹ, các công ty mới tách ra từ các hãng ban đầu, sản xuất đến 95% sản
lượng “chip” trên thế giới.
- Thời kỳ 1970-1980, các hãng sản xuất vật liệu bán dẫn, cùng với sự ra đời
máy tính cá nhân, được thành lập và trở thành những công ty điều khiển
cuộc cách mạng CNC.
- Từ năm 1980, chuyển hướng sang các lĩnh vực sáng tạo siêu xa lộ thông
tin. Ngoài các công ty ở Mỹ, các công ty Nhật Bản, Hàn Quốc và một số
nước cũng đã tham gia các hoạt động đầu tư ở Khu này.
Khu này đặc trưng cho mô hình khu Công viên khoa học truyền thống, phát
triển từ một khu công nghệ làm lõi và dựa vào hoạt động NCPT của trường
đại học.
2) Khu Sophia Antipolis của Pháp
Sophia Antipolis nằm ở phía Nam nước Pháp, được thành lập vào năm 1972,
là một tập hợp các viện nghiên cứu và đào tạo, các doanh nghiệp phát triển
và các trung tâm nghiên cứu và sản xuất cũng như những tổ chức cá nhân và
xã hội khác. Khu này được xây dựng như một thành phố trí tuệ KH&CN
14


mang tính quốc tế, có diện tích khoảng 2.350 ha. Khu Sophia Antipolis được
xây dựng với mục đích hình thành và phát triển một trung tâm kinh tế chú
trọng vào CNC để biến một vùng lớn Provence-Alpes-Cote d’Azur của Pháp
trở thành một trong những trung tâm phát triển kinh tế ở Nam châu Âu.
Những công ty quốc tế, chủ yếu từ Bắc Mỹ đã sử dụng Sophia Antipolis như
một đầu mối cho việc mở rộng các hoạt động của họ ở thị trường châu Âu.
Khu CNC này được phát triển bằng cách tập trung các trung tâm đổi mới nổi
tiếng và những trung tâm đang phát triển trong vùng. Các doanh nghiệp và
các tổ chức nhận được những ưu đãi về thuế, và trợ giúp về kỹ thuật từ chính
quyền nhà nước và địa phương. Trọng tâm hoạt động được đặt vào những
thương vụ có giá trị gia tăng cao, NCPT và hoạt động bổ sung cần thiết.

Tình hình hoạt động của Khu CNC Sophia Antipolis phát triển đều và khá
ổn định, với phần lớn là các công ty quy mô nhỏ, hoạt động năng động và có
hiệu quả tương đối cao. Tới ngày 1/1/1998, đã có 1.103 doanh nghiệp tham
gia Khu, tạo ra 18.536 việc làm. Các công ty có vốn nước ngoài cũng đóng
một vai trò quan trọng trong Khu CNC này. Hiện nay, 105 doanh nghiệp
cóự vốn nước ngoài (chiếm 10% tổng số các doanh nghiệp trong Khu) đã
thuê 24% tổng số nhân viên hoạt động trong Khu (4.301 người). Ngày càng
có nhiều công ty nước ngoài hoạt động trong Khu, làm tăng số việc làm. Các
doanh nghiệp và các tổ chức trong Khu hoạt động ở các lĩnh vực: CNTT; ytế; hóa cao cấp; công nghệ sinh học; năng lượng và môi trường; nghiên cứu
và đào tạo cao cấp; sản xuất; dịch vụ, thương mại và các hoạt động hiệp hội
khác. Trong đó, CNTT với những công nghệ mới, cao cấp, về viễn thông và
các hoạt động dịch vụ, sản xuất và phân phối là các lĩnh vực được phát triển
mạnh. Tổ chức quản lý của Khu CNC Sophia Antipolis đãừ thay đổi nhiều
theo thời gian. Hiện nay, đơn vị quản lý Khu CNC này là một công ty cổ
phần, liên kết giữa tư nhân và Nhà nước.
3)Thành phố khoa học Tsukuba (Tsukuba Science City), Nhật Bản
Thành phố khoa học Tsukuba của Nhật Bản là một dự án quốc gia được thực
hiện trên một khu vực rộng 28.560 ha. Nó được phát triển thành một thành
phố khoa học có quy hoạch cẩn thận bao gồm các khu nhà ở lân cận, các cơ
sở giáo dục và thương mại, các văn phòng, các viện thử nghiệm và nghiên
cứu quốc gia. Ngoài ra, để có được sự cân bằng, người ta còn phát triển khu
vực ngoại vi thành phố. Thành phố khoa học Tsukuba được thành lập từ năm
1970, nhằm thúc đẩy KH&CN và đào tạo, đồng thời có mục đích tiếp nhận
một phần dân cư từ Tokyo.
Đến năm 1980 Thành phố khoa học Tsukuba có 45 viện nghiên cứu và đào
tạo (chiếm 30% tổng số trung tâm của cả nước). Từ năm 1980, hợp tác giữa
15


khu vực công cộng và tư nhân bắt đầu phát triển, đến 4/1992, có 4 khu công

nghiệp và 160 hãng tư nhân tham gia, thu hút hơn 10.000 cán bộ nghiên cứu.
Thành phố khoa học này được chia thành 2 vùng, một vùng nghiên cứu hàn
lâm và một vùng phát triển ngoại vi. Vùng nghiên cứu hàn lâm (với diện tích
2.700 ha) có 47 cơ quan thử nghiệm, nghiên cứu quốc gia và các cơ sở có
tính chất hàn lâm, như các trường đại học, cùng các phương tiện thương mại
và kinh doanh, kể cả các khách sạn, tòa nhà trung tâm với phòng đợi công
cộng, các cửa hàng trung tâm, một bến xe buýt, khu nhà ở. Ngoài ra có một
số ít trung tâm giải trí, nghỉ ngơi khác. Đây là một thiếu sót trong quy hoạch
vì những người sống ở đây ít được thư giãn và tham gia các hoạt động xã
hội. Vùng ngoại vi là vùng công nghiệp, nghiên cứu và nhà ở với 115 công
ty và 9 tổ chức được chia thành 6 khu với diện tích 25.860 ha. Từ năm 2001,
đã hình thành một cơ chế tự quản của Trung tâm quốc gia về CNC trong
Khu, có mối quan hệ chặt chẽ (nhưng không trực thuộc) với Bộ Kinh tế và
Công thương Nhật Bản và có mạng lưới liên kết với các trung tâm khoa học
và các trường đại học trong cả nước.
4)Khu CNC Tân Trúc (Hsinchu, Đài Loan)
Khu CNC Tân túc được thành lập năm 1980, nằm trong khu vực rộng 2.100
ha cách Đài Bắc 80 km do Uỷ ban Khoa học Đài Loan chuẩn bị và tổ chức
triển khai. Diện tích xây dựng của Khu là 650 ha, phát triển theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: 270 ha; giai đoạn 2: mở rộng thêm 110 ha, và giai đoạn 3: phát
triển thêm 170 ha. Đến nay, Khu CNC Tân Trúc có diện tích 743 ha. Khu
CNC này được xây dựng nhằm thu hút đầu tư vào các công ty CNC của Đài
Loan và hỗ trợ phát triển công nghiệp CNC tại Đài Loan, dựa trên một
nguyên tắc chiến lược căn bản là xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi
cho các công ty CNC và hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại phù hợp với đòi hỏi
của các lĩnh vực CNC. Trong Quy hoạch tổng thể của Khu, giành 10% đất
cho nhà ở, 30% đất cho công xưởng CNC, còn 60% đất giành cho cây xanh.
Là nơi thực hiện sự hợp tác tay ba: giữa trung tâm nghiên cứu khoa học; các
trường đại học; và các hãng CNC, với sự quản lý của Nhà nước.
Đến năm 2001, có 312 công ty gia nhập Khu, với 96.293 người với cơ cấu

lao động là: 1207 tiến sĩ (1,25%); 16.736 thạc sĩ (17,4%); 20.337 kỹ sư và
cử nhân (21,11%), số còn lại là kỹ thuật viên và lao động có kỹ năng và phổ
thông. Như vậy, có khoảng 40% lao động có trình độ đại học và trên đại học.
Doanh thu là 29,8 tỷ USD/năm, trong đó doanh thu từ hoạt động NCPT là
1.239 triệu USD. Hàng năm trung bình có 300 bằng sáng chế và đào tạo cho
6.000 lượt người. Quy mô của các công ty không lớn (bình quân 235 người).
Sản phẩm công nghiệp CNC của Khu CNC Tân Trúc chuyên về mạch vi
16


điện tử và thiết bị ngoại vi với 165 công ty (chiếm 54% số công ty trong
Khu).
Có thể nhận thấy rằng: Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc thành
lập và phát triển Khu CNC Tân Trúc, mà ở đây là Uỷ ban Khoa học Nhà
nước. Trong giai đoạn hình thành Khu, Nhà nước tiến hành hàng loạt các
hoạt động đầu tư với vốn “gây mầm” là 500 triệu USD nhằm xây dựng hạ
tầng cơ sở, xây dựng sẵn nhà xưởng cho thuê, cung cấp nhà ở cho chuyên
gia, hoặc Hoa kiều về nước, xây dựng trường học, xây dựng khu giải trí,...
Từ khi thành lập (năm 1980) đến nay, Nhà nước đã đầu tư 912 triệu USD
vào hạ tầng cơ sở. Ngoài ra hàng năm còn hỗ trợ 30 triệu USD cho các hoạt
động NCPT ở trong Khu. Cục quản lý Khu được hình thành để quản lý và hỗ
trợ các công ty hoạt động đúng mục tiêu và định hướng đã đề ra. Nhà nước
cũng đã ban hành điều lệ thành lập và quản lý Khu, các tiêu chuẩn gia nhập
Khu CNC, các chính sách khuyến khích về tài chính; về nguồn nhân lực và
môi trường thể chế cho phát triển công nghệ; về quy hoạch và về vốn đầu tư.
Trong Khu CNC Tân Trúc, việc sản xuất hàng hóa có trình độ CNC được
phối hợp với sự phát triển các hoạt động NCPT. Đây là một kiểu đặc trưng
cho mô hình Công viên đổi mới công nghệ.
3.4. Một số khu công nghệ cao trong khu vực châu Á
Trong thời gian gần đây, chính quyền các nước châu á đều rất quan tâm đến

việc xây dựng và phát triển các hình thức khu CNC như là một giải pháp
mang tầm chiến lược để phát triển kinh tế và nâng cao năng lực công nghệ
quốc gia. Kết quả là khu CNC đã và đang được xây dựng ở rất nhiều nước
trong khu vực: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, ấn Độ, Singapo,
Malaixia, Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan, và Indonêxia, với những đặc
điểm chủ yếu sau đây:
- Tại một vài nước kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, các khu CNC
được xây dựng sớm, bắt đầu từ thập niên 70 của thế kỷ XX, với số lượng
nhiều, đa dạng về hình thức, về quy mô và mỗi khu có những nhiệm vụ
chiến lược khác nhau. Tại Nhật Bản tính đến năm 1993 có trên 105 khu
CNC (kể cả một vài khu đang trong giai đoạn lập kế hoạch và thiết kế),
trong đó có 53 khu đang vận hành, được xây dựng theo các mô hình đa dạng
từ Thành phố khoa học cho đến Công viên khoa học, với quy mô khác nhau,
từ 0,15 ha đến 2.700 ha. Mặc dù ở Nhật Bản các hoạt động khoa học trình độ
cao được tập trung tại các trường đại học, nhưng việc xây dựng các khu
CNC dựa trên cơ sở các trường lại gặp khó khăn và phức tạp, do vấn đề về
sử dụng đất và quyền sở hữu sáng chế. Vì vậy, người ta chú trọng đến trao

17


đổi, chuyển giao công nghệ hơn là tiến hành NCPT, và các khu CNC được
xem là phương thức thúc đẩy phát triển vùng.
- Tại các nước châu á khác, do trình độ NCPT thấp, nền kinh tế chưa phát
triển mạnh, nên chỉ xây dựng một hoặc vài khu CNC mang tính chất chiến
lược. Các khu CNC ở những nước này được xây dựng theo các mô hình rất
đa dạng, khác nhau về quy mô và rất khác nhau về nhiệm vụ. Các khu CNC
có thể được xây dựng dưới dạng Trung tâm công nghệ hoặc Trung tâm đổi
mới công nghệ chú trọng thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và tạo việc
làm, như các khu CNC ở Singapo, Malaixia, Thái Lan. Trung Quốc xây

dựng những khu thử nghiệm ở dạng mô hình “vườn ươm doanh nghiệp” chú
trọng vào việc tạo việc làm, phát triển kinh doanh. Thái Lan ban đầu dự định
xây dựng theo mô hình Công viên đổi mới công nghệ với mục đích tạo
vùng, phát triển thành Đô thị công nghệ (Technolopole), nhưng do tác động
của khủng hoảng kinh tế nên chuyển dần mô hình sang dạng Trung tâm đổi
mới công nghệ. Khu CNC Tân Trúc của Đài Loan được hình thành nhằm
thúc đẩy và phát triển việc tham gia của các ngành CNC vào hoạt động
NCPT và lôi cuốn Hoa kiều đầu tư. Trong khi đó Khu CNC ở Hồng Kông
được xây dựng nhằm phát triển các doanh nghiệp công nghệ mới và phát
triển CNC.
Nhìn chung, ở các nước đang phát triển, các khu CNC phần lớn đều được
chính phủ tài trợ qua hình thức đầu tư vốn “gây mầm” và/hoặc cấp tiền cho
chi phí hoạt động. Hình thức góp, sử dụng vốn cũng khác nhau: một vài nơi
sử dụng vốn thị trường đầu tư dài hạn, vốn mạo hiểm và vốn nội địa.
1) Khu công nghệ cao Kulim - Malaixia:
Đây là khu CNC đầu tiên của Malaixia được hình thành với sự tư vấn nghiên
cứu khả thi, quy hoạch của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) từ
sáng kiến của Thủ tướng Malaixia Mohathir Mohamad. Khu được thành lập
từ năm 1992 và chính thức hoạt động từ năm 1993 với các chức năng ban
đầu là thu hút FDI về công nghiệp CNC, NCPT CNC và hướng đến hình
thành một đô thị khoa học với đầy đủ các tiện nghi, ưu đãi cho các nhà khoa
học và công nghệ, các công ty sản xuất trên cơ sở CNC. Diện tích Khu hiện
đã lên đến 1.450 ha. Khu Kulim (Kulim Hi-Tech Park – KHTP) do Công ty
Kulim Technology Park Corporation Sdn Bhd trực thuộc Nhà nước điều
hành (sở hữu chính là Công ty Kedah State Development). Hiện Khu Kulim
đang tập trung thu hút các tập đoàn sản xuất công nghiệp CNC, xây dựng
nâng cấp thêm cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực và ươm tạo doanh nghiệp vừa
và nhỏ CNC. Vào năm 2002, Khu đã đạt tiêu chuẩn ISO 9002. Trong Khu
công nghiệp CNC của Kulim đã có mặt các công ty, tập đoàn đầu tư hàng
18



đầu thế giới như: Intel, Advanced Disk, Entergis, BCM, NUR, Toyo, Fuji,
Hamadatec, NSC….
2) Khu Trung Quan Thôn (Zhong guan cun - Trung Quốc.:
Khu Trung Quan Thôn là một khu CNC thuộc dạng tạo vùng đô thị khoa
học và công nghệ rất lớn của thành phố Bắc Kinh, bao gồm 5 vùng khoa học
công nghệ và sản xuất CNC: Haidan, Fengtai, Changping, vùng Điện tử,
Yizhuang (mỗi vùng tương đương với một quận nội thành). Khu Trung
Quan Thôn có 39 Viện, Trường từ Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa.
Trong Khu còn có hoạt động của 213 Viện nghiên cứu của Viện Khoa học
Trung Quốc. Hiện nay Khu Trung Quan Thôn đã thu hút được khoảng 1.500
trung tâm NCPT và các công ty sản xuất CNC, trong đó có các công ty nổi
tiếng như IBM, Microsoft, Mitsubishi…
Khu Trung Quan Thôn được điều hành bởi Ban Quản lý đứng đầu là Thị
trưởng thành phố Bắc Kinh. Vào đầu năm 2001, Khu Trung Quan Thôn đã
cho công bố chính sách ưu đãi, được coi là tiến bộ nhất ở Trung Quốc, với
các mô hình tổ chức hoạt động khác nhau được phép thực hiện. Cũng trong
năm 2001, trong Khu có 361.000 người làm việc và tạo ra hơn 70.000 việc
làm mới.
Cơ cấu Khu hiện như sau: 74,4% dành cho khu sản xuất công nghiệp điện
tử; 6,9% dành cho cơ khí, quang học, điện khí; 7% là năng lượng mới, vật
liệu mới; 4,1% dành cho sinh học và dược; 7,75% cho các lĩnh vực khác.
Trong Khu khuyến khích các hoạt động của các định chế tài chính tiên tiến
nhất hỗ trợ doanh nghiệp CNC như ngân hàng, quỹ đầu tư mạo hiểm. Ngoài
ra, vườn ươm doanh nghiệp và các dịch vụ xã hội ăn, ở, giải trí cũng được
phép hoạt động mạnh. Có thể thấy đây là mô hình mềm dẻo nhất của thành
phố Bắc Kinh phát triển khoa học và công nghệ và sản xuất CNC, hiện đang
trên đường phát triển mạnh mẽ.
IV. PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ CAO CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI


Đầu tư phát triển các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin
là một hướng đi mà hầu hết các nước trên thế giới đều tuân theo để nhằm tạo
ra một động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế trong nước, cũng như để tìm
cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường thương mại quốc tế.
Trong khi các nước phát triển chú ý đầu tư nhiều cho các ngành công nghệ
sinh học, hàng không vũ trụ, vật liệu mới và đặc biệt là công nghệ thông tin
và viễn thông, thì hầu hết các nước đang phát triển lại cố gắng tập trung các

19


nguồn vốn ít ỏi của mình cho các công nghệ sinh học và công nghệ thông
tin.
Trong Báo cáo Phát triển Con người năm 2001, UNDP có đưa ra Chỉ số
Thành tựu Công nghệ (Technology Achievement Index - TAI), với mục đích
đánh giá thành tựu của một nước trong việc sáng tạo, truyền bá công nghệ và
xây dựng cơ sở kỹ năng con người. Chỉ số này phản ánh năng lực của một
nước tham gia vào đổi mới công nghệ trong kỷ nguyên nối mạng. Chỉ số
tổng hợp này đánh giá các thành tích, chứ không phải tiềm năng, nỗ lực hay
đầu vào của các nước. Chỉ số này không chú trọng đến việc nước đó có dẫn
đầu về phát triển công nghệ toàn cầu hay không, mà chỉ chú trọng tìm hiểu
xem nước đó đã thực hiện tốt như thế nào việc sáng tạo và sử dụng công
nghệ về tổng thể.
TAI là một chỉ số tổng hợp được đưa ra để nhằm giúp các nhà hoạch định
chính sách xác định các chiến lược công nghệ trong một kỷ nguyên nối
mạng hiện nay. Chỉ số này cho phép các nước nhận thức rõ được vị trí tương
đối của mình như thế nào so với các nước khác và định hướng cho các nhà
hoạch định chính sách có một cái nhìn mới về thành tựu công nghệ của nước
mình để hoạch định cho tương lai.

TAI tập trung vào 4 khía cạnh phản ánh năng lực công nghệ của một nước,
đóng vai trò quan trọng trong việc gặt hái được những lợi ích trong kỷ
nguyên nối mạng, cụ thể như sau:
1) Sáng tạo công nghệ. Không phải tất cả các nước đều có vị trí dẫn đầu
trong sự nghiệp phát triển công nghệ toàn cầu, nhưng năng lực đổi mới liên
quan đến tất cả các nước và cấu thành ở mức cao nhất năng lực công nghệ.
Nền kinh tế toàn cầu đã mang lại những phần thưởng lớn cho các nước đi
đầu và nước tạo ra đổi mới công nghệ. Tất cả các nước đều cần phải có năng
lực đổi mới, bởi vì khả năng đổi mới trong sử dụng công nghệ không thể
phát triển đầy đủ được nếu không có khả năng sáng tạo, đặc biệt là trong
việc làm thích nghi các sản phẩm và quy trình mới với các điều kiện địa
phương.
2) Phổ biến công nghệ hiện đại. Tất cả các nước đều phải áp dụng công
nghệ hiện đại để nắm bắt được những ích lợi từ các cơ hội trong kỷ nguyên
nối mạng. Điều này được đánh giá bằng sự phổ biến của mạng Internet và
bằng tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao và trung trong tổng sản
lượng xuất khẩu.
3) Phổ biến công nghệ cũ. Việc tham gia vào kỷ nguyên nối mạng cần có sự
truyền bá nhiều đổi mới đã thực hiện trước đây. Mặc dù đôi khi có thể tạo
được bước nhảy vọt, nhưng sự tiến bộ công nghệ là một quá trình tích luỹ và
20


sự truyền bá các công nghệ cũ rất là cần thiết cho việc áp dụng các công
nghệ hiện đại. ở đây sử dụng hai chỉ số đặc biệt quan trọng, đó là điện và
điện thoại. Đây là hai yếu tố cần để sử dụng các công nghệ mới hơn và cũng
là đầu vào liên quan đến đa số các hoạt động của con người.
4) Kỹ năng con người. Một tập hợp tới hạn các kỹ năng không thể thiếu đối
với tính năng động công nghệ. Cả hai phía - người sáng tạo và người sử
dụng công nghệ đều cần có kỹ năng. Các công nghệ ngày nay đòi hỏi khả

năng thích nghi, tức là các kỹ năng làm chủ được luồng đổi mới liên tục xảy
ra. Cơ sở của kỹ năng đó là trình độ giáo dục cơ bản để phát triển các kỹ
năng nhận thức và các kỹ năng về khoa học và toán học.
Bảng xếp hạng theo chỉ số TAI đã xem xét 72 quốc gia có các dữ liệu đầy đủ
và đáng tin cậy. Đối với các nước còn lại, có thể vì thiếu số liệu hoặc số liệu
không đáp ứng được nên TAI không thể đánh giá. Các quốc gia trong bảng
xếp hạng được chia ra thành bốn nhóm với giá trị TAI biến thiên từ mức cao
nhất 0,744 (Phần Lan) đến mức thấp nhất 0,066 (Mozambique). Bốn nhóm
bao gồm (Bảng 1):
1) Các nước dẫn đầu (Leaders) với giá trị TAI cao hơn 0,5. Đứng đầu là các
nước Phần Lan, Mỹ, Thuỵ Điển và Nhật Bản. Nhóm các nước này chiếm vị
trí dẫn đầu về sáng tạo, phổ biến công nghệ và xây dựng kỹ năng;
2) Các nước có tiềm năng dẫn đầu (Potential Leaders) với giá trị TAI từ
0,35 đến 0,49. Hầu hết các nước thuộc nhóm này đều đã đầu tư vào kỹ năng
con người ở mức cao và phổ biến các công nghệ cũ một cách rộng rãi,
nhưng ít sáng tạo. Trình độ kỹ năng của nhóm các nước này có thể so sánh
được với nhóm các nước dẫn đầu;
3) Các nước thích nghi năng động (Dynamic adopters) với giá trị TAI từ
0,20 đến 0,34. Các nước này rất năng động trong việc sử dụng các công
nghệ mới. Nhóm này chủ yếu là các nước đang phát triển có trình độ kỹ
năng con người cao hơn đáng kể so với nhóm thứ tư. Đáng chú ý là các nước
Braxin, Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Nam Phi và Tuynidi. Nhiều trong số
các nước này có các ngành công nghiệp công nghệ cao quan trọng và các
trung tâm công nghệ, nhưng sự truyền bá công nghệ cũ vẫn còn chậm và
không hoàn chỉnh.
4) Các nước chậm thích nghi (Marginalized) với TAI thấp hơn 0,20. Sự
truyền bá công nghệ và xây dựng kỹ năng tiến triển chậm chạp ở các nước
này. Phần lớn dân số đều không được hưởng các lợi ích từ sự truyền bá công
nghệ cũ.
Bảng 1. Bảng xếp hạng các nước

21


T
T

Tên nước

TAI

T
T

Tên nước

TAI

Các nước dẫn đầu
1

Phần Lan

0,744

10

Singapore

0,585


2

Mỹ

0,733

11

Đức

0,583

3

Thuỵ Điển

0,703

12

Nauy

0,579

4

Nhật Bản

0,698


13

Ailen

0,566

5

Hàn Quốc

0,666

14

Bỉ

0,553

6

Hà Lan

0,630

15

Niu Zilân

0,548


7

Anh

0,606

16

áo

0,544

8

Canada

0,589

17

Pháp

0,535

9

úc

0,587


18

Israel

0,514

Các nước có tiềm năng dẫn đầu
19

Tây Ban Nha

0,481

29

Ba Lan

0,407

20

Italy

0,471

30

Malaixia

0,396


21

Cộng hoà Séc

0,465

31

Croatia

0,391

22

Hungary

0,464

32

Mêhicô

0,389

23

Cộng hoà Slovenia

0,458


33

Síp

0,386

24

Hồng Kông

0,455

34

Achentina

0,381

25

Hy Lạp

0,437

35

Rumania

0,371


26

Bồ Đào Nha

0,419

36

Costa Rica

0,358

28

Bungaria

0,411

37

Chilê

0,357

Các nước thích nghi năng động
38

Uruguay


0,343

51

Tuynidi

0,255

39

Nam Phi

0,340

52

Pagaguay

0,254

40

Thái Lan

0,337

53

Ecuađor


0,253

41

Trinidad
Tobago

và 0,328

54

El Salvador

0,253

42

Panama

0,321

55

Cộng

22

hoà 0,244



Dominican
43

Braxin

0,311

56

Syri

0,240

44

Philippin

0,300

57

Egypt

0,236

45

Trung Quốc

0,299


58

Algeria

0,221

46

Bolivia

0,277

59

Zimbabwe

0,220

47

Colombia

0,274

60

Inđônêxia

0,211


48

Pêru

0,271

61

Honduras

0,208

49

Jamaica

0,261

62

Srilanka

0,203

50

Iran

0,260


63

ấn Độ

0,201

Các nước chậm thích nghi
64

Nicaragua

0,185

69

Nêpan

0,081

65

Pakistan

0,167

70

Tanzania


0,080

66

Sênêgan

0,158

71

Sudan

0,071

67

Ghana

0,139

72

Mozambique

0,066

68

Kênya


0,129

4.1. Xuất nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao của một số nước và
vùng lãnh thổ
Các ngành công nghệ cao có có một ảnh hưởng tích cực đáng kể đối với tỷ
lệ tăng trưởng kinh tế, nhờ tính chất đổi mới cao của chúng. Trong những
năm 80 của thế kỷ 20, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao trong các nước
OECD tăng 117%. Ngày nay, việc các nước phát triển như Mỹ, Đức, Nhật...
vẫn tiếp tục dành những nguồn lực của minh đầu tư vào nghiên cứu và phát
triển (R&D) đã cho thấy tầm quan trọng của các ngành công nghiệp công
nghệ cao. Mặc dù mức đầu tư cho R&D trên tổng thể mỗi nền kinh tế gần
nganh nhau ở các nước phát triển trên, nhưng Mỹ vẫn có thị phần lớn nhất
trong các ngành công nghiệp công nghệ cao. Việc duy trì và phát triển và
các ngành công nghiệp nghệ cao sẽ giúp các nước phát triển duy trì làn sóng
công nghệ, trình độ công nghệ, việc làm và tăng trưởng kinh tế (Bảng 2, 3,
và 4)).
Bảng 2. Xuất nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao trong các nước
OECD và các nước và vùng lãnh thổ khác trong các năm từ 2002 đến 2004.
23


2002
Xuất
€ bn
Phần Lan
9.7
Thuỵ Điển 11.6
Đan Mạch 8.8
Đức
98.9

Áo
10.7
Hà Lan
36.0
Bỉ
16.0
Luxembourg 1.1
Pháp
56.7
Anh
76.9
Ai Len
33.6
Tây Ban Nha 7.6
Bồ Đào Nha 1.7
Italia
21.9
Hy Lạp
0.8
EU-15
392.1
Na Uy
3.1
Thuỵ Sỹ
20.2
Ba Lan
1.1
CH Séc
5.1
Slovakia

0.4
Hungary
7.9
Canada
24.2
Mỹ
205.3
Hàn Quốc 49.2
Nhật
93.8
Trung Quốc 72.5
Đài Loan
56.5
Hong Kong 54.7
Ôxtraylia
3.1
New Zealand 0.4
Nước

Nhập
€ bn
5.7
9.9
8.9
89.1
10.4
33.7
17.4
2.0
48.3

72.6
21.0
16.5
4.3
30.5
2.8
373.2
5.1
15.7
6.3
6.8
1.6
8.1
33.7
216.5
36.4
66.0
84.5
41.9
63.1
13.4
2.1

Xuất
/Nhậ
1.71
1.16
0.99
1.11
1.03

1.07
0.92
0.57
1.17
1.06
1.60
0.46
0.40
0.72
0.27
1.05
0.60
1.28
0.17
0.74
0.27
0.98
0.72
0.95
1.35
1.42
0.86
1.35
0.87
0.23
0.20

2003
Xuất
€ bn

9.3
12.1
7.7
92.9
10.2
44.1
15.8
0.9
50.7
58.2
24.6
8.1
2.1
19.0
0.9
356.4
2.4
19.9
1.3
5.3
0.7
8.6
2.5
0.6
86.5
20.4
172.4
50.4
93.6
55.4

51.1

24

Nhập
€ bn
5.3
10.1
6.6
84.2
10.9
41.5
17.3
1.3
43.7
64.7
14.2
17.7
4.6
28.9
3.8
355.0
4.2
15.1
6.0
7.0
1.8
8.5
13.1
2.3

61.3
27.4
188.5
36.1
105.3
62.5
36.7

2004
Xuất/ Xuất
Nhập € bn
1.74 8.5
1.19 14.0
1.16 .
1.10 107.7
0.93 11.9
1.06 .
0.91 16.2
0.68 0.8
1.16 53.4
0.90 .
1.73 24.5
0.46 .
0.45 2.1
0.66 19.8
0.23 0.9
1.00 .
0.57 2.2
1.32 20.9
0.21 .

0.75 .
0.36 .
1.01 .
0.19 2.5
0.25 .
1.41 .
0.74 .
0.91 175.8
1.39 60.8
0.89 .
0.89 .
1.39 .

Nhập
€ bn
5.6
11.5
.
94.6
12.3
.
17.5
1.5
47.8
.
14.7
.
4.9
31.1
4.6

.
4.6
14.9
.
.
.
.
14.0
.
.
.
194.3
39.0
.
.
.

Xuất/
Nhập
1.51
1.21
.
1.14
0.96
.
0.92
0.56
1.12
.
1.66

.
0.43
0.64
0.19
.
0.49
1.40
.
.
.
.
0.18
.
.
.
0.90
1.56
.
.
.


Bảng 3. Xuất nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao trong các nhóm nước
năm 2004 (tỷ USD)
2004
Nhóm nước
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất/Nhập
%

%
EU
38.4
44.3
1.33
Phần còn lại của châu
19.6
2.5
11.88
Âu
NAFTA
5.5
13.4
0.63
Các nước châu Á
29.0
39.0
1.14
Các nước khác
7.5
0.8
14.18

Bảng 4. Tỷ lệ (%)của xuất nhậpkhẩu các sản phẩm công nghệ cao trong
tổng xuất nhập khẩucủa các nước OECD và các nước, vùng lãnh thổ
trong các năm 2002, 2003, 2004.
2002
2003
2004
Exports Imports Exports Imports Exports Imports

%
%
%
%
%
%
Phần Lan
20.6
16.1
20.1
14.7
17.5
14.0
Thuỵ Điển
13.5
14.1
13.3
13.6
14.1
14.2
Đan Mạch
14.9
17.1
13.4
13.3
.
.
Đức
15.1
17.1

14.0
15.8
14.7
16.4
Áo
14.1
13.7
12.9
13.5
13.3
13.8
Hà Lan
19.4
19.4
21.9
22.4
.
.
Bỉ
7.0
8.3
7.0
8.3
6.6
7.6
Luxembourg 12.6
16.4
9.7
10.5
8.4

10.8
Pháp
17.5
15.0
16.0
13.6
16.0
13.7
Anh
25.1
19.5
20.5
18.3
.
.
Ai Len
35.9
37.9
29.9
29.6
29.1
29.3
Tây Ban Nha 5.7
9.3
5.8
9.5
.
.
Bồ Đào Nha
6.2

10.1
7.4
11.1
7.4
11.1
Italia
8.2
11.8
7.2
11.0
7.1
11.0
Hy Lạp
6.6
8.0
7.3
9.7
7.0
10.9

Nước

25


×