Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

PHẠM VI và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu môn xử lý TÌNH HUỐNG CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.46 KB, 101 trang )

PHÂN VIỆN BÁO CHÍ & TUYÊN TRUYỀN

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2005


Bài 1
PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
CHÍNH TRỊ

Chính trị học là khoa học về đấu tranh cho quyền lực, về giành, giữ và
thực thi quyền lực chính trị. Song, chính trị khơng chỉ là khoa học mà cịn là
nghệ thuật. Xử lý tình huống chính trị là một trong những nội dung quan
trọng của nghệ thuật chính trị, rất cần thiết cho hoạt động chính trị thực tiễn,
vì nó trang bị cho người học về phương pháp tiếp cận, nhiệm vụ, nguyên tắc
và quy trình xử lý một số tình huống chính trị; giúp cho cán bộ lãnh đạo chính
trị thêm khả năng chủ động phát hiện các tình huống chính trị, ngăn ngừa và
hạn chế tác hại của nó trong thực tiễn.
I- KHÁI NHIỆM TÌNH HUỐNG VÀ TÌNH HUỐNG CHÍNH TRỊ

1. Tình huống
Xử lý tình huống được triển khai nghiên cứu ở những mơn học học xã
hội hành vi dưới nhiều góc độ khác nhau. Bởi vì sự vận động và biến đổi của
đời sống xã hội là một chuỗi các sự kiện, các biến cố kế tiếp nhau về thời gian
và diễn ra trong những khơng gian nhất định, địi hỏi con người phải nhận
thức và tìm cách xử lý. Và do vậy, dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, có
thể có những quan điểm khác nhau về tình huống.


Quan niệm thứ nhất cho rằng, tất cả các sự kiện, các biến cố diễn ra
trong đời sống mà con người phải nhận thức và tìm cách giải quyết đều gọi là
tình huống.
Quan niệm thứ hai cho rằng, chỉ những sự kiện, những biến cố diễn ra
khơng bình thường, có vấn đề gay cấn, phức tạp, đòi hỏi con người phải nhận
thức và xử lý bằng những giải pháp khơng bình thường, giải pháp đặc biệt
mới gọi là tình huống.
Quan niệm thứ nhất có những điểm hợp lý. Nhưng nếu theo quan niệm
này thì tất cả mọi hoạt động của con người đều là xử lý tình huống, khơng
phân biệt những sự kiện, biến cố bình thường cần áp dụng những giải pháp
2


bình thường với những sự kiện, biến cố gay cấn, phức tạp địi hỏi có giải pháp
đặc biệt.
Quan niệm thứ hai hợp lý hơn, vì hoạt động xử lý tình huống của con
người chỉ nên giới hạn ở những giải pháp đặc biệt đối với các sự kiện, biến cố
không bình thường. Một xử lý tình huống chỉ nghiên cứu giúp cho những
người hoạt động thực tiễn có giải pháp đúng trong những trường hợp gay cấn,
phức tạp. Phương thức, giải pháp xử lý ở đây cũng không thể giống như cách
giải quyết những cơng việc bình thường hàng ngày. Quan niệm thứ hai tạo cơ
sở tiến tới những quan điểm đúng về tình huống chính trị.
2. Tình huống chính trị
Chính trị là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản của con người
trong xã hội có giai cấp. Nếu trong điều kiện bình thường, hoạt động của các
chủ thể cầm quyền sẽ diễn ra theo quy trình: ra quyết định, triển khai thực
hiện, tổng kết, rút kinh nghiệm và chuẩn bị ra quyết định mới… Các quá trình
sau lại tiếp tục diễn ra như vậy. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không phải lúc
nào các chủ thể cầm quyền cũng tuân theo một quy trình như vậy mà trong
q trình triển khai các bước, họ có thể cịn gặp phải những trở ngại như các

hiện tượng: nhân dân khiếu kiện, biểu tình chống đối; lực lượng phản động
gây bạo loạn hoặc âm mưu gây bạo loạn; bản thân các chủ thể cầm quyền
thoái hoá, biến chất, chia bè cánh chống đối lẫn nhau… Do vậy, trong những
điều kiện nhất định có thể dẫn đến tình huống thiếu chủ thể cầm quyền…
Những hiện tượng này gây nên sự bất ổn định về mặt chính trị- xã hội hoặc có
khả năng trực tiếp gây nên sự bất ổn định chính trị – xã hội, đòi hỏi phải áp
dụng những giải pháp đặi biệt để giải quyết.
Tình huống chính trị thường xảy ra vào thời kỳ khủng hoảng xã hội. Đây
cũng là thời điểm, hoàn cảnh dễ nảy sinh những xung đột, rối loạn xã hội, có
nguy cơ đe dọa đến sự ổn định bền vững của chế độ. Tình huống chính trị
cịn có thể là những bùng phát nhất thời gây bất lợi về chính trị trong một
phạm vi nhất định.

3


Tình huống chính trị có thể trực tiếp nảy sinh trong lĩnh vực chính trị,
như những mâu thuẫn giữa các lực lượng ngay trong bộ máy cầm quyền; sự
chống đối của các thế lực trong nước và ngoài nước; sự chống đối của nhân
dân với những người nắm giữ quyền lực, các cơ quan quyền lực và thể chế
chính sách của Nhà nước. Tình huống chính trị cũng có thể nảy sinh từ các
lĩnh vực khác. Chẳng hạn, khi nền kinh tế khủng hoảng, trì trệ có thể dẫn đến
sự bất ổn về mặt chính trị. Những vấn đề dân tộc, tơn giáo nếu khơng có giải
pháp đúng cũng có thể dẫn đến những xung đột về chính trị.
Tình huống chính trị có thể biểu hiện ở những dấu hiệu cơ bản sau:
- Sự bất mãn, chống đối của một bộ phân nhân dân với một số đại diện
chính quyền Nhà nước.
- Sự xung đột giữa các phe cánh trong chủ thể cầm quyền.
- Bộ máy quyền lực bất lực, tê liệt hoặc thiếu chủ thể cầm quyền (khoảng
trống quyền lực) .

- Những chuẩn mực luật pháp, đạo đức, văn hố có thể khơng được tn
thủ.
- Khủng hoảng về tư tưởng, niềm tin gây tổn hại đến ý thức hệ chủ đạo
của xã hội.
- Các lực lượng tiêu cực, phản động có điều kiện trỗi dậy gây mất an
ninh xã hội, làm tăng nguy cơ đối với sự bền vững của chế độ xã hội.
Một tình huống chính trị xuất hiện khơng nhất thiết phải có đầy đủ các
dấu hiệu trên mà có thể chỉ cần một vài dấu hiệu nào đó, gây nên bất ổn định
chính trị - xã hội.
3. Các ngun nhân của tình huống chính trị
Cũng như các hiện tượng xã hội khác, việc xuất hiện các tình huống
chính trị có những ngun nhân nhất định. Ở đây, có thể có những nguyên
nhân khách quan từ sự vận động, biến đổi của kinh tế, chính trị, xã hội nằm
ngoài ý thức của chủ thể cầm quyền, nhưng cũng có khi là do những nguyên
nhân chủ quan từ sai lầm, yếu kém của chủ thể cầm quyền.

4


Tình huống chính trị thường có ngun nhân khách quan từ kinh tế. Một
thể chế kinh tế khi còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo đà
cho sự phát triển của sản xuất. Nhưng khi thể chế kinh tế ấy khơng cịn phù
hợp nữa nó có thể gây nên tình trạng khủng hoảng, trì trệ trong sản xuất, dẫn
đến nạn thất nghiệp gia tăng, tỷ lệ lạm phát cao, đời sống nhân dân bị suy
giảm, dân chúng bất bình... có thể là ngun nhân dẫn tới những tình huống
chính trị. Do tác động của cơ chế thị trường tạo nên sự chênh lệch quá mức về
đời sống giữa các tầng lớp dân cư, gây nên sự bất bình, chống đối trong dân
chúng... Cuộc khủng hoảng kinh tế 1998 - 2000 ở các nước Đông Nam Á đã
dẫn đến tình huống thay đổi chính phủ ở một số nước.
Tuy nhiên, cũng trong trạng thái khủng hoảng kinh tế nhưng có nước

diễn ra cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng, kéo dài, có nước ít trầm trọng,
diễn ra ngắn hơn và có nước lại khơng xảy ra khủng hoảng chính trị. Điều đó
khơng chỉ phụ thuộc vào trạng thái kinh tế của mỗi nước mà còn phụ thuộc
vào chủ thể cầm quyền. Nếu chủ thể cầm quyền có chính sách, giải pháp đúng
thì có thể khơng dẫn tới khủng hoảng chính phủ hoặc nếu có xảy ra thì cũng
khơng trầm trọng kéo dài. Thậm chí, chính sách kinh tế của chủ thể cầm
quyền không đúng hoặc không thay đổi kịp thời cũng có thể dẫn tới khủng
hoảng chính trị và làm trầm trọng thêm khủng hoảng kinh tế.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế đã diễn ra ở tất
cả các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Ở những nước Đảng Cộng sản
có chính sách và giải pháp đúng thì họ không những từng bước khắc phục
được khủng hoảng kinh tế - xã hội mà cịn khơng để xảy ra những tình huống
chính trị phức tạp, Đảng Cộng sản vẫn giữ được vai trò lãnh đạo. Còn ở
những nước những người cầm quyền áp dụng những chính sách, giải pháp sai
lầm thì đã dẫn tới khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, đảng
cộng sản mất quyền lãnh đạo.
Về chính trị, sự chống đối, phá hoại của các lực lượng đối lập trong và
ngoài nước, hoặc do người dân bị những lực lượng phản động lợi dụng, kích
động chống đối lại chính quyền nhà nước... có thể là những nguyên nhân
5


khách quan dẫn đến những tình huống chính trị. Song, tình huống chính trị
phức tạp cũng có thể nảy sinh từ chính phủ thể cầm quyền. Khi xác định
chính sách khơng đúng, thể chế chính trị quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ,
những người cầm quyền thoái hoá, biến chất... sẽ dẫn đến sự chống đối lẫn
nhau ngay trong lực lượng cầm quyền, sự bất mãn, chống đối của nhân dân
đối với những người nắm giữ quyền lực, cơ quan quyền lực về thể chế, chính
sách của nhà nước. Tình hình trên thường bị các lực lượng đối lập trong và
ngoài nước lợi dụng phá hoại. Tuy nhiên, việc xác định ranh giới giữa nguyên

nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan cũng chỉ có ý nghĩa tương đối.
Tình huống chính trị cũng có thể nảy sinh từ lĩnh vực tư tưởng xã hội.
Khi một chính đảng cầm quyền coi nhẹ công tác giáo dục tư tưởng, chệch
hướng hoặc mất định hướng về chính trị ... sẽ trở thành cơ hội cho các tư
tưởng đối lập lan truyền trong đời sống xã hội, gây bất ổn định về tư tưởng và
có thể dẫn tới các tình huống chính trị. Dĩ nhiên, sự bất ổn định về tư tưởng
thường có nguyên nhân từ các vấn đề kinh tế - xã hội hoặc chính trị. Song,
điều đó cịn phụ thuộc vào tính chủ động, tự giác của giai cấp cầm quyền,
đảng cầm quyền trong việc xác lập và bảo vệ hệ tư tưởng chủ đạo của mình
trong đời sống xã hội.
II- MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu mơn xử lý tình huống chính trị giúp cho người hoạt động
chính trị nhận thức đúng và biết cách xử lý khi tình huống chính trị xảy ra, có
phương pháp tiếp cận đúng, nắm vững nguyên tắc, quy trình, giải pháp và kỹ
năng xử lý phù hợp với những tình huống cụ thể. Đặc biệt là mơn học giúp
cho người cán bộ lãnh đạo chính trị thêm khả năng chủ động phịng ngừa để
khơng xảy ra tình huống chính trị gây tổn hại cho đời sống xã hội.
Khi tình huống chính trị xảy ra thường có quan hệ đến sự “mất”, “cịn”
của quyền lực chính trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau. Việc có giữ
được quyền lực hay không phụ thuộc vào tương quan lực lượng và ý chí của

6


chủ thể cầm quyền. Mặt khác, nó cũng phụ thuộc trực tiếp vào nghệ thuật xử
lý cụ thể của những con người hoạt động chính trị.
Giữ vững quyền lực chính trị không chỉ bằng những thủ thuật nhất thời,
trước mắt mà cần tính đến sự bền vững, lâu dài. Cần phải có một chiến lược

an dân. Nhưng quan điểm đó cũng thể hiện ngay trong những tình huống đặc
biệt để sao cho khi xử lý xong một tình huống chính trị thì chỗ dựa của Đảng
và Nhà nước trong dân lại vững vàng và bền chặt hơn.
Xử lý tình huống chính trị cịn phải áp dụng những giải pháp nhằm củng
cố, tăng cường hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của hệ thống ấy, thực
thi có hiệu quả hơn quyền lực chính trị.
Nếu sau những biến động chính trị, kém hiệu lực hơn, cơ sở chính trị
trong dân suy giảm thì những hậu hoạ tiếp theo là khó tránh khỏi.
2. Phạm vi nghiên cứu
Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu của mỗi môn học mà phạm vi nghiên cứu
xử lý tình huống cũng khác nhau. Chính trị học là một trong những môn khoa
học nghiên cứu những vấn đề chung của lĩnh vực chính trị, là khoa học về đấu
tranh cho quyền lực, về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Do vậy,
phạm vi nghiên cứu của mơn xử lý tình huống chính trị bao hàm những nội
dung cơ bản có liên quan đến những tình huống đặc biệt trong việc giành, giữ
và thực thi quyền lực chính trị. Cụ thể, nó bao gồm những nội dung cơ bản
sau:
- Xử lý các điểm nóng chính trị - xã hội: Đám đơng quần chúng nhân dân
khiếu kiện, biểu tình, chống đối cơ quan quyền lực, những người nắm giữ
quyền lực; những lực lượng đối lập, phản động gây bạo loạn nhằm lật đổ
chính quyền... Đó là những sự kiện, những biến cố diễn ra khơng bình
thường, nảy sinh từ lực lượng không cầm quyền, “bị cai trị”, chống đối lại lực
lượng cầm quyền, “cai trị”.
- Xử lý tình huống chính trị khi một bộ phận trong bộ máy cầm quyền
mắc bệnh quan liêu, tham nhũng: quan liêu, tham nhũng là căn bệnh phổ biến,
kinh niên của các nhà nước, của các tổ chức nằm giữ quyền lực. Nhưng căn
7


bệnh ấy đến một mức độ nhất định sẽ phát sinh nguy cơ đổ vỡ ngay bên trong

các tổ chức cầm quyền, làm cho nội bộ mất đoàn kết, quần chúng nhân dân
chống đối, các lực lượng đối lập lợi dụng, kích động, phá hoại... Nạn quan
liêu, tham nhũng cũng với những nguy cơ và hậu quả chính trị - xã hội của nó
là một tình huống phức tạp trong đời sống chính trị - xã hội, biểu hiện sự suy
thối của lực lượng cầm quyền.
- Xử lý tình huống chính trị khi chuyển giao quyền lực: trong lịch sử xã
hội đã diễn ra q trình quyền lực chính trị chuyển từ một chủ thể cầm quyền
này sang cho một chủ thể cầm quyền khác nắm giữ. Sự thay đổi giữa các chủ
thể cầm quyền là một quá trình tất yếu diễn ra trong đời sống xã hội. Quá
trình này rất dễ nảy sinh “khoảng trống quyền lực”, có thể dẫn đến tình trạng
bất ổn định, hỗn loạn xã hội. Bởi vì, “một ngày khơng vua, thiên hạ đại loạn”.
Đặc biệt, việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ các Đảng Cộng sản
cầm quyền cũng là một quá trình quan trọng. Q trình đó một mặt phải đảm
bảo tính ổn định, tính thế thừa của các thế hệ thực hiện mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, mặt khác, lại có thể tuyển lựa được những cán bộ có tài năng và trung
thành với lợi ích của nhân dân lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai
đoạn mới. Gần 74 năm tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng cho thấy
những bài học kinh nghiệm về chuyển giao quyền lãnh đạo của các Đảng
Cộng sản.
- Vấn đề dân chủ trong bầu cử, nghệ thuật để giành thắng lợi trong bầu
cử và những nội dung khác... có thể tiếp tục được triển khai nghiên cứu và
đưa vào giảng dạy.
Các tình huống trên có thể diễn ra ở những cấp độ khác nhau: trong
phạm vi cơ sở, địa phương hay trên phạm vi cả nước. Nó có thể diễn ra trên
từng mặt, từng bộ phận hoặc diễn ra trên tổng thể đời sống chính trị - xã hội.
Tình huống chính trị có thể chứa đựng mâu thuẫn đối kháng hoặc không
đối kháng, mức độ và sự đan xen giữa các mâu thuẫn ấy. Tình huống chính trị
có thể mang tính chất nghiêm trọng hoặc không nghiêm trọng. Mức độ
nghiêm trọng thể hiện ở sự tổn hại về vật chất, tinh thần, về người và của, về
8



sự gay cấn và phức tạp của tình hình, về nguy cơ đối với chế độ chính trị - xã
hội.
Xác định phạm vi và tính chất của tình huống chính trị có quan hệ với
việc xác định phương thức, giải pháp bố trí lực lượng giải quyết những tình
huống chính trị cụ thể.

BÀI 2

XỬ LÝ CÁC ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
I- KHÁI NHIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

1. Khái niệm điểm nóng xã hội và điểm nóng chính trị - xã hội
Điểm nóng là khái niệm chỉ trạng thái khơng bình thường của sự vật.
Trong kỹ thuật, đó là trạng thái của vật chất ở “điểm sôi”, “điểm bốc cháy”,
“điểm bùng nổ”. Trong đời sống xã hội cần quan sát những dấu hiệu trong
thực tiễn và khái quát thành khái niệm.
- Điểm nóng xã hội:
Khi điểm nóng xã hội nổ ra thường thấy có những biểu hiện sau:
- Đời sống xã hội trong trạng thái khơng bình thường, bất ổn định, có lúc
rối loạn.
- Sự phản ứng, xung đột của đám đơng, của của lực lượng khơng cịn tự
kiềm chế được trở thành sức mạnh, áp lực chống đối lẫn nhau.
- Hành vi của đám đông quần chúng đã vượt ra ngồi hoặc có khả năng
vượt ra ngồi khn khổ của pháp luật và chuẩn mực văn hoá đạo đức.
- Diễn ra trong khơng gian và thời gian nhất định, có khả năng lan toả
sang nơi khác.
Từ những biểu hiện trên có thể khái quát: Điểm nóng xã hội là đời sống
xã hội trong trạng thái khơng bình thường, bất ổn định, rối loạn, diễn ra sự

xung đột, chống đối giữa các lực lượng với những hành vi khơng cịn tự kiềm
9


chế được, đã vượt ra ngồi hoặc có khả năng vượt ra ngồi khn khổ của
pháp luật và chuẩn mực văn hoá đạo đức, diễn ra tại một địa điểm, trong thời
gian nhất định và có khả năng lan toả sang nơi khác.
Điểm nóng xã hội có thể diễn ra ở những địa bàn và những lĩnh vực khác
nhau. Nó có thể phát sinh ở khu vực nơng thơn, miền núi hay thành thị, ở các
xí nghiệp hay trường học... Nó có thể diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, chính trị
hay xã hội... Điểm nóng xảy ra ở các khu vực trên được gọi chung là điểm
nóng xã hội.
- Điểm nóng chính trị - xã hội.
Điểm nóng chính trị - xã hội là điểm nóng xã hội diễn ra trong lĩnh vực
chính trị - xã hội khi mà sự chống đối của đám đông quần chúng đã hướng
trực tiếp vào những người nắm quyền lực chính trị, cơ quan quyền lực và thể
chế chính sách của chính quyền nhà nước.
Trong thực tiễn thường xảy ra các điểm nóng xã hội nhiều hơn là các
điểm nóng chính trị - xã hội. Cịn điểm nóng chính trị - xã hội xảy ra ít hơn
nhưng phức tạp và quyết liệt hơn vì nó quan hệ trực tiếp tới quyền lực nhà
nước. Tuy nhiên, điểm nóng xã hội trong các lĩnh vực khác đều có khả năng
trực tiếp trở thành điểm nóng chính trị - xã hội. Chẳng hạn, những cuộc đình
cơng, bãi công của người lao động chống giới chủ, học sinh bãi khố chống
ban giám hiệu nhà trường, nơng dân tranh chấp đất đai với nhau... nếu khơng
có cách xử lý đúng đều có thể chuyển thành cuộc đấu tranh chống chính
quyền nhà nước. Như vậy, nếu chúng ta xử lý tốt, điểm nóng xã hội thì sẽ hạn
chế sự phát sinh điểm nóng chính trị - xã hội.
Điểm nóng xã hội cũng có thể phát sinh trực tiếp từ chính lĩnh vực chính
trị. Điểm nóng xã hội có thể có nguồn gốc từ những tranh chấp dân sự, từ sự
khiếu kiện của nhân dân không được giải quyết kịp thời, để dây dưa, kéo dài,

gây tích đọng mâu thuẫn và bùng phát thành điểm nóng. Do đó, để điểm nóng
xã hội và điểm nóng chính trị - xã hội khơng nổ ra cần giải quyết tốt những

10


tranh chấp về mặt dân sự, giải quyết kịp thời những khiếu kiện của nhân dân,
ngăn ngừa sự chống đối của các lực lượng phản động.
Nhìn chung, các điểm nóng xã hội và điểm nóng chính trị - xã hội
thường hay phát sinh vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội hoặc chính trị xã hội. Chỉ tính riêng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta
(cuối những năm 70 và những năm 80 của thế kỷ XX) đã nảy sinh hơn 3000
điểm nóng xã hội, trong đó có một số điểm nóng chính trị - xã hội. Bởi vì,
khủng hoảng xã hội là tình trạng rối loạn, mất sự cân bằng, bình ổn, do nhiều
mâu thuẫn chưa giải quyết được. Còn khủng hoảng chính trị là tình trạng
khơng ổn định về chính trị tạo nên những bất đồng lớn trong nội bộ một quốc
gia hay nhiều quốc gia có liên đới.
Nhưng khủng hoảng xã hội hoặc chính trị - xã hội chưa dẫn đến xung đột
quyền lực hoặc rối loạn xã hội, người ta cịn tự kiềm chế được hành vi của
mình. Luật pháp và các chuẩn mực văn hoá - đạo đức vẫn được tuân thủ. Như
vậy, khủng hoảng xã hội và khủng hoảng chính trị - xã hội đã tiệm cận và có
nguy cơ bùng phát thành điểm nóng xã hội và điểm nóng chính trị - xã hội.
Điểm nóng xã hội và điểm nóng chính trị - xã hội thường dễ nảy sinh khi
một giai cấp mới giành được chính quyền, khi một chế độ xã hội mới ra đời.
Vì khi đó pháp luật, thể chế nhà nước, thể chế xã hội chưa được xác lập và
hoàn thiện, người cầm quyền chưa có kinh nghiệm, lực lượng thù địch còn ẩn
náu, chưa loại bỏ hết...
Tuy nhiên, ngay cả khi chế độ mới đã được hình thành, thể chế mới đã
được hoàn thiện, nhưng nếu người cầm quyền mắc sai lầm, có những hành vi
thiếu văn hố như mất dân chủ, xúc phạm đến phong tục tập quán, tín ngưỡng
của nhân dân ... hoặc do kẻ thù, lực lượng đối lập phá hoại thì vẫn có thể phát

sinh điểm nóng.
Từ sự phân tích trên có thể cho thấy, điểm nóng có nổ ra hay khơng, mức
độ như thế nào khơng chỉ phụ thuộc vào những điều kiện, nhân tố khách quan
ngồi chủ thể cầm quyền, mà nó cịn phụ thuộc vào chính thể cầm quyền.
Ngay trong điều kiện khủng hoảng xã hội, hay khủng hoảng chính trị - xã hội,
11


nếu chủ thể cầm quyền có giải pháp đúng thì cũng có thể khơng phát sinh
điểm nóng, hoặc điểm nóng có nổ ra thì tác hại cũng khơng lớn. Ngược lại,
nếu chủ thể cầm quyền áp dụng giải pháp sai lầm thì sẽ làm cho cuộc khủng
hoảng thêm trầm trọng và khó tránh khỏi nổ ra điểm nóng xã hội hoặc điểm
nóng chính trị - xã hội. Thực tế cho thấy, khi thể chế chính trị quan liêu, tham
nhũng, mất dân chủ, những người cầm quyền thoái hoá biến chất, thì nhân
dân nổi dậy chống lại, lực lượng đối lập lợi dụng cơ hội lật đổ lực lượng cầm
quyền. Và do vậy, điểm nóng sẽ bùng phát.
2. Phương pháp tiếp cận nóng chính trị - xã hội
Khi điểm nóng nổ ra, tình hình rất khẩn cấp. Trước chúng ta là hàng
trăm, hàng nghìn người đang chống đối. Vậy chúng ta cần có cách tiếp cận
như nào để nhận thức đúng và đề ra được những giải pháp kịp thời, ứng phó
với tình hình.
Trước hết, cần phải phân tích những u sách của đám đơng quần
chúng đang nêu ra. Phải tìm hiểu xem họ đang địi hỏi lợi ích gì? lợi ích kinh
tế, lợi ích chính trị hay lợi ích văn hố, tín ngưỡng...? Cũng có thể u sách là
sự đan xen giữa các lợi ích ấy. Từ sự phân tích u sách chúng ta sẽ thấy
được tình huống có vấn đề bắt nguồn từ đâu.
Nếu xét thấy yêu sách của quần chúng là chính đáng thì tình huống có
vấn đề bắt nguồn từ sai lầm, khiếm khuyết của lực lượng cầm quyền, của cơ
quan quyền lực hoặc thể chế chính sách của nhà nước. Có thể yêu sách của
quần chúng lúc khởi đầu là chính đáng, nhưng do sự kích động, hoặc có thể

do kẻ địch lợi dụng dẫn đến những địi hỏi q đáng mà khơng sao giải quyết
được. Muốn giải quyết những tình huống như vậy, cần phải trở lại yêu sách
ban đầu của họ.
Những yêu sách của quần chúng có thể chứa đựng âm mưu kích động,
phá hoại của kẻ xấu, của lực lượng thù địch. Yêu sách ấy có thể cơng khai nêu
rõ những mưu đồ chính trị, nhưng cũng có thể những âm mưu sâu xa, nham
hiểm được thể hiện ra như những yêu cầu rất bình dị. Nguồn gốc của vấn đề
lại xuất phát từ những mưu đồ của kẻ xấu, của lực lượng thù địch.
12


Yêu sách có thể có sự đan xen, cài đặt giữa nguyện vọng của quần chúng
với âm mưu của các lực lượng thù địch. Tình huống có vấn đề ở đây rất phức
tạp.
Thứ hai, cần phải phân tích bản chất của người đứng đầu đám đơng
quần chúng.
Người đứng đầu có thể là người xuất đầu lộ diện, đi đầu trong đám biểu
tình, nhưng trong nhiều trường hợp họ là kể dấu mặt, trá tình, đứng đằng sau
chỉ huy những người hung hăng, q khích. Chỉ khi tìm đúng người đứng đầu,
phân tích rõ bản chất của người đứng đầu mới thấy được bản chất của điểm
nóng và mục tiêu của cuộc đấu tranh ẩn giấu đằng sau những yêu sách của
quần chúng.
Nếu người đứng đầu là kẻ xấu, phản động thì những yêu sách của quần
chúng nêu ra thường ẩn chứa những ý đồ chính trị, từ yêu sách này họ sẽ lấn
tới những yêu sách khác và cuối cùng đi đến lật đổ chính quyền .
Nếu người đứng đầu là người tốt, đại diện cho lợi ích của nhân dân thì
u sách của quần chúng thường là chính đáng, mục tiêu đấu tranh của họ là
thực hiện dân chủ và cơng bằng xã hội.
Thứ ba, phải phân tích tâm lý, hành vi của đám đông quần chúng.
Trong đám đông quần chúng thường có hai khuynh hướng gắn với hai bộ

phận khác nhau.
- Khuynh hướng thứ nhất: Do tâm lý của một bộ phận quần chúng đã ở
trong tình trạng bất bình thường cao độ, khơng cịn tự kiềm chế được đã dẫn
đến những hành vi bột phát, quá đà, hình thành nên bộ phận được gọi là
những người quá khích. Bộ phận này cịn có thể bao gồm những người có tiền
án, tiền sự, bất mãn với chính quyền, những người do kẻ địch lợi dụng... Đó là
bộ phận dẫn đầu đám đông quần chúng.
- Khuynh hướng thứ hai: Quần chúng bị động hùa theo, do sự nhẹ dạ cả
tin, do sự ngộ nhận hoặc bị ép buộc. Nhóm đối tượng này chiếm một bộ phận
không nhỏ trong đám đông và họ dễ dàng bị tan rã nếu được giải thích, tuyên

13


truyền, thuyết phục, làm rõ đúng sai, hoặc bị sức ép xử lý kiên quyết đúng
đắn nào đó của các cơ quan quyền lực.
Khi nhận thức rõ được hai khuynh hướng trên có thể sẽ giúp chúng ta
bình tĩnh xử lý trước đám đơng và tìm ra được những giải pháp đúng.
Từ phân tích rõ ba vấn đề trên sẽ tạo căn cứ cho việc xác định mâu thuẫn
của điểm nóng: mâu thuẫn địch ta (đối kháng) hay là mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân (không đối kháng); mức độ của từng loại mâu thuẫn và sự đan xen
của các mâu thuẫn ấy. Chỉ khi xác định đúng mâu thuẫn mới có căn cứ để tìm
ra những giải pháp đúng.
II. NHỮNG YÊU CẦU VÀ QUY TRÌNH GIẢI PHÁP XỬ LÝ ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

1. Những u cầu
Trước hết, cần phải áp dụng các giải pháp làm cho điểm nóng “nguội”
dần và hạn chế sự lan toả sang nơi khác. Biện pháp này còn được gọi là “hạ
nhiệt độ”, “rút ngịi nổ”, vì như phải dập tắt một đám cháy sao cho nó khơng
bùng phát lớn hơn, khơng lan toả sang nơi khác, mà nguội dần đi. Các giải

pháp hành động trong trường hợp này phải mau lẹ, chính xác, phải hạn chế
một cách tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
Thứ hai, tạo lập sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. Sự ổn định có thể ở hai trạng thái:
- Ổn định bề ngồi, nhất thời nhưng bên trong lại chứa đựng nguy cơ
bùng phát bất ổn định lớn hơn.
- Ổn định tạo tiền đề cho sự phát triển và đảm bảo cho sự ổn định bền
vững lâu dài.
Trạng thái thứ hai mới thật sự là u cầu xử lý điểm nóng chính trị - xã
hội. Ổn định chính trị là nhằm mục tiêu phát triển kinh tế và chỉ trên cơ sở
phát triển kinh tế mới có thể đảm bảo cho sự định hướng lâu dài về chính trị xã hội.
Thứ ba, cần tạo ra những tiền đề, nhân tố để điểm nóng khơng tái phát.
Để đạt u cầu này thì những giải pháp xử lý điểm nóng khơng phải chỉ mang
tính chất cấp thiết, nhất thời, “chữa cháy”, mà có ý nghĩa chiến lượng, cơ bản
14


và lâu dài. Thường phải có những giải pháp chữa trị căn nguyên sinh ra điểm
nóng và kết hợp với tổng thể các giải pháp khác để cho đời sống xã hội phát
triển vững mạnh cả về kinh tế, chính trị, và hoá, xã hội ...
Thứ tư, cần củng cố sự bền vững của cơ sở chính trị và tăng cường hiệu
lực của hệ thống chính trị. Xử lý điểm nóng chính trị - xã hội khơng chỉ với
mục tiêu thiết lập sự ổn định chính trị, mà cơ bản hơn là củng cố sự bền vững
của cơ sở chính trị. Sự bền vững ấy chính là chính sách an dân, chiếm được
lịng dân và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân với Nhà nước, huy động được
sự tham gia của nhân dân vào công việc Nhà nước. Và cũng trên cơ sở đó
củng cố và tăng cường hiệu lực của hệ thống chính trị, sao cho sau khi xử lý
điểm nóng, cơ sở chính trị và hệ thống chính trị mạnh hơn trước.
2. Quy trình, giải pháp xử lý điểm nóng chính trị - xã hội
Xử lý điểm nóng chính trị - xã hội có thể trải qua các bước sau:

Bước một: Nắm tình hình, phân tích ngun nhân và nhận dạng mâu
thuẫn.
Khi điểm nóng nổ ra, để có căn cứ cho những giải pháp đúng thì việc
nhằm tình hình có ý nghĩa quyết định. Cần có thơng tin chính xác về các mặt:
- Số lượng quần chúng tham gia biểu tình, chống đối; thành phần tham
gia; đối tượng tham gia; hình thức tổ chức lực lượng...
- Họ nêu những yêu sách gì? Những yêu yêu sách ấy phải do cơ quan
nào giải quyết... ?
- Ai là người cầm đầu? Số lượng những người quá khích? Những âm
mưu và thủ đoạn? Họ có quan hệ và được sự chỉ đạo của các lực lượng phản
động trong nước và ngồi nước hay khơng?
Phương thức nắm tình hình có thể thơng qua chính quyền, các đồn thể
quần chúng ở cơ sở, dựa vào dân, bằng nghiệp vụ chuyên môn của cơ quan
công an và các cơ quan an ninh khác... Cần phải bám sát địa bàn, thông tin
kịp thời những diễn biến về cơ quan tham mưu tổng hợp để lập ra những
phương án xử lý.

15


Trên cơ sở tổng hợp thông tin về nhiều mặt, người chỉ huy và bộ phận
tham mưu tổng hợp phải đánh giá đúng nguyên nhân phát sinh điểm nóng. Có
thể phân loại các nguyên nhân:
- Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân khách quan có thể do điều kiện kinh tế, xã hội gặp khó
khăn, do dân trí thấp lại bị kẻ xấu, phản động lơi cuốn, kích động...
Nguyên nhân chủ quan thuộc về những khiếm khuyết, sai lầm của chính
sách, thể chế của các cơ quan quyền lực và những người nắm giữ quyền lực.
- Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài:
Nguyên nhân bên trong thường được xem xét từ những mâu thuẫn nảy

sinh trong phạm vi cơ sở, địa phương hoặc trong phạm vi tồn quốc. Đó có
thể là những mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo; sự bất công giữa các tầng lớp dân
cư, giữa lao và giới chủ, giữa quần chúng nhân dân và cán bộ nắm giữ quyền
lực...

Nguyên nhân bên ngồi có thể là do sự biến động

lớn về kinh tế, chính trị, xã hội có tính khu vực và toàn cầu tác động đến từng
quốc gia; do sự tác động của các lực lượng thù địch quốc tế...
- Nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp: Nguyên nhân sâu xa của
một điểm nóng chính trị - xã hội có thể là do sự hận thù giai cấp từ những
năm chiến tranh cách mạng trước đây, lực lượng phản động cịn lưu vong ở
nước ngồi móc nối tác động vào trong nước. Nguyên nhân sâu xa cũng có
thể do những thể chế hiện hành (theo nghĩa hẹp) đã lạc hậu, không kịp thay
đổi, phát sinh những tiêu cực, ách tắc trong sản xuất và đời sống.
Còn nguyên nhân trực tiếp thì dễ nhận thấy khi nổ ra điểm nóng. Chẳng
hạn, điểm nóng Thái Bình xảy ra năm 1998 có nguyên nhân trực tiếp là do
cán bộ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, nhưng nó lại là hậu quả của cả
một thể chế chưa được đổi mới. Điểm nóng ở các tỉnh vùng Tây Nguyên có
nguyên nhân trực tiếp từ vấn đề đất đai, phân hoá giàu nghèo giữa đồng bào
dân tộc ít người với những người dân từ nơi khác đến khai phá vùng Tây
Nguyên. Thế nhưng nguyên nhân sâu xa của vấn đề lại là từ lực lượng Phun -

16


rơ trước đây chạy ra nước ngồi, nay trở lại móc nối với lực lượng bên trong,
kích động đồng bào gây bạo loạn.
Sự phân định các nguyên nhân trên cũng có ý nghĩa tương đối vì giữa
chúng có quan hệ và chuyển hố lẫn nhau. Sau khi phân tích ngun nhân cần

xác định những mâu thuẫn xem điểm nóng đó chứa đựng mâu thuẫn đối
kháng hay không đối kháng, mâu thuẫn giữa nội bộ nhân dân hay mâu thuẫn
giữa ta và địch, mức độ của các mâu thuẫn và sự đan xen của các mâu thuẫn
ấy. Trên cơ sở nhận dạng, xác định đúng mâu thuẫn mới có căn cứ để định ra
quan điẻm, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo, phương thức giải quyết và tổ
chức lực lượng thực hiện. Nếu như xác định sai mâu thuẫn thì tồn bộ nhận
thức và hành động sẽ sai lầm, hậu hoạ sẽ khơng nhỏ, điểm nóng sẽ khơng
được giải quyết mà cịn bùng phát lớn hơn.
Bước hai: Áp dụng những biện pháp rút ngòi nổ và hạn chế sự lan toả
sang nơi khác.
- Trước hết, phải thiết lập được sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất, phát huy
hiệu lực của hệ thống chính trị để giữ vững quyền lực chính trị.
Người chỉ huy, người đứng đầu có vị trí đặc biệt quan trọng. Người chỉ
huy có đủ bản lĩnh, có phương pháp đúng sẽ thống nhất được các quan điểm,
nguyên tắc, phương châm chỉ đạo và tổ chức lực lượng thực hiện, tạo nên sự
thống nhất ý chí và hành động. Nếu khơng có người chỉ huy đáp ứng u cầu
giải quyết công việc, khác phục sự rối ren, phức tạp diễn ra ngay bên trong
nội bộ thì khó có thể giải quyết được sự phức tạp, rối loạn bên ngoài xã hội.
Trong trường hợp cần thiết có thể phải thay người chỉ huy. Tuy nhiên, việc
thay thế người chỉ huy cũng có thể là một sai lầm vì lực lượng đối lập đấu
tranh chống lực lượng cầm quyền thường chĩa mũi nhọn vào những người
đứng đầu cứng rắn nhất. Nếu chúng ta thay thế người đứng đầu bằng một
người khác yếu hơn thì rất dễ bị đối phương đánh đổ. Cứ như vậy, người thay
thế tiếp theo lại yếu hơn nữa... và cuối cùng dẫn đến sự mất dần quyền lực.
Người đứng đầu cùng với bộ tham mưu mới có thể đủ khả năng giải
quyết cơng việc. Tuỳ theo tính chất và mức độ của điểm nóng mà bộ tham
17


mưu có thể khác nhau. Đó có thể bao gồm thường trực hoặc thường vụ Đảng

uỷ, Huyện uỷ, Tỉnh uỷ..., hoặc có thể cấp uỷ cử một bộ phận chuyển giải
quyết điểm nóng.
Dưới sự chỉ huy của người đứng đầu cùng với bộ tham mưu, cần phối
hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong hệ thống chính trị như chính quyền,
mặt trận, các đoàn thể quần chúng... Mỗi tổ chức, mỗi lực lượng đều có vị trí
và tác dụng nhát định trong việc giải quyết điểm nóng chính trị - xã hội.
Khơng nên nhận thức rằng, đó là nhiệm vụ của riêng lực lượng công an và
quân đội.
Xử lý điểm nóng chính trị - xã hội cần có sự chỉ đạo thống nhất của các
cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở. Bởi vì, đây là một vấn đề nhạy cảm,
phạm vi tác động không chỉ ở nơi xảy ra điểm nóng mà cịn ảnh hưởng đến
các nơi khác trong phạm vi cả nước, thậm chí nó có thể ảnh hưởng đến an
ninh khu vực và quốc tế. Do vậy, cần phải có sự thống nhất, phối hợp của cả
hệ thống chính trị mới có thể tìm ra cách giải quyết đúng đắn.
- Lựa chọn phương thức giải quyết - những lực lượng và phương tiện cần
thiết.
Trước hết xác định rõ phương thức giải quyết, đó là tuyên truyền, thuyết
phục hay đàn áp, hoặc kết hợp cả hai phương thưc trên. Nếu như xác định
dùng biện pháp tuyên truyền thuyết phục là chính thì lực lượng tham gia giải
quyết cơ bản là Mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Không nhất thiết phải
huy động lực lượng công an và quân đội, hoặc chỉ sử dụng một bộ phận nhỏ
để hỗ trợ cùng các lực lượng khác, để làm công tác bảo vệ. Nếu như xác định
dùng biện pháp đàn áp là chính thì cơng an, qn đội là lực lượng chủ công.
Nếu kết hợp cả hai phương pháp trên thì tuỳ theo điều kiện cụ thể mà tổ chức
phối hợp các lực lượng. Điều quan trọng là phải có sự phân cơng và phối hợp
giữa các lực lượng sao cho phát huy mọi thế mạnh của từng lực lượng để tạo
nên sức mạnh tổng hợp.
Việc sử dụng các phương tiện trong chính trị cũng rất quan trọng, đặc
biệt là các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là một thứ vũ khí sắc bén
18



khơng chỉ trong hoạt động chính trị nói chung mà nó cịn đặc biệt quan trọng
trong q trình xử lý các điểm nóng chính trị - xã hội. Thơng qua đài phát
thanh, truyền hình, báo chí và các phương tiện truyền thơng khác, hệ thống
thơng tin đại chúng có thể giúp cho quần chúng phân định đúng sai, định
hướng dư luận xã hội để tập hợp lực lượng, cô lập đối phương... Cách sử dụng
các phương tiện thông tin đại chúng là nghệ thuật chính trị. Tuỳ điều kiện cụ
thể mà có thể có cách sử dụng cơng cụ khác nhau. Điều cần lưu ý ở đây là
phải nắm chắc và chi phối phương tiện thông tin đại chúng. Nếu như cơng cụ
này để rơi váo tay đối phương thì sự thất bại là khó tránh khỏi.
Việc lựa chọn các phương thức, các lực lượng và phương tiện nhằm giải
quyết hai vấn đề sau:
* Để giải tán đám đông quần chúng:
Tuỳ theo những điều kiện cụ thể mà áp dụng các giải pháp khác nhau:
+ Nếu những yêu sách của quần chúng là chính đáng thì có thể chấp
nhận những yêu sách ấy và giải quyết kịp thời những vấn đề có thể giải quyết
được. Những vấn đề chưa thể giải quyết ngay cần cam kết với quần chúng sẽ
sớm đưa ra xem xét. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nếu làm như vậy, đám
đông quần chúng sẽ tự giải tán.
+ Đưa cán bộ vào đám đông vận động, lôi kéo những quần chúng tích
cực, những người bị động, hùa theo; tách họ khỏi lực lượng cầm đầu quá
khích; yêu cầu họ trở về nơi làm việc hoặc nơi cư trú; đồng thời, nhận diện,
răn đe, cô lập những người q khích cầm đầu.
+ Trong trường hợp nguy cấp có thể phải dùng đến sức mạnh của lực
lượng công an, quân đội, buộc mọi người phải giải tán.
* Đối sách đối với những người cầm đầu đám đơng quần chúng
Có thể áp dụng các giải pháp sau:
+ Có thể thương lượng với người đứng đầu nếu như người đó đại diện
cho u sách chính đáng của đám đơng quần chúng. Tuy nhiên, cần lưu ý

rằng, có thể trong lúc đối đầu giữa hai bên họ có thể có hành vi tráo trở,
không thực hiện lời cam kết hoặc xuyên tạc những nội dung thương lượng để
19


kích động quần chúng, nâng cao vị thế của mình. Do vậy, cần có sự đề phịng
cần thiết.
+ Nếu những người đứng đầu là những phần tử xấu, lợi dụng hồn cảnh
để xun tạc sự thật, kích động quần chúng, gây nên bất ổn định, rối loạn xã
hội thì có thể vạch trần thủ đoạn của họ để cho quần chúng nhận thức rõ đúng
sai. Song, nếu như không đủ chứng lý để vạch tội họ thì có thể điều đó sẽ gây
nên tác dụng ngược chiều, quần chúng sẽ phản đối và càng làm tăng thêm vai
trò của người đứng đầu.
+ Trong trường hợp cần thiết có thể bắt giữ người đứng đầu. Tuy nhiên,
nếu như việc bắt giữ được thực hiện khơng đúng lúc, khơng đúng pháp luật
thì có thể kích thích thêm sự chống đối của quần chúng. Việc bắt giữ người
đứng đầu phải hợp pháp, phải giải thích, tuyên truyền cho quần chúng thấy
được việc làm đó là cần thiết và đúng đắn. Nếu như trong quá trình xử lý lại
sa vào tình trạng hữu khuynh, do dự, thiếu kiên quyết bắt giữ người đứng đầu
trong những trường hợp cần thiết thì tình hình có thể sẽ trở nên phức tạp hơn.
Trong trường hợp người đứng đầu là những phần tử phản động thì chỉ
khi bắt được người đứng đầu mới có thể giải quyết được điểm nóng. Vấn đề
quan trọng là cần phải chọn những thời điểm thích hợp, tuỳ thuộc vào những
điều kiện cụ thể.
Giải tán đám đông quần chúng và đối sách với người đứng đầu là hai giải
pháp có quan hệ mật thiết với nhau. Người đứng đầu chỉ dựa vào đám đông
quần chúng và đối sách với người đứng đầu là hai giải pháp có quan hệ mật
thiết với nhau. Người đứng đầu chỉ dựa vào đám đông quần chúng mới có sức
mạnh, và ngược lại, đám đơng chỉ có sức mạnh khi có tổ chức, có người đứng
đầu. Nếu như chúng ta giải quyết tốt việc giải tán đám đông, lơi kéo quần

chúng về phía mình thì người đứng đầu khơng cịn sức mạnh. Ngược lại, khi
có đối sách đúng với người đứng đầu thì lại có điều kiện để giải tán đám đông
quần chúng. Thực chất ở đây là thể hện mối quan hệ giáo dục tuyên truyền,
thuyết phục với số đám đông quần chúng và áp dụng những biện pháp chuyên
chính đối với những người quá khích cầm đầu khi cần thiết.
20



×