Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Những khó khăn và thuận lợi trong việc huy động và quản lý nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.61 KB, 58 trang )

I. Lịch sử ra đời và
phát triển của Ngân Hàng Thương Mại
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một tổ chức quan trọng nhất
của nền kinh tế, là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện các nghiệp vụ
tập trung, phân phối lại vốn tiền tệ cũng như các dịch vụ có liên quan đến tài
chính-tiền tệ khác trong nền kinh tế quốc dân.
Là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, cho nên lịch sử hình thành
và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử
phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Tiền thân
của các nghiệp vụ hiện đại bắt nguồn từ nghề
đổi tiền và đúc tiền của các thợ vàng. Người
làm nghề đúc tiền, đổi tiền, thực hiện kinh
doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ
và ngược lại. Lợi nhuận thu được từ chênh lệch
giá mua và giá bán.
Do yêu cầu cất trữ tiền của lãnh chúa, các nhà buôn nhiều người làm
nghề đổi tiền thực hiện luôn nghiệp vụ cất trữ hộ. Dần dần có uy tín, những
người giữ hộ tiền bạc của các nhà buôn, thanh toán hộ và do tích lũy được
nhiều tiền họ kiêm luôn cả nghề cho vay. Trong một thời gian dài, từ nghề đổi
tiền đã phát triển thành nghề ngân hàng. Nghề ngân hàng thời kỳ đầu chỉ bao
gồm các nghiệp vụ đơn giản như: đổi tiền, nhận tiền gửi, bảo quản hộ tiền,
thanh toán, chuyển tiền cho vay. Nghiệp vụ cho vay mang tính chất cho vay
nặng lãi, cho nên các ngân hàng thời kì này gọi là các ngân hàng cho vay nặng
lãi.
Trong lịch sử phát triển, nghề ngân hàng đã trãi qua nhiều bước thăng
trầm. Nghề này được phát triển từ thời thượng cổ đến thời trung cổ, nghề ngân
1
hàng bị đình đốn do sự sụp đổ của đế quốc La Mã. Đến thời kì phục hưng,
nghề này được phục hồi và phát triển khá mạnh. Số lượng các tổ chức kinh
doanh tiền tăng lên, nhiều nghiệp vụ mới được áp dụng, như nghiệp vụ thanh
toán bằng thương phiếu, thanh toán bù trừ, nghiệp vụ bảo lãnh cho vay và


thanh toán… Một số tổ chức kinh doanh tiền xuất hiện trong thời kì này đã
mang dáng dấp kiểu ngân hàng hiện đại, như Banco Di Barcelone thành lập
năm 1401 và Banco Di Vlencia thành lập năm 1409 ở Tây Ban Nha, Banco Di
Realto thành lập năm 1587 ở Vơnidoq (Italia).
Loại hình ngân hàng hiện đại thật sự xuất hiện trên thế giới vào thế kỷ
17, với việc thành lập những ngân hàng: ngân hàng Amxtécđam năm 1609 ở
Hà Lan, ngân hàng Hamburg năm 1619 ở Đức, ngân hàng Anh quốc năm
1649.
2
II. Khái niệm, chức năng, vai trò và các loại hình
của NHTM
1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại.
Luật các tổ chức tín dụng do
Quốc Hội khóa X thông qua vào ngày
12 tháng 12 năm 1997, định nghĩa
NHTM như sau: Ngân hàng thương
mại là một tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoặt động ngân hàng và
các hoặt động khác có liên quan. Luật
này còn định nghĩa: Tổ chức tín dụng
là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các
quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
2. Chức năng
2.1. Chức năng trung gian tài chính
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM. NHTM nhận tiền gửi và
cho vay, chính là để thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua
các công cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc

chính phủ thông qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính đôi khi
không đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin;
chi phí tìm kiếm thông tin lớn; chất lượng thông tin không cao; chi phí giao
dịch lớn; phải có sự trùng khớp giữa người thừa vốn, người thiếu vốn, số
3
lượng, thời hạn,… Chính vì thế NHTM với tư cách là một trung gian tài chính
đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số lượng
và thời hạn phong phú, đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng
đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa
dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú, chuyên
môn hóa vào từng lĩnh vực. NHTM đã thật sự giải quyết được những hạn chế
của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn
trong nền kinh tế thị trường.
2.2. Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức
năng này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và
hoạt động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTW, đặc biệt trong
quá trình thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn
định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTW phát hành qua hệ
thống NHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh
tế. Khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng được tính theo công thức:
D = m.MB
Trong đó: D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: khối lượng cơ sở
M=1/rd: hệ số nhân tiền
rd: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHTW có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi tỷ
lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM. Từ đó ảnh
hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế. Do đó, đạt được hiệu quả
mà mục tiêu chính sách tiền tệ đặt ra.

2.3. Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán
Thông qua chức năng làm trung gian tài chính, NHTM làm tăng tiền
trong lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng khoán có
4
tính lỏng cao hơn và có rủi ro thấp hơn, do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư
nắm giữ những chứng khoán sơ cấp do doanh nghiệp hay công ty phát hành.
Các NHTM còn cung cấp một danh mục các phương tiện thanh toán rất
đa dạng và phong phú: séc chuyển tiền, séc chuyển khoản, tín dụng,… sự xuất
hiện của các phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
dễ dàng giao dịch thương mại, mua bán hàng hóa an toàn, nhanh chóng, chi
phí thấp.
3. Vai trò
3.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá
nhân, tổ chức kinh tế muốn sản xuất kinh doanh thì
cần phải có vốn để đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất,
phương tiện để sản xuất kinh doanh… Mà nhu cầu về
vốn của doanh nghiệp, cá nhân,… luôn luôn lớn hơn
vốn tự có. Do đó cần phải tìm đến nguồn vốn từ bên
ngoài. Mặt khác, lại có một lượng vốn nhàn rỗi do quá trình tiết kiệm, tích lũy
của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác,… NHTM là tổ chức đứng ra huy
động các nguồn vốn tạm thời, nhàn rỗi đó và sử dụng nguồn vốn huy động
được cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoặt động tín dụng. NHTM trở thành
chủ thể chính, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động ngân
hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng của các doanh nghiệp mở rộng sản
xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng xuất lao động, nâng cao hiệu quả
kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
3.2. NHTM là cầu nối doanh nghiệp và thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật công

cộng, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị
5
trường, thỏa mãn nhu cầu thị trường về mọi phương diện không chỉ: giá cả,
khối lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi thỏa mãn trên phương diện thời gian,
địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường doanh nghiệp
không những nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh
tế, chế độ hạch toán kinh tế, mà cần phải không ngừng cải tiến máy móc thiết
bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng nguyên vật liệu mới,
mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi
phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng của doanh
nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp đến ngân hàng xin
vay vốn để thảo mãn nhu cầu đầu tư của mình thông qua hoạt động cấp tín
dụng cho doanh nghiệp, ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường.
Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò
rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản
xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh
nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
3.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả sẽ thật sự là công cụ để nhà
nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống,
NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thông
qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các
nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn trên thị trường, điều khiển chúng một
cách hiệu quả và thực thi vài trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. Cùng với các cơ
quan khác, ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ quan trọng để nhà
nước điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế.
Khi nhà nước muốn phát triển một ngành hay một vùng kinh tế nào đó
thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các NHTM
luôn được sử dụng bằng cách NHNN yêu cầu các NHTM thực hiện chính sách

6
ưu đãi trong đầu tư, sử dụng vốn như: giảm lãi suất, kéo dài thời hạn vay,
giảm điều kiện vay vốn qua hệ thống NHTM, nhà nước cấp vốn ưu đãi cho
các lĩnh vực nhất định. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức, nhà nước thông
qua NHTW thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc để giảm
khả năng tạo tiền, từ đó giảm khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế để nền
kinh tế phát triển ổn định, vững chắc.
Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM thường đạt
hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được nhà nước sử dụng.
3.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc
tế.
Trong nền kinh tế thị trường, khi các mối quan
hệ hàng hóa, tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu
cầu giao lưu kinh tế-xã hội giữa các quốc gia trên thế
giới ngày càng trở nên cấp thiết và cấp bách. Việc
phát triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận
cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài chính của mỗi quốc gia cũng
phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế và NHTM với các hoạt động của mình
đã đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong sự hòa nhập này. Với các nghiệp
vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, NHTM tạo điều
kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển thông qua hoạt động thanh
toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài.
NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với vận
động của nền tài chính quốc tế.
NHTM ra đời và ngày càng phát triển dựa trên cơ sở nền sản xuất lưu
thông hàng hóa phát triển và nền kinh tế càng phát triển càng cần đến hoạt
động của NHTM. Với vai trò quan trọng của mình NHTM trở thành bộ phận
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
7

4. Các loại hình của NHTM
4.1. Căn cứ theo hình thức sở hữu ngân hàng thương mại
Có 4 loại:
 Ngân hàng sở hữu tư nhân.
 Ngân hàng cổ phần.
 Ngân hàng sở hữu nhà nước.
 Ngân hàng liên doanh.
4.2. Căn cứ theo cơ cấu tổ chức ngân hàng thương mại
Có 4 loại:
 Ngân hàng sở hữu công ty.
 Công ty sở hữu ngân hàng.
 Ngân hàng đơn nhất.
 Ngân hàng có chi nhánh.
4.3. Căn cứ theo tính chất hoạt động ngân hàng thương mại
Có 4 loại:
 Ngân hàng hoạt động chuyên doanh.
 Ngân hàng hoạt động đa năng.
 Ngân hàng hoạt động bán buôn.
 Ngân hàng hoạt động bán lẻ.
8
III. Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại
1. Khái niệm:
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất, vốn của Ngân hàng là
một bộ phận của thu nhập quốc dân
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản
xuất, phân phối và tiêu dùng, người
chủ sở hửu của chúng gửi vào Ngân

hàng với mục đích thanh toán, tiết
kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn
cho Ngân hàng, để Ngân hàng trả lại
cho họ một khoản thu nhập.
Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại
vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động này lại
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2. Các loại vốn của Ngân hàng Thương mại
2.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng Thương mại là những giá trị tiền tệ do
ngân hàng tạo lập được thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân
hàng có thể sử dụng lâu dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân
hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại
là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.
9
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục
đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu
tư hay góp vốn liên doanh… Vốn chủ sở hữu là căn cứ quyết định khả năng
thanh toán khi Ngân hàng gặp rủi ro. Sự tăng trưởng của vốn chủ sở hữu sẽ
quyết định năng lực và sự phát triển của ngân hàng thương mại. Vốn chủ sở
hữu của Ngân hàng được hình thành căn cứ vào hình thức tổ chức của ngân
hàng thương mại là: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương
mại cổ phần hay ngân hàng thương mại liên doanh…
Vốn chủ sở hữu gồm các thành phần:
• Vốn chủ sở hữu cơ bản: vốn điều lệ và vốn pháp định.
• Vốn chủ sở hữu bổ sung.
Các quỹ:
• Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ

• Quỹ dự trữ đặc biệt
• Các quỹ khác
2.2 Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm
vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm
hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.
Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh
của NHTM.
10
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành
phần kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở
rộng tín dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh
doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn
huy động gồm có: Vốn tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
2.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi
khả năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro
thanh khoản của các ngân hàng. Vay từ Ngân hàng Trung ương là khoản vay
nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của Ngân hàng Thương mại.
Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (tái cấp
vốn). Các thương phiếu đã được các Ngân hàng Thương mại chiết khấu (tái
chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những
thương phiếu này lên tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Thông thường
Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng
như thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của
ngân hàng nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu

Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng Thương mại vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ
trong ngân hàng, nó chủ yếu là vốn ngắn hạn, chi phí cao hay thấp phụ thuộc
vào chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Ngân hàng nào có uy tín
hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó
vay mượn trực tiếp họ phải thông qua các ngân hàng đại lý hoặc đựoc bảo
lãnh của các ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn được phụ thuộc vào
trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các
công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
2.4 Vốn khác
11
Vốn khác là toàn bộ giá tị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông
qua việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác
đầu tư. Bao gồm:
• Nguồn ủy thác là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ thực hiện
tốt các dịch vụ của khách hàng đặc biẹt là dịch vụ cho vay và dịch
vụ thanh toán. Nguồn vốn này thường có chi phí rất thấp. Tỷ trọng
nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ và uy
tín của khách hàng.
• Nguồn trong thanh toán: Nguồn này được hình thành từ các hoạt
động thanh toán không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi
trả, tiền ký quỹ để mở L/C. Những ngân hàng này là ngân hàng đầu
mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành
viên chuyển về để thực hiện cho vay.
• Nguồn khác: Là các khoản nợ như thuế chưa nộp, lưong chưa trả,…
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại tạo
được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở
thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi… Các khoản tiền mặt tạm thời
được trích khỏi tài khoản này để nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên
được gọi là tiền nhàn rỗi.

3. Hoặt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn của NHTM là hoạt động mà trong đó các ngân
hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhau đảm bảo sự
vận hành bình thường hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy định phát
luật. Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của Ngân hàng Thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng
12
có thể thực hiện các hoạt động khác nhau như cấp tín dụng và cung cấp các
dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Nhìn vào bảng cân đối tài sản của ngân
hàng thương mại, chúng ta thấy rằng nghiệp vụ huy động vốn được phản ánh
bên phần tài sản Nợ. Do đó, huy động vốn còn được gọi là nghiệp vụ tà sản
Nợ.
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là
hình thức huy động vốn cổ điển và mang tính
đặc thù riêng của ngân hàng thương mại. Do
vậy, đây cũng là điểm khác nhau giữa ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng. Chính vì đặc thù này, NHTM
thường được gọi là tổn chức nhận tiền gửi
(depository institutions), trong khi các tổ chức
tín dụng phi ngân hàng được gọi là tổ chức không nhận tiền gửi (non-
depository institutions). Do nhu cầu và động thái gửi tiền của khách hàng rất
đa dạng và khác nhau nên để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền, NHTM
phải thiết kế và phát triển thành nhiều loại sản phẩm tiền gửi khác nhau. Ngoài
ra NHTM còn huy động vốn qua phát hành các giấy tờ có giá.
3.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán.
3.1.1. Đối tượng khách hàng và tình huống sử dụng :
Tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của NHTM bằng cách
mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản
này được mở cho các tài khoản khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu

thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Thanh toán qua ngân hàng là một loại
dịch vụ thanh toán, theo đó ngân hàng thực hiện việc trích chuyển tiền từ tài
khoản của đơn vị phải trả, bằng cách ghi Nợ vào tài khoản, sang tài khoản của
đơn vị thụ hưởng, bằng cách ghi Có vào tài khoản.
13
Để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán này, khách hàng phải mở tài
khoản tiền gửi thnah toán ở ngân hàng. Số dư có trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng có thể hình thành từ hai nguồn: (1) do khách hàng nộp
tiền mặt vào, (2) do khách hàng nhận tiền chuyển khoản từ các đơn vị khác.
Số dư này nhằm duy trì khả năng thanh toán và chi trả của khách hàng ở bất
kỳ thời điểm nào.
Tuy nhiên, không phải lúc nào khách hàng cũng sử dụng số dư tài
khoản tiền gửi thanh toán của họ. Do vậy, đôi khi số dư này nhàn rỗi tạm thời
cho đến khi được huy động vào thanh toán. Những lúc nhàn rỗi tạm thời số dư
này trở thành nguồn vốn của ngân hàng, do đó, ngân hàng có thể sử dụng cho
hoạt động của mình. Tuy nhiên, do tài khoản tiền gửi là loại tài khoản không
kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền bất kỳ lúc nào mà không cần báo trước cho
ngân hàng, nên ngân hàng rất khó kế hoạch hóa việc sử dụng tiền gửi này.
Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này thường ngân hàng trả lãi suất thấp, hoặc
thậm chí không trả lãi cho khách hàng. Do không được hưởng lãi cao, nên
khách hàng thường duy trì số dư tài khoản tiền gửi không nhiều, chỉ vừa đủ
đáp ứng nhu cầu chi trả hàng ngày của họ. Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi
thanh toán của từng khách hàng thường không lớn, nhưng do là trung tâm tập
trung tiền tệ và cung cấp dịch vụ thanh toán, nên Ngân hàng Thương mại có
số lượng khách hàng rất đông khiến cho tổng số vốn huy động qua tiền gửi
thanh toán của tất cả khách hàng trở nên lớn đáng kể.
3.1.2. Thủ tục mở tài khoản:
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi cho khách hàng, kể cả khách hàng cá nhân và khách hàng
tổ chức, được mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Để mở tài khoản

tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Thương mại, khách hàng cần làm các thủ
tục sau đây:
14
• Đối với khách hàng cá nhân: chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở
tài khoản tiền gửi cá nhân, đăng ký chữ ký mẫu, xuất trình và nộp
bản sao giấy chứng minh nhân dân.
• Đối với khách hàng tổ chức: chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở
tài khoản tiền gửi thanh toán, đăng ký chữ ký mẫu và mẫu con dấu
của người đại diện, xuất trình và nộp bản sao giấy chứng minh tư
cách pháp nhân của tổ chức, và các giấy tờ chứng minh tư cách đại
diện hợp pháp của chủ tài khoản.
• Đối với khách hàng là đồng chủ tài khoản cần điền và nộp giấy đề
nghị mở tài khoản đồng sở hữu, các giấy tờ chứng minh tư cách đại
diện hợp pháp của người đại diện cho tổ chức tham gia tài khoản
đồng sở hữu, văn bản thỏa thuận quản lý và sử dụng tài khoản chung
của các đồng chủ tài khoản.
3.1.3. Tính lãi tiền gửi thanh toán:
Theo thông lệ ở các nước phát triển, ngân hàng không trả lãi cho khách
hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán vì mục đích của khách hàng khi sử
dụng tài khoản này là để thực hiện thanh toán qua ngân hàng chứ không phải
để hưởng lãi. Hơn nữa, ngân hàng còn yêu cầu khách hàng phải duy trì một số
dư tối thiểu (compensation balance) để được hưởng các dịch vụ ngân hàng,
nếu không có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho ngân hàng.
Ở Việt Nam, do dân chúng chưa có thói quen sử dụng tài khoản và gửi
tiền vào ngân hàng nên để thu hút khách hàng ngân hàng vẫn phải trả lãi đối
với tài khoản thanh toán.
Tuy nhiên, mức lãi suất áp dục áp ụng thường rất thấp, khoản 0.2-
0.25%/tháng, so với lãi suất của những loại tiền gửi tiết kiệm khác. Lãi tiền
gửi thanh toán có thể tính theo định kỳ hàng tháng hoặc quý theo phương pháp
tích số và lãi được nhập vào số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Công

thức tính lãi đối với tài khoản thanh toán như sau:
15
Tiền lãi=(Số dư TK*Số ngày tồn tại số dư*Lãi suất)/30
(Trong đó: Lãi suất %/tháng)
Ví dụ:
Tình hình số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của công ty A trong tháng
2 như trình bài ở cột thứ 2. Giả sử, ngân hàng trả lãi tài khoản tiền gửi
thanh toán là 0,2%/tháng.
Vận dụng công thức tính lãi:
Tiền lãi=(Số dư TK*Số ngày tồn tại số dư*0,2%)/30
Sử dụng Excel để lập bảng tính, chúng ta có được kết quả như sau:
Ngày Số dư Số ngày tồn
tại số dư
Tích số
1-2 152,000,000 4 608,000,000
5-2 120,000,000 5 600,000,000
10-2 24,235,000 8 193,880,000
18-2 1,450,460,780 7 1,015,327,460
25-2 89,274,650 2 178,549,300
27-2 1,289,332,746 1 1,299,332,746
28-2 145,782,920 14 2,040,960,880
12-3 6,475,859,569
TC: 5,926,050,386
Tiền Lãi: 395,070
Tiền lãi tháng 2 của tài khoản tiền gửi thanh toán của công ty A là
395070 đồng. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng đều chương trình hóa công
việc tính lãi và hàng tháng tự động nhập lãi vào số dư gốc tài khoản tiền
gửi của khách hàng.
3.2. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi cá nhân.
Tài khoản tiền gửi cá nhân như tên gọi của nó, được mở cho khách hàng

cá nhân có nhu cầu sử dụng. Loại tài khoản này thích hợp cho cá nhân có nhu
cầu nhận chuyển tiền vào tài khoản, chẳng hạn nhận tiền lương hàng tháng,
16
nhận chuyển tiền từ nước ngoài hoặc cá nhân khác trong nước. Khi nhận
chuyển tiền, khách hàng được ghi “có” vào tài khoản, ngược lại khi rút tiền tài
khoản được ghi “nợ”. Số dư trên tài khoản này là “số dư có” phản ánh số tiền
khách hàng còn gửi ở ngân hàng. Đây chính là nguồn vốn ngân hàng có thể
huy động qua tài khoản này.
Thông thường, số dư tài khoản này tăng lên khi khách hàng nhận tiền
lương vào thời điểm trả lương và giảm dần khi khách hàng rút tiền về chi tiêu.
Mặc dù số dư trên tài khoản tiền gửi cá nhân thường không lớn, nhưng với số
lượng tài khoản rất lớn, kết quả là, ngân hàng có thể huy động được khối
lượng vốn đáng kể. Chẳng hạn, NHTM ACB có số lượng tài khoản tiền gửi cá
nhân là hàng trăm nghìn tài khoản. Trung bình, mỗi tài khoản có số dư hàng
tháng là 2 triệu đồng. Như vậy, trong tháng ngân hàng ACB có thể huy động
được khối lượng vốn lên đến 200 tỷ đồng. Một con số rất đáng kể cho thấy vai
trò tích tụ và tập trung vốn của ngân hàng.
Trong những năm gần đây, số lượng
loại tài khoản này ở cá NHTM không
ngừng tăng lên nhờ có sự phối hợp tốt giữa
NHTM với các doanh nghiệp cũng như các
tổ chức khác trong việc triển khai mở tài
khoản và trả lương trực tiếp cho nhân viên
vào tài khoản. Mặt khác, các NHTM đã khá thành công trong việc thay đổi
thói quen sử dụng tiền mặt và ngày càng thu hút được nhiều người sử dụng
dịch vụ của ngân hàng. Điển hình là, ngân hàng Phương Đông - Orientbank đã
rất thành công trong việc kết hợp với Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh mở
tài khoản và nhận chi trả tiền lương cho giảng viên và nhân viên của trường.
Ngoài ra, còn thu hút cả sinh viên mở tài khoản cá nhân để chuyển tiền và nộp
học phí cho trường. Tuy nhiên, những nổ lực này của các NHTM chỉ mới thu

hút được tầng lớp nhân viên, sinh viên và cư dân đô thị chứ chưa thu hút được
17
đại bộ phận dân chúng sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân. Còn một phần lớn
tầng lớp dân cư khác như giới hưu trí, dân lao động phổ thông, nông dân sống
ở nông thôn,… chưa sử dụng phổ biến tài khoản tiền gửi ngân hàng.
Ví dụ: Nghiên cứu tình huống Orientbank (hay Ngân hàng Phương Đông –
Orientbank).
Năm 2001, trường Đại học Kinh tế TP.HCM kêu gọi Orientbank (hay
ngân hàng Phương Đông) mở chi nhánh giao dịch đặt trong khuôn viên
trường – Chi nhánh Nguyễn Chi Phương, đồng thời mở tài khoản cá nhân
cho toàn bộ giảng viên và nhân viên của trường giao dịch. Theo thỏa thuận
của hai bên, trường Đại Học Kinh Tế ủy quyền cho Orientbank trả lương
cho giảng viên và nhân viên qua tài khoản mở ở Orientbank và Orientbank
tiến hành cấp miễn phí cho giảng viên và nhân viên thẻ ATM để họ có thể
rút tiền lương qua máy ATM đặt trong khuôn viên trường. Sự phối hợp này
mang lại lợi ích đáng kể cho cả hai bên và trở thành tình huống điển hình
cho các ngân hàng và trường đại học khác làm theo.
Về phía Đại học Kinh tế, ngoài lợi ích tài chính, việc này còn giúp nhà
trường cải thiện phần nào hiệu quả quản lý và khắc phục được không ít khó
khăn của việc trả lương qua Phòng Tài Vụ của trường như trước đây. Mặt
khác, góp phần hạn chế chu chuyển tiền mặt, vốn gây ra không ít bất tiện.
Cụ thể, nhà trường thỏa thuận và ủy thác cho Orientbank thu học phí của
sinh viên và các nguồn thu khác trực tiếp vào tài khoản của trường mở ở
Orientbank. Việc này làm giảm đáng kể giao dịch tiền mặt và khối lượng
tiền đang chuyển trên đường. Song song đó, từ tài khoản này, Orientbank
nhận ủy thác trả lương cho nhân viên và giảng viên. Kết quả là, hầu hết
tiền điều chu chuyển qua Orientbank bằng hình thưc chuyển khoản. Nhờ
vậy, giảm đáng kể giao dịch tiền mặt và do lúc nào tiền cũng chu chuyển
qua tài khoản ngân hàng nên tiền luôn sinh lợi tức (0,25%/tháng) cho
trường và những người hưởng lương của trường.

18
Về phía Orientbank, lợi ích chủ yếu huy động được khối lượng tiền gửi
khá lớn từ trường và những người hưởng lương của trường. Ngoài ra,
Orientbank còn có được lợi ích mà các ngân hàng khác không thể nào có
được đó là quảng bá hình ảnh và thương hiệu Orientbank cho đối tượng
khách hàng rất tìm năng: giảng viên và sinh viên của trường.
Từ kinh nghiện thành công này, Orientbank có thể mở rộng hợp tác sang
các trường đại học khác, trong khi các NHTM khác bắt đầu “dòm ngó” và
nghĩ đến việc thâm nhập vào các trường đại học để cạnh tranh với
Orientbank. Sự thâm nhập của NHTM vào các trường đại học còn góp phần
đáng dấu cột mốc quan trọng trong đổi mới hoạt động ngân hàng.
3.3. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm.
3.3.1. Tiết kiệm không kỳ hạn
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết
kế dành cho đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ
chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì
mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập
được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối
với khách hàng khi lựa chọn hình thức gửi tiền này thì mục tiêu an toàn và
tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lợi. Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi
này khách hàng muốn rút bất kỳ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm
bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng.
Do vậy, ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này (khoảng
0,25%/tháng).
Thủ tục mở sổ tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn rất đơn giản. Chỉ cần
khách hàng đến bất kỳ chi nhánh nào của ngân hàng điền vào mẫu giấy đề
nghị gửi tiết kiệm không kỳ hạn có kèm giấy chứng minh nhân dân và chữ ký
mẫu. Nhân viên sẽ hoàn tất thủ tục nhận tiền và cấp sổ tiền gửi ngay cho
khách hàng.
19

Với sổ tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có thể gửi tiền và
rút tiền bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch. Tuy nhiên, khác với hình thức tài
khoản tiền gửi cá nhân mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền
gửi và rút tiền chứ không thể thực hiện được các giao dịch thanh toán như
trong trường hợp tài khoản tiền gử thanh toán.
Mặc dù, số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của khách
hàng thường không lớn (do chỉ được hưởng lãi suất ở mức thấp) nhưng nếu
ngân hàng thu hút được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn
huy động qua hình thức tiền gửi này có thể trở nên lớn đáng kể.
3.3.2. Tiết kiệm định kỳ
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ
được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì
mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương
lai. Đối tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn
có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng
hoặc hàng quý. Đa số khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là
công nhân, viên chức hưu trí. Mục tiêu quan trọng của họ khi chọn lựa hình
thức tiền gửi này là lợi tức có được theo chu kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò
quan trọng để thu hút được đối tượng khách hàng này. Dĩ nhiên, lãi suât trả
cho loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi không
kỳ hạn. Ngoài ra, mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi, tùy theo
loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VND, USD, EUR hay vàng), và tùy theo uy tín và
rủi ro của ngân hàng nhận tiền gửi.
Về thủ tục mở sổ, theo dõi hoạt động và tính lãi suất cũng tiến hành
tương tự như tiền gửi tiêt kiệm không kỳ hạn, chỉ khác ở chỗ khách hàng chỉ
được rút tiền gửi theo đúng kỳ hạn đã cam kết, không được phép rút tiền trước
kỳ hạn. Tuy nhiên, để khuyến khích và thu hút khách hàng gửi tiền, đôi khi
ngân hàng cho phép khách hàng được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu,
20
nhưng khi đó khách hàng bị mất tiền lãi hoặc chỉ được trả lại theo lãi suất tiền

gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân chia thành nhiều loại. Căn cứ vào
thời hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 và
13 tháng hoặc lâu hơn đến 36 tháng. Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể
chia thành:
• Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi đầu kỳ.
• Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ.
• Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý).
Việc phân chia tiền gửi kỳ hạn thành nhiều loại khác nhau làm cho sản
phẩm tiền gửi của ngân hàng trở nên đa dạng và phong phú có thể đáp ứng
được nhu cầu gửi tiền đa dạng của khách hàng.
3.3.3. Các loại tiết kiệm khác
Ngoài hai loại tiền gửi tiết kiệm chính
là tiết kiệm không kỳ hạn và tiết kiệm
định kỳ, hầu hết các ngân hàng thương
mại đều có thiết kế những loại tiền gửi
tiết kiệm khác như tiết kiệm tiện ích, tiết
kiệm có thưởng, tiết kiệm an khang với
nét đặc trưng riêng nhằm làm cho sản
phẩm của mình luôn được đổi mới theo
nhu cầu khách hàng và tạo ra rào cản dị biệt để chống lại sự “bắt chước” của
các đối thủ cạnh tranh.
3.4. Huy động vốn qua phát hành chứng từ có giá.
Ngoài việc huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản
tiết kiệm, các tổ chức tín dụng nói chung và NHTM nói riêng, còn có thể huy
động vốn bằng cách phát hành các loại giấy tờ có giá. Giấy tờ có giá là chứng
nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận
21
nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi
và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua.

Phân loại:
• Căn cứ vào quyền sở hữu:
 giấy tờ có giá ghi danh: là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ hoặc ghi sổ, có ghi tên người sở hữu.
 giấy tờ có giá vô danh: là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức
chứng chỉ, không ghi tên người sở hữu (thuộc quyền sở hữu của
người nắm giữ nó).
• Căn cứ vào loại công cụ trên thị trường vốn:
 giấy tờ có giá thuộc công cụ nợ: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái
phiếu.
 giấy tờ có giá thuộc công cụ vốn: cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu phổ
thông hay cổ phiếu thường.
• Căn cứ vào thời hạn:
 giấy tờ có giá ngắn hạn.
 giấy tờ có giá dài hạn.
Phần này chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về nghiệp vụ huy động vốn ngắn
hạn và dài hạn thông qua các giấy tờ có giá.
3.4.1. Huy động vốn ngắn hạn qua phát hành các loại giấy tờ có giá.
3.4.1.1. Xác định khách hàng tìm năng:
Xác định khách hàng tiềm năng ở đây là xác định xem ai là người có
nhu cầu và có khả năng mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn do ngân hàng
phát hành. Khách hàng tiềm năng trong trường hợp này là các nhà đầu tư ngắn
hạn, những người có tiền tệ tạm thời nhàn rỗi cần đầu tư sinh lợi, nhưng phải
đảm bảo mục tiêu thanh khoản. Các nhà đầu tư ngắn hạn này có thể chia thành
2 nhóm: (1) Các nhà đầu tư tổ chức: các doanh nghiệp, các công ty bảo hiểm,
các loại quỹ và các tổ chức khác. (2) Các nhà đầu tư cá nhân: các ca sĩ, cầu
22
thủ bóng đá, người nghỉ hưu, nhân viên làm việc hưởng lương, sinh viên nhận
trợ cấp của gia đình,… vừa nhận thu nhập nhưng tạm thời chưa sử dụng đến.
Các khoản thu nhập của họ tạm thời nhàn rỗi cho đến khi được sử dụng,

do vậy, họ có nhu cầu đầu tư ngắn hạn.
3.4.1.2. Đề nghị phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn.
Để huy động vốn ngắn hạn, các tổ chức tín dụng có thể phát hành giấy
tờ có giá ngắn hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới
12 tháng, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Muốn phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, tổ chức
tín dụng phải lập hồ sơ đề nghị phát hành. Nội dung đề nghị phát hành bao
gồm:
• Đề nghị phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong năm tài chính.
• Kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong đó nêu rõ mục
đích phát hành, phương án sử dụng, tổng số giấy tờ có giá ngắn hạn
đầu năm tài chính, tổng số mệnh giá phát hành giấy tờ có giá ngắn
hạn trong năm tài chính, số đợt và thời điểm dự kiến phát hành, tên
gọi giấy tờ có giá và đồng tiền phát hành.
• Các báo cáo tài chính của hai năm liên tục gần nhất tính đến thời
điểm đề nghị phát hành.
• Kế hoạch kinh doanh trong năm tài chính.
• Điều lệ và giấy phép hoạt động (đối với tổ chức tín dụng phát hành
lần đầu).
• Các thay đổi về bộ máy tổ chức và các thay đổi khác nếu có.
3.4.1.3. Thông báo phát hành giấy tờ có giá.
Sau khi được xem xét và phê duyệt đề nghị phát hành, tổ chức tín dụng
sẽ ra thông báo phát hành gồm có:
• Tên tổ chức phát hành.
• Tên gọi giấy tờ có giá (tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,…).
23
• Tổng mệnh giá của đợt phát hành.
• Thời hạn của giấy tờ có giá.
• Hình thức phát hành.
• Ngày phát hành.

• Ngày đến hạn thanh toán.
• Lãi suất, phương thức trả lãi, thời điểm và địa điểm trả lãi.
• Phương thức hoàn trả và địa điểm trả tiền gốc của giấy tờ giá.
Thông báo phát hành được công bố rộng rãi ra công chúng thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình, phát thanh và báo
chí. Việc thông báo phát hành giấy tờ có giá đến công chúng, một mặt là do
yêu cầu pháplý đối với đợt phát hành, mặt khác là điều cần thiết để đưa thông
tin về đợt phát hành đến với khách hàng tiềm năng.
3.4.1.4. Phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn và huy động tiền gửi
ngắn hạn:
NHTM có thể huy động vốn ngắn hạn thông qua tài khoản tiền gửi và
tài khoản tiết kiệm. Tại sao lại huy động vốn ngắn hạn thông qua các loại giấy
tờ có giá? Điều này trước hết, xuất phát từ nhu cầu đầu tư ngắn hạn của các
nhà đầu tư rất khác nhau nên cần có nhiều hình thức khac nhau để thu hút
khách hàng. Kế đó là do tập quán và trình độ phát triển của thị trường vốn
ngắn hạn.
Cụ thể:
• Huy động tiền gửi tiết kiệm thích hợp ở những nước có thị trường
tiền tệ chưa phát triển, trong khi huy động vốn ngắn hạn thông qua
giấy tờ có giá thích hợp hơn ở những nước có thị trường tiền tệ phát
triển.
24
• Ở những nước có thị trường tiền tệ phát triển, giấy tờ có giá thường
có tính thanh khoản cao hơn tiền gửi tiết kiệm, trong khi ở những
nước thị trường tiền tệ kém phát triển thì ngược lại.
Ở Việt Nam từ trước đến nay tất cả các NHTM đều huy động vốn ngắn
hạn phổ biến qua hình thức tiền gửi và tiết kiệm, chỉ có vài ngân hàng như
Incombank và Vietcombank có huy động vốn ngắn hạn qua phát hành các loại
giấy tờ có giá. Điều này là do thói quen của cả hai phía, ngân hàng và khách
hàng, thích hình thức huy động vốn truyền thống hơn là phát triển các hình

thức huy động vốn mới. Mặc khác, do thị trường tiền tệ ở Việt Nam kém phát
triển nên thường huy động vốn qua các loại giấy tờ có giá có chi phí cao hơn
là huy động tiền gửi. Nhà đầu tư dễ chấp nhận gửi tiền với lãi suất thấp hơn là
mua chứng chỉ tiền gửi hay kỳ phiếu vì họ kỳ vọng tiền gửi có thanh khoản và
an toàn hơn là các loại giấy tờ có giá.
3.4.1.5. Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành kỳ phiếu:
Kỳ phiếu là một loại giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành để huy động
vốn ngắn hạn, trong đó ngân hàng cam kết sẽ trả lãi được hưởng và vốn gốc
cho nhà đầu tư khi kỳ phiếu đến hạn. Thời gian qua, Vietcombank đã có và
thường xuyên phát hành kỳ phiếu để huy động vốn ngắn hạn.
Ví dụ:
Kỳ phiếu của VCB- Tình huống khách hàng cá nhân.
Giới thiệu:
-Đối tượng: Cá nhân là người cư trú theo quy định hiện hành của Chính
phủ.
-Loại tiền: VNĐ và các loại ngoại tệ được NHNT công bố từng thời kỳ.
-Hình thức mua: Tiền mặt, séc du lịch, chuyển khoản.
-Mệnh giá: Tối thiểu kỳ phiếu VNĐ là 500000đ, tối thiểu kỳ phiếu ngoại tệ
là 100USD (hoặc trị giá tương đương với ngoại tệ khác).
-Loại kỳ phiếu: Vô danh, đích danh.
25

×