Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Những khác biệt của hiệp định TPP với các hiệp định thương mại tự do khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.27 KB, 10 trang )

Phần mở đầu
Với 12 quốc gia tham gia đều là thành viên của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á
Thái Bình Dương (APEC) với tổng dân số 650 triệu người, trung bình thu nhập bình quân
đầu người đạt 31.481 USD (năm 2011), tổng GDP lên đến hơn 20 nghìn tỷ USD, hiệp
định thương mại tư do xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã tạo ra một thị trường chung đầy
tiềm năng cho các doanh nghiệp, trở thành một trong những hiệp định tham vọng nhất từ
trước đến nay. Vậy TPP là gì và TPP khác biệt gì so với các Hiệp định thương mại khác,
nhóm chúng em sẽ làm rõ những điều này trong bài tiểu luận của mình.

Phần nội dung
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thương mại quốc tế và Hiệp định thương mại tự
do
1.1.
1.1.1.

Thương mại quốc tế
Khái niệm thương mại quốc tế

Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia. Hình
thức thương mại này thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế thế giới, trong đó giá cả, cung và cầu,
tác động và bị tác động bởi các sự kiện toàn cầu.
Ví dụ, thay đổi chính trị ở châu Á có thể dẫn đến sự gia tăng chi phí nhân công, do
đó làm tăng chi phí sản xuất cho một công ty giày của Mỹ có trụ sở tại Malaysia, dẫn đến
tăng giá một đôi giày tennis tại trung tâm mua sắm nơi bạn ở. Trái lại, việc giảm chi phí
lao động sẽ khiến giá đôi giày của bạn rẻ hơn.
1.1.2.

Vai trò của thương mại quốc tế trong tăng trưởng và phát triển kinh tế

Thương mại quốc tế góp phần cho tăng trưởng kinh tế thể hiện ở việc mở rộng khả
năng tiêu dùng của một nước, khă năng tiêu dùng vượt quá khả năng sản xuất trong nước.


Thương mại quốc tế tạo ra khả năng tiếp cận các nguồn lực khan hiếm bằng việc
trao đổi thương mại qua đó cho phép nhận khẩu nhiều hơn những nguồn lực phục vụ cho
sản xuất trong nước, phát triển các ngành nghề hiện đại hơn.
Thương mại quốc tế thúc đẩy sự phân chia thu nhập công bằng hơn từ việc sở hữu
các yếu tố sản xuất và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực đó.
Thương mại thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khuyến khích các khu vực
kinh tế phát huy lợi thế so sánh của mình, cải thiện tình trạng kém phát triển cho các nước
nghèo.

1


Hiệp định thương mại tự do
Hiệp định thương mại tự do là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc
gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế
quan cũng nhưphi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do.
1.2.

Theo thống kê của Tổ chức thương mại thế giới có hơn 200 Hiệp định thương mại
tự do có hiệu lực. Các Hiệp định thương mại tự do có thể được thực hiện giữa hai nước
riêng lẻ hoặc có thể đạt được giữa một khối thương mại và một quốc gia như Hiệp định
thương mại tự do Liên minh châu Âu-Chi Lê, hoặcHiệp định thương mại tự do ASEANTrung Quốc.

Chương 2: Nội dung hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những
khác biệt của TPP với các Hiệp định thương mại tự do khác
2.1. Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)
2.1.1. Các thành viên tham gia TPP
TPP, viết tắt của từ Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (Hiệp
định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương), là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự
do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình

Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New
Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản, Hàn Quốc, Colombia,
Costa Rica, Indonesia, Đài Loan, Thái Lan, và nhiều nước khác đang có ý định tham gia
vào TPP
TPP bắt đầu từ một thỏa thuận giữa Singapore, Chile, New Zealand và Brunei vào
năm 2009, trước khi Hoa Kỳ quyết định tham gia và dẫn đầu.Từ năm 2010, có thêm 5
nước tham gia đàm phán gồm: Hoa Kỳ, Australia, Peru, Việt Nam và gần đây là Malaysia.
Người ta đánh giá TPP là một hiệp định của thế kỷ 21, không chỉ vì nó là Hiệp định lớn
mà còn ở tầm vóc và ảnh hưởng của nó. Về phạm vi, so với các hiệp định BTA, AFTA, và
trong WTO, TPP mở rộng hơn, cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và
sở hữu trí tuệ. Ngoài ra còn là các vấn đề phi thương mại như mua sắm chính phủ, môi
trường, lao động, công đoàn, hỗ trợ cho các DN vừa và nhỏ...
2.1.2. Mục tiêu của TPP
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ
xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên.Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ,
quy tắc chung giữa các nước này, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn
lao động… TPP sẽ đặt ra được các luật lệ quốc tế mà vượt qua phạm vi WTO như: chính
sách đầu tư, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kiểm soát các công ty nhà nước, chất lượng sản
phẩm và lao động…. Hầu hết các thỏa thuận quốc tế là về xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch
2


vụ, ví dụ như: Ta có thể nhập khẩu số lượng X hàng hóa với giá Y khi các mặt hàng này
đã đủ tiêu chuẩn về chất lượng hoặc lao động. TPP khác vậy. Chính bản thân TPP sẽ tạo
ra các điều luật quốc tế có khả năng điểu chỉnh chính sách và hướng đi của luật pháp
trong từng quốc gia thành viên. Nói một cách khác, các điều luật của các quốc gia thành
viên sẽ phải tuân theo định hướng của TPP. Nhiều điều luật trong TPP còn có ảnh hưởng
thay đổi chế độ pháp lý của các quốc gia. Ví dụ như điều luật khuyến khích các thành
viên của TPP mở một cơ quan chính phủ, có cơ chế và cách thức hoạt động giống tại Mỹ,
thực hiện phân tích ưu-nhược điểm trước khi ban hành các điều luật mới trong nước.

Với hiệp định TPP, các công ty, tập đoàn nước ngoài và quốc tế sẽ có khả năng
mang chính phủ của các quốc gia thành viên ra tòa án đặc biệt của TPP khi các quốc gia
này đặt ra các luật lệ, chính sách đi ngược lại với chỉ tiêu của TPP. Tòa án đặc biệt này có
toàn quyền bắt chính phủ đền bù không những cho các thiệt hại đã xảy ra, mà còn những
mất mát về cơ hội trong tương lai của các tập đoàn, công ty quốc tế.
2.1.3.

Nội dung chính của hiệp định TPP

Hiệp định TPP gồm có 30 chương điều chỉnh thương mại và các vấn đề liên quan
tới thương mại.
-

Thương mại hàng hóa: Các Bên đồng ý xoá bỏ và cắt giảm thuế quan và các rào cản phi
thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp, xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính
sách hạn chế khác về hàng hoá nông nghiệp

-

Dệt may: Các Bên đồng ý xoá bỏ thuế quan đối với hàng dệt và may mặc, các ngành
công nghiệp có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế tại thị trường của một số
Bên.
Quy tắc xuất xứ: 12 Bên đã nhất trí về một bộ quy tắc xuất xứ để xác định liệu một hàng
hóa cụ thể có xuất xứ từ TPP và do đó đủ điều kiện để nhận được ưu đãi thuế quan TPP.
Hải quan và thuận lợi hóa thương mại: các bên đã nhất trí về quy định tăng cường thuận
lợi hóa thương mại, nâng cao tính minh bạch trong thủ tục hải quan, và đảm bảo sự chính
trực của cơ quan hải quan.

-


-

-

-

Biện pháp vệ sinh dịch tễ (VSDT): Rào cản kỹ thuật đối với thương mại: Khi xây dựng
các quy định về VSDT, các Bên đã nêu mối quan tâm chung trong việc bảo đảm sự minh
bạch, quy tắc không phân biệt đối xử dựa trên khoa học, và tái khẳng định quyền của các
nước đối với việc bảo vệ con người và động thực vật ở nước mình.
Đối với hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các thành viên TPP đã nhất trí về
các nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử khi xây dựng các quy định, tiêu
chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.
Chương phòng vệ thương mại trong hiệp định TPP cho phép một thành viên thực hiện
một biện pháp tự vệ tạm thời trong một khoảng thời gian cụ thể nếu việc nhập khẩu tăng
3


-

-

-

-

-

đột biến do kết quả của việc cắt giảm thuế được thực hiện theo hiệp định TPP đủ để gây ra
thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước.

Đối với đầu tư, các thành viên chấp nhận các nghĩa vụ dựa trên cơ sở “một danh mục
chọn bỏ”, nghĩa là thị trường các nước là mở hoàn tòan đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, trừ khi các thành viên đưa ra một ngoại lệ.
Trong chương thương mại điện tử, nghiêm cấm việc áp dụng thuế quan đối với các sản
phẩm kỹ thuật số và ngăn chặn các thành viên TPP tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản
xuất hoặc nhà cung cấp dịch vụ trong nước đối với các sản phẩm kỹ thuật số này thông
qua các biện pháp như thuế phân biệt đối xử hoặc sự ngăn cấm một cách rõ ràng.
Đối với mua sắm chính phủ, các thành viên sẽ chỉ duyệt hợp đồng dựa trên những tiêu chí
đánh giá đã mô tả trong các thông báo và hồ sơ dự thầu, sẽ xây dựng các quy trình hợp lý
để chất vấn hoặc xem xét các khiếu nại đối với một phê duyệt nào đó. Mỗi thành viên sẽ
đưa ra một danh sách chọn cho các đơn vị mà thành viên đó sẽ xây dựng, được liệt kê tại
phụ lục gắn liền với Hiệp định TPP.
Trong chương doanh nghiệp nhà nước (SOEs) tất cả các thành viên TPP đều có doanh
nghiệp nhà nước nên nhất trí bảo đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt động
thương mại trên cơ sở tính toán thương mại, trừ trường hợp không phù hợp với nhiệm vụ
mà các SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các dịch vụ công.
Hiệp định TPP quy định việc thành lập Ủy ban Doanh nghiệp vừa và nhỏđược tiến hành
họp định kỳ để rà soát mức độ hỗ trợ của hiệp định TPP cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, cân nhắc các cách thức để nâng cao hơn nữa những lợi ích của hiệp định và giám sát
các hoạt động hợp tác hoặc nâng cao năng lực để hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
thông qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; chia sẻ thông
tin; cấp vốn thương mại và các hoạt động khác.
Những khác biệt của TPP với các hiệp định thương mại tự do khác
So với các Hiệp định thương mại tự do khác (gọi chung là FTA), TPP có tham vọng, toàn
diện và sâu rộng hơn hẳn. Điều này có thể nhìn thấy qua cách Mỹ đàm phán, "ông lớn"
này không cho phép các mức cam kết của hiệp định thấp hơn các tiêu chuẩn, mức cam kết
trong các FTA trước đây mà nước này đã ký.
Đàm phán TPP được thỏa thuận là đàm phán mật. Do đó ngoài các đoàn đàm phán và các
cơ quan có thẩm quyền trong nội bộ từng nước, không có chủ thể nào khác được thông tin
chính thức và chính xác về các nội dung đàm phán cụ thể. Tuy nhiên, báo cáo của Trung

tâm WTO thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy
TPP không chỉ bàn về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư mà còn “lấn” sang cả lĩnh
vực phi thương mại khác.
Trước kia khi đàm phán WTO, Việt Nam chỉ phải đàm phán 2 lĩnh vực là mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ, cùng với đàm phán đa phương, thì nay sang TPP, Việt Nam
phải đàm phán tới 30 chương, trong đó có những lĩnh vực lần đầu tiên như công đoàn, lao
động, doanh nghiệp Nhà nước.
2.2.

-

-

-

4


-

-

-

-

Trong thương mại, hiệp định yêu cầu phải mở cửa hoàn toàn thị trường trong lộ trình rất
ngắn, tức là mức thuế gần như về 0%, chỉ trừ một số rất ít mặt hàng cực kì nhạy cảm sẽ
qua cơ chế song phương. Đây được đánh giá là một phạm vi toàn diện hơn bất kỳ FTA
nào, ví dụ với Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ ký năm 2000, Việt Nam phải

cắt giảm thuế quan cho khoảng 250 sản phẩm, đưa thuế suất về trung bình về 15-20% với
lộ trình thực hiện trong 3 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Hay với Hiệp định thương
mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), lộ trình giảm thuế của Việt Nam kéo dài suốt từ năm
1999 đến 2018, trong đó vẫn còn giữ lại một số mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm như gia
cầm sống, trứng gà, xăng dầu...
Ở lĩnh vực tài chính, sau WTO, gần như Việt Nam chưa đàm phán một hiệp định nào yêu
cầu mở cửa tự do quy mô lớn ở lĩnh vực này. Song so với Hiệp định thương mại dịch vụ
(GATS) của WTO, đàm phán dịch vụ tài chính trong TPP đã có nhiều khác biệt lớn.
Đàm phán TPP được thực hiện theo phương thức tiếp cận "chọn - bỏ", khác với phương
thức "chọn - cho" của WTO. Điều này có nghĩa TPP chỉ cho phép các nước bảo lưu một
số lượng hạn chế các ngành, phân ngành và phải giải trình với lý do hợp lý để được bảo
lưu. Nếu không giải trình được lý do nhạy cảm đó, thì phải tuân thủ đúng những nguyên
tắc TPP, tức là phải mở cửa. Còn với khi đàm phán WTO, Việt Nam được chọn mở ngành
nào sẽ mở ngành đó.
Chương lao động cũng hoàn toàn mới không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều
đối tác trong đàm phán TPP, hầu như chưa từng xuất hiện trong các đàm phán thương mại
trước đây (bao gồm cả WTO và các FTA thế hệ trước).
Doanh nghiệp Nhà nước là một chương quan trọng trong đàm phán TPP, với mục
tiêu đưa ra những quy định ràng buộc hoạt động của khu vực này ở các nước TPP, trong
đó có Việt Nam. Đây là chế định thương mại mới, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi các
vòng đàm phán có quan điểm rất khác nhau về vấn đề này.
Chương 3: Chiến lược phát triển của Việt Nam khi tham gia hiệp định thương mại
xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Việc Việt Nam tham gia đàm phán gia nhập Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình
Dương (TPP) đã và đang đem đến những tác động nhiều chiều, đòi hỏi Việt Nam phải có
những chiến lược đúng đắn , trên con đường hội nhập quốc tế hiện nay. Chiến lược đó bao
gồm:

5



3.1.

Ổn định tình hình kinh tế vĩ mô
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang gặp nhiều sóng gió như lạm phát cao, nhập siêu
lớn, thâm hụt ngân sách, bong bóng bất động sản… Ổn định kinh tế vĩ mô là hướng giải
quyết căn bản cho khó khăn hiện nay.
Chính sách tiền tệ và ngân sách phải được phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ với
nhau. Chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ không phát huy tác dụng nếu ngân sách tiếp tục được
nới rộng. Bên cạnh việc giảm đầu tư công, Chính phủ vẫn phải ưu tiên các dự án có mức
sinh lời cao và việc cắt giảm đầu tư công cũng sẽ không giúp giảm lạm phát nếu như dòng
vốn không được "thu hồi" một cách hiệu quả
Tăng cường năng lực và tính độc lập cho Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ cần có
kế hoạch tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước theo hướng tăng cường tính độc lập (đặc biệt là
độc lập về mục tiêu và công cụ) và khả năng sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
trong một nền kinh tế thị trường hiện đại.
Kiểm soát đầu tư công: đầu tư công kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân
gây ra lạm phát. Chính phủ cần phân tích thật cẩn thận những chương trình đầu tư công
hiện tại, bao gồm cả những dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước để từ đó xây dựng
danh mục các dự án ưu tiên đầu tư căn cứ theo tiêu thức hiệu quả kinh tế.
Giảm bong bóng bất động sản: Chính phủ cũng cần "xì hơi" bong bóng bất động
sản từ từ để tránh sự đổ vỡ đột ngột của thị trường, điều mà nếu xảy ra sẽ gây náo loạn
khu vực tài chính với nguy cơ tác động lan tỏa tới nền kinh tế thực.
3.2.

Thúc đẩy nền kinh tế phát triển
3.2.1. Thúc đẩy xuất khẩu:
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, Việt Nam luôn theo đuổi
chiến lược lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Mục tiêu lớn nhất
khi tham gia TPP của Việt Nam là tăng cường lợi thế xuất khẩu sang các nước thành viên

TPP thông qua việc các nước này miễn hoặc giảm thuế cho hàng hóa Việt Nam.
Vì TPP đặt ra yêu cầu rất cao là xóa bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu ngay khi hiệp định
có hiệu lực, trừ nhóm các mặt hàng có lộ trình 3-5 năm hoặc 10 năm. Trong khi đó, Châu
Á - Thái Bình Dương hiện là khu vực chiếm đến 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và 80%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nhiều thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam đã là thành viên của TPP như Mỹ hoặc sắp tới là Nhật Bản.
Dựa trên giả định hàng xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng đầy đủ các điều kiện về
xuất xứ trong TPP để được hưởng ưu đãi thuế quan 0% trong TPP, xuất khẩu của Việt
Nam nếu không có TPP vào năm 2025 là 239 tỉ đô la, sẽ tăng thêm 67,9 tỉ đô la (tăng
28,4%) lên 307 tỉ đô la nếu có tham gia TPP (12 thành viên kể cả Nhật Bản). Tăng nhiều
nhất là các mặt hàng dệt may, da giày, tăng thêm đến 45,9% (từ 113 tỉ đô la lên 165 tỉ đô
la) (tính toán của Giáo sư Petri).
TPP được kỳ vọng sẽ là con đường không thể tốt hơn cho hàng hóa xuất khẩu của
6


Việt Nam tăng sức cạnh tranh về giá khi tiếp cận thị trường các nước đối tác. TPP sẽ
mang lại ưu đãi về thuế suất cho các nhóm hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam như dệt
may, giày dép đặc biệt là đối với thị trường Hoa Kỳ. Hiện nay, Trung Quốc chiếm 5060% thị trường may mặc và giầy da của Mỹ, VN khoảng 10%. Xuất khẩu của Trung
Quốc sẽ chững lại vì lương công nhân tăng và nước này định hướng lại chính sách xuất
khẩu.
3.2.2. Thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài,
Nhật Bản, Singapore, Malaisia, Hoa Kỳ là các quốc gia tham gia đàm phán TPP –
đều là các nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam và rất có thể giới doanh nghiệp thuộc các
quốc gia này sẽ tiếp tục dốc vốn vào Việt Nam để tận dụng lợi thế nhân công rẻ, thị
trường xuất khẩu rộng mở. Tất nhiên, sẽ không chỉ là các quốc gia thành viên TPP, các
nhà đầu tư khác cũng sẽ quan tâm nhiều hơn đến Việt Nam vì những lợi thế mà TPP
mang lại, trong đó có Hàn Quốc, Trung Quốc.
Việc Việt Nam hoàn tất thành công quá trình đàm phán Hiệp định TPP là rất quan
trọng đối với cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam và sẽ giúp thúc đẩy niềm tin

của các nhà đầu tư, tăng cường cơ hội cho tất cả mọi người”. Mặt khác: “Tăng trưởng
thương mại sẽ kéo theo FDI và từ đó tạo thêm việc làm và thu nhập, nguồn thu thuế,
xuất khẩu, ngoại hối và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Nếu Việt Nam có thể tận
dụng được tất cả các lợi thế thì TPP sẽ có thể tạo điều kiện giúp cho khu vực kinh tế tư
nhân tiếp cận các thị trường trọng yếu dễ dàng hơn, thúc đẩy cạnh tranh”…

Để trở nên hấp dẫn đối với những khoản đầu tư FDI cần:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên
quan đến đầu tư, kinh doanh. Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan
đến thủ tục đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp
để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Ban hành các ưu đãi khuyến
khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi. Thực hiện các biện
pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án tác
động xấu đến môi trường.

- Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; lựa chọn các dự án tiềm
năng hấp dẫn, có tính khả thi cao theo các lĩnh vực ưu tiên để đưa vào danh mục dự án
đối tác công - tư (PPP), bố trí nguồn vốn ngân sách để đầu tư đối ứng cho các dự án PPP
kêu gọi NĐT nước ngoài.

- Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một số ngành, sản
phẩm trọng điểm.

- Cần tăng cường hỗ trợ, ưu đãi tài chính cho các NĐT đang hoạt động có hiệu quả tại Việt
Nam.
7


Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay: Theo kết quả điều tra dân số đến

tháng 02/2014, Việt Nam có gần 90 triệu người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của
Việt Nam đang phát triển dồi dào. Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là
nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề.
Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 63 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn
nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt
nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số;
nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp
trung ương gần 1 triệu người. Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm
đúng mức; chưa được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến
nơi đến chốn.Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất.Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân,
trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Trình
độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của các quốc gia.
Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực.
3.2.3.

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp đáp
ứng được yêu cầu phát triển doanh nghiệp theo hướng trang bị những tri thức, kỹ năng
mới về chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, năng lực xử lý và tác nghiệp
các tình huống kinh doanh... phù hợp với các chuẩn mực giáo dục, đào tạo của khu vực và
quốc tế.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội
dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn
quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa
các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận
lẫn nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế
giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các
nước.

Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới,
kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
3.2.4. Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam:
Năm 2007, nước ta trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế
giới WTO, Việt Nam đã dần dần, vươn mình ra thế giới.Một thành tựu quan trọng do hội
nhập kinh tế quốc tế đem lại đó là do việc mở cửa thị trường buộc các doanh nghiệp Việt
Nam phảI chuyển sang cách làm ăn mới. Sự hôị nhập kinh tế đã thúc đẩy các doanh
nghiệp phát triển, tạo khả năng cạnh tranh Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của Việt Nam
vẫn đứng ở những vị trí không mấy sáng sủa. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì vậy còn rất nhiều những vấn đề các doanh nghiệp gặp phải
nhằm hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước đối với các doanh
8


nghiệp nước ngoài, như vốn, chất lượng nguồn nhân lực, chiến lược kinh doanh,… Vì
vậy, cần:

- Trước hết, hỗ trợ về vốn và tiếp cận tín dụng cho DNNVV. Để các DNNVV dễ dàng hơn
-

-

trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, cần có sự hài hòa lợi ích của 3 nhân tố là tổ chức
tín dụng, doanh nghiệp
Tăng cường sự hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước về vốn, cơ chế,
chính sách, luật pháp, xúc tiến thương mại, giáo dục - đào tạo, tư vấn về thiết bị, công
nghệ hiện đại... cho các doanh nghiệp.
Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tạo thuận
lợi tối đa cho các DNNVV tham gia sản xuất, kinh doanh
Hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho DNNVV. Thực hiện cải cách sâu rộng hệ

thống giáo dục - đào tạo quốc gia, hỗ trợ đào tạo, trang bị học vấn ở trình độ cử nhân và
những tri thức cơ bản về kinh tế - xã hội, văn hóa, pháp luật... cho các chủ doanh nghiệp,
giám đốc, cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động.
Về cơ chế, chính sách của Nhà nước, các ngân hàng cần đổi mới cơ chế, chính sách tín
dụng theo nguyên tắc thị trường; cải tiến thủ tục cho vay đối với DNNVV theo hướng đơn
giản, rõ ràng hơn nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay. Bên cạnh đó, DNNVV cần
thực hiện minh bạch hóa, bài bản hóa hệ thống sổ sách kế toán tạo thuận tiện cho ngân
hàng trong việc theo dõi hoạt động sản xuất, kinh doanh, từ đó nhanh chóng đưa ra quyết
định cho vay vốn.

Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình “Kinh tế phát triển”- Học viện Ngân hàng
- Wikipedia
- Báo điện tử cafef
- Báo điện tử Vneconomy

9


Phần kết luận
Mục tiêu của Việt Nam khi tham gia vào TPP nhằm mở rộng hơn nữa thị trường
cho hàng hóa xuất khẩu; thúc đẩy thu hút đầu tư của các nước vào Việt Nam để tận dụng
các cơ hội mà khu vực thương mại tự do TPP có thể đem lại; hỗ trợ cho tiến trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mà Việt Nam đang tiến hành, hướng đến một mô hình tăng trưởng mới
bền vững, năng động và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, khi tham gia TPP Việt Nam nói chung
và các doanh nghiệp nói riêng cũng phải đối mặt với các thách thức lớn, trong đó có
những thách thức như thay đổi chính sách để đáp ứng các quy tắc tham vọng của Hiệp
định TPP; làm thế nào để đáp ứng hội nhập nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với hệ thống
chính trị. Tham gia TPP là tiếp cận sâu, rộng và toàn diện hơn với thị trường quốc tế sẽ
gây sức ép lớn đối với nền kinh tế. Bởi vậy, bài tiểu luận của nhóm đã tìm hiểu nội dung

cơ bản của hiệp định cũng như những khác biệt của TPP với các hiệp định thương mại tự
do khác, để qua đó, đưa ra những giải pháp, chiến lược phát triển phù hợp cho Việt Nam
sau khi tham gia hiệp định giúp các doanh nghiệp Việt tận dụng, nắm bắt tốt các cơ hội
cũng như hạn chế những khó khăn, giải quyết các thách thức TPP đặt ra.

10



×