Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Bài giảng văn hóa kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.04 KB, 43 trang )

Bài giảng văn hóa kinh doanh
 7K

(/user/quataodo187)

 23

 6


Phạm Anh Tuấn
 Bà i giả ng
VĂN HÓA KINH DOANH
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1.1.    KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA
1.1.1. Khái niệm
Văn hóa gắn liền với sự ra đời của nhân loại. Nhưng mãi đến thế kỷ 17, nhất
là nửa cuối thế kỷ 19 trở đi, các nhà khoa học trên thế giới mới tập trung
vào nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Bản thân vấn đề văn hóa rất đa dạng và
phức tạp, nó là một khái niệm có nhiều nghĩa, được dùng để chỉ những khái
niệm có nội hàm  khác nhau về đối tượng, tính chất và hình thức biểu hiện.
Do đó, khi có những tiếp cận nghiên cứu khác nhau sẽ dẫn đến có nhiều
quan niệm xung quanh nội dung thuật ngữ văn hóa. Năm 1952, Koroeber
và Kluchohn đã thống kê được
164 định nghĩa về văn hóa, cho đến nay con số này chắc chắn đã tăng lên
rất nhiều. Cũng như bất kỳ lĩnh vực nào khác, một vấn đề có thể được nhìn
nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy việc có nhiều khái niệm  văn hóa
khác nhau không có gì đáng ngạc nhiên, trái lại càng làm vấn đề được hiểu
biết phong phú và toàn diện hơn.
Theo nghĩa gốc của từ
Tại phương Tây, văn hóa – culture (trong tiếng Anh, tiếng Pháp) hay kultur


(tiếng Đức)…đều xuất xứ  từ  chữ Latinh cultus có nghĩa là khai khoang,
trồng trọt, trông nom cây lương thực; nói ngắn gọn là sự vun trồng. Sau đó
từ cultus được mở rộng nghĩa, dùng trong lĩnh vực xã hội chỉ sự vun trồng,
giáo dục, đào tạo và phát triển mọi khả năng của con người.


Ở phương Đông, trong tiếng Hán cổ, từ văn hóa bao hàm ý nghĩa văn là vẻ
đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ con người có thể đạt được
bằng sự tu dưỡng của bản thân và cách thức cai trị đúng đắn của nhà cầm
quyền. Còn chữ hóa trong văn hóa là việc đem cái văn (cái đẹp, cái tốt, cái
đúng) để cảm hóa, giáo dục và hiện thực hóa trong thực tiễn, đời sống. Vậy,
văn hóa chính là nhân hóa hay nhân văn hóa. Đường lối văn trị hay đức trị
của Khổng Tử là từ quan điểm cơ bản này về văn hóa (văn hóa là văn trị
giáo hóa, là giáo dục, cảm hóa bằng điển chương, lễ nhạc, không dùng hình
phạt tàn bạo và sự cưỡng bức).
Như vậy, văn hóa trong từ nguyên của cả phương Đông và phương Tây đều
có một nghĩa chung căn bản là sự giáo hóa, vun trồng nhân cách con người
(bao gồm cá nhân, cộng đồng và xã hội loài người), cũng có nghĩa là làm
cho con người và cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu
2
Căn cứ vào đối tượng mà thuật ngữ “văn hóa” được sử dụng để phản ánh –
ba cấp độ nghiên cứu chính về văn hóa đó là:
-    Theo phạm vi nghiên cứu rộng nhất, văn hóa là tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử.
Loài người là một bộ phận của tự nhiên nhưng khác với các sinh vật khác,
loài người có một khoảng trời riêng, một thiên nhiên thứ 2 do loài người tạo
ra bằng lao động và tri thức – đó chính là văn hóa. Nếu tự nhiên là cái nôi
đầu tiên nuôi sống con người, giúp loài người hình thành và sinh tồn như

không khí, đất đai… thì văn hóa là cái nôi thứ hai – nơi ở đó toàn bộ đời
sống vật chất và tình thần của loài người được hình  thành, nuôi dưỡng và
phát triển. Nếu như con người không thể tồn tại khi tách khỏi giới tự nhiên
thì cũng như vậy, con người không thể trở thành “người” theo đúng nghĩa
nếu tách khỏi môi trường văn hóa.



Do đó, nói đến văn hóa là nói đến con người – nói tới những đặc trưng riêng
chỉ có ở loài người, nói tới việc phát huy những năng lực và bản chất của
con người nhằm hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng vươn tới
chân
– thiện – mỹ. Đó là ba giá trị trụ cột vĩnh hằng của văn hóa nhân loại.
Cho nên, theo nghĩa này, văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của
con người dù đó chỉ là những suy tư thầm kín, những cách giao tiếp ứng xử
cho đến những hoạt động kinh tế, chính trị và xã hội. Như vậy, hoạt động
văn hóa là hoạt động sản xuất ra các giá trị vật chất và tinh thần nhằm giáo
dục con người khát vọng hướng tới chân – thiện – mỹ và khả năng sáng tạo
chân – thiện – mỹ trong đời sống.
-    Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những hoạt động và giá trị tinh thần của con
người. Trong phạm vi này,  văn hóa khoa học (toán học, vật lý học, hóa
học…) và văn hóa nghệ thuật (văn học, điện ảnh…) được coi là hai phân hệ
chính của hệ thống văn hóa.
-    Theo nghĩa hẹp hơn nữa, văn hóa được coi như một ngành – ngành văn
hóa – nghệ thuật để phân biệt với các ngành kinh tế - kỹ thuật khác. Cách
hiểu này thường kèm theo cách đối xử sai lệch về văn hóa: Coi văn hóa là
lĩnh vực hoạt động đứng ngoài kinh tế, sống được là nhờ trợ cấp của nhà
nước và “ăn theo” nền kinh tế.
Trong ba cấp độ phạm vi nghiên cứu kể trên về thuật ngữ văn hóa, hiện nay
người ta thường dùng văn hóa theo nghĩa rộng nhất. Loại trừ những trường

hợp đặc biệt và người nghiên cứu đã tự giới hạn và quy ước.
Căn cứ theo hình thức biểu hiện
3


Văn hóa được phân loại thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, hay
nói  đúng  hơn,  theo  cách  phân  loại  này  văn  hóa  bao  gồm  văn  hóa 
vật  thể (tangible) và văn hóa phi vật thể (intangible).
Các đền chùa, cảnh quan, di tích lịch sử cũng như các sản phẩm văn hóa
truyền thống như tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng, áo dài, áo tứ thân… đều
thuộc loại hình văn hóa vật thể. Các phong tục, tập quán, các làn điệu dân
ca hay bảng giá trị, các chuẩn mực đạo đức của một dân tộc… là thuộc loại
hình văn hóa phi vật thể. Tuy vậy, sự phân loại trên cũng chỉ có nghĩa tương
đối bởi vì trong một sản phẩm văn hóa thường có cả yếu tố “vật thể” và
“phi vật thể”. Điển hình như trong không gian văn hóa cồng chiêng của các
dân tộc Tây Nguyên, ẩn sau cái vật thể hữu hình của nó gồm những cồng,
những chiêng, những con người của núi rừng, những nhà sàn, nhà rông
mang đậm bản sắc… là cái vô hình của âm hưởng, phong cách và quy tắc
chơi nhạc đặc thù, là cái hồn của thời gian, không gian và lịch sử.
Như vậy, khái niệm văn hóa rất rộng, trong đó những giá trị vật chất và tinh
thần được sử dụng làm nền tảng định hướng cho lối sống, đạo lý, tâm hồn
và hành động của mỗi dân tộc và các thành viên để vươn tới cái đúng, cái
tốt, cái đẹp, cái mỹ trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với
tự nhiên và môi trường xã hội. Từ ý nghĩa đó, chúng ta rút ra được khái
niệm về văn hóa như
sau:
“Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người tạo ra
trong quá trình lịch sử”.



1.1.2. Các yếu tố cấu thành văn hóa
Văn hóa là một đối tượng phức tạp và đa dạng. Để hiểu bản chất của văn
hóa, cần xem xét các yếu tố cấu thành văn hóa. Dựa vào khái niệm về văn
hóa, có thể phân văn hóa thành hai lĩnh vực cơ bản là văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần.
-    Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo được thể hiện trong các
của cải vật chất do con người sáng tạo ra. Đó là các sản phẩm hàng hóa,
công cụ lao động, tư liệu tiêu dùng, cơ sở hạ tầng kinh tế như giao thông,
thông tin, nguồn năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như chăm sóc sức khỏe,
nhà ở, hệ thống giáo dục và cơ sở hạ tầng tài chính như ngân hàng, bảo
hiểm, dịch vụ tài chính trong xã hội. Văn hóa vật chất được thể hiện qua đời
sống vật chất của quốc gia đó. Chính vì vậy văn hóa vật chất sẽ ảnh hưởng
to lớn đến trình độ dân trí, lối sống
của các thành viên trong nền kinh tế đó.
4
Một điểm lưu ý là khi xem xét đến văn hóa vật chất, chúng ta xem xét cách
con người làm ra những sản phẩm vật chất thể hiện rõ ở tiến bộ kỹ thuật và
công nghệ, ai làm ra chúng và tại sao. Tiến bộ kỹ thuật và công nghệ ảnh
hưởng đến mức sống và giúp giải thích những giá trị và niềm tin của xã hội
đó. Ví dụ như nếu là một quốc gia tiến bộ về kỹ thuật, con người ít tin vào
số mệnh và họ tin tưởng rằng có thể kiểm soát những điều xảy ra đối với họ.
Những giá trị của họ cũng thiên về vật chất bởi vì họ có mức sống cao hơn.
Như vậy, một nền văn hóa vật chất thường được coi là kết quả của công
nghệ và liên hệ trực tiếp với việc xã hội đó tổ chức hoạt động kinh tế của
mình như thế nào.
-    Văn hóa tinh thần


Là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người và xã hội bao gồm

kiến thức, các phong tục, tập quán; thói quen và cách ứng xử, ngôn ngữ
(bao gồm cả ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời); các giá trị và thái độ;
các hoạt động văn học nghệ thuật; tôn giáo; giáo dục; các phương thức
giao tiếp, cách thức tổ chức xã hội.
+ Kiến thức là nhân tố hàng đầu của văn hóa, thường được đo một cách
hình thức bằng trình độ học vấn, trình độ tiếp thu và vận dụng các kiến
thức khoa học, hệ thống kiến thức được con người phát minh, nhận thức và
được tích lũy lại, bổ sung nâng cao và không ngừng đổi mới qua các thế hệ.
+ Các phong tục tập quán là những quy ước thông thường của cuộc sống
hàng ngày như nên mặc như thế nào, cách sử dụng các đồ dùng ăn uống
trong bữa ăn, cách xử sự với những người xung quanh, cách sử dụng thời
gian… Phong tục, tập quán là những hành động ít mang tính đạo đức, sự vi
phạm phong tục tập quán không phải là vấn đề nghiêm trọng, người vi
phạm chỉ bị coi là không biết cách cư xử chứ ít bị coi là hư hỏng hay xấu xa.
Vì thế, người nước ngoài có thể được tha thứ cho việc vi phạm phong tục
tập quán lần đầu tiên.  Tập tục có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với tập quán, nó
là những quy tắc được coi là trọng tâm trong đời sống xã hội, việc làm trái
tập tục có thể gây nên hậu quả nghiêm trọng. Chẳng hạn như tập tục bao
gồm các yếu tố như sự lên án các hành động trộm cắp, ngoại tình, loạn
luân và giết người. Ở nhiều xã hội, một số tập tục đã được cụ thể hóa trong
luật pháp.


+ Thói quen là những cách thực hành phổ biến hoặc đã hình thành từ trước.
Cách cư xử là những hành vi được xem là đúng đắn trong một xã hội riêng
biệt. Thói quen thể hiện cách sự vật được làm, cách cư xử được dùng khi
thực hiện chúng. Ví dụ thói quen ở Mỹ là ăn món chính trước món tráng
miệng. Khi thực
hiện thói quen này, họ dùng dao và dĩa ăn hết thức ăn trên đĩa và không nói
khi

5
có thức ăn trong miệng. Ở nhiều nước trên thế giới, thói quen và cách cư xử
hoàn toàn khác nhau. Ở các nước Latinh có thể chấp nhận việc đến trễ,
nhưng ở Anh và Pháp, sự đúng giờ là giá trị. Người Mỹ thường sử dụng phấn
bột sau khi tắm nhưng người Nhật cảm thấy như thế là làm bẩn lại.
+ Giá trị là những niềm tin và chuẩn mực chung cho một tập thể người được
các thành viên chấp nhận, còn thái độ là sự đánh giá, sự cảm nhận, sự phản
ứng trước một sự vật dựa trên các giá trị. Ví dụ thái độ của nhiều quan chức
tuổi trung niên của Chính phủ Nhật Bản với người nước ngoài không thiện
chí lắm, họ cho rằng dùng hàng nước ngoài là không yêu nước. Thái độ có
nguồn gốc từ những giá trị, ví dụ người Nga tin tưởng rằng cách nấu ăn của
Mc Donald là tốt nhất đối với họ (giá trị) và do đó vui lòng đứng xếp hàng
dài để ăn (thái độ).
+ Ngôn ngữ là một yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa vì nó là phương
tiện được sử dụng để truyền thông tin và ý tưởng, giúp con người hình
thành nên các nhận thức về thế giới và có tác dụng định hình đặc  điểm văn
hóa của con người. Ở những nước có nhiều ngôn ngữ người ta cũng thấy có
nhiều nền văn hóa. Ví dụ, ở Canada có 2 nền văn hóa: Nền văn hóa tiếng
Anh và nền văn hóa tiếng Pháp. Tuy nhiên, không phải lúc  nào sự khác biệt
về ngôn ngữ cũng dẫn đến sự khác biệt về xã hội. Trong hoạt động kinh
doanh, nhất là kinh doanh quốc tế, sự hiểu biết về ngôn ngữ địa phương, về


những thành ngữ và cách nói xã giao hàng ngày, về dịch thuật là rất quan
trọng. Một công ty đã không thành công khi quảng cáo bột giặt của mình
đã đặt hình ảnh quần áo bẩn ở bên trái hộp xà phòng và hình ảnh quần áo
sạch sẽ ở bên phải vì ở nước này người ta đọc từ phải qua trái, và điều đó
được hiểu là xà phòng làm bẩn quần áo.
Bản thân ngôn ngữ rất đa dạng, nó bao gồm ngôn ngữ có lời (verbal
language) và ngôn ngữ  không lời (non – verbal language). Thông điệp được

chuyển giao bằng nội dung của từ ngữ, bằng cách diễn tả các thông tin đó
(âm điệu, ngữ điệu…) và bằng các phương tiện không lời như cử chỉ, tư thế,
ánh mắt, nét mặt… Ví dụ một cái gật đầu là dấu hiệu của sự đồng ý, một
cái nhăn mặt là dấu hiệu của sự khó chịu. Tuy nhiên, một số dấu hiệu của
ngôn ngữ cử chỉ lại bị giới hạn về mặt văn hóa. Chẳng hạn trong khi phần
lớn người Mỹ và Châu Âu khi giơ ngón cái lên hàm ý “mọi thứ đều ổn” thì ở
Hy Lạp, dấu hiệu đó là ngụ ý khiêu dâm.
+ Thẩm mỹ liên quan đến thị hiếu nghệ thuật của văn hóa, các giá trị thẩm
mỹ được phản ảnh qua các  hoạt động nghệ thuật như hội họa, điêu khắc,
điện
ảnh, văn chương, âm nhạc, kiến trúc…
6
+ Tôn giáo ảnh hưởng lớn đến cách sống, niềm tin, giá trị và thái độ, thói
quen làm việc và cách cư xử của con người trong xã hội đối với nhau và với
xã hội khác. Chẳng hạn, ở những nước theo đạo Hồi, vai trò của người phụ
nữ bị giới hạn trong gia đình, Giáo hội Thiên chúa giáo đến tận bây giờ vẫn
tiếp tục cấm sử dụng các biện pháp tránh thai. Thói quen làm việc chăm chỉ
của người Mỹ là được ảnh hưởng từ lời khuyên của đạo Tin lành. Các nước
Châu Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Khổng nên coi trọng đạo đức làm
việc. Thói quen ăn kiêng của một số tôn giáo ảnh hưởng từ thói quen làm
việc. Ngay cả những ngày lễ trọng yếu cũng bị ràng buộc bởi tôn giáo, ví dụ
nhiều người mỹ trao đổi quà cho nhau vào ngày 25 tháng 12 (lễ Giáng Sinh).



+ Giáo dục là yếu tố quan trọng để hiểu văn hóa. Trình độ cao của giáo dục
thường dẫn đến năng suất cao và tiến bộ kỹ thuật. Giáo dục cũng giúp cung
cấp những cơ sở hạ tầng cần thiết để phát triển khả năng quản trị.
Sự kết hợp giáo dục chính quy (nhà trường) và giáo dục không chính quy
(gia đình và xã hội) giáo dục cho con người những giá trị và chuẩn mực xã

hội như tôn trọng người khác, tuân thủ pháp luật, trung  thực, gọn gàng,
ngăn nắp, đúng giờ…, những nghĩa vụ cơ bản của công dân, những kỹ năng
cần thiết. Việc đánh giá kết quả học tập theo điểm của giáo dục chính quy
cũng giáo dục cho học sinh thấy giá trị thành công của mỗi cá nhân và
khuyến khích tinh thần cạnh tranh ở học sinh. Trình độ giáo dục của một
cộng đồng có thể đánh giá qua tỷ lệ người biết đọc, biết viết, tỷ lệ người tốt
nghiệp phổ thông, trung học hay đại học… Đây chính là yếu tố quyết định
sự phát triển của văn hóa vì nó sẽ giúp các thành viên trong một nền văn
hóa kế thừa được những giá trị văn hóa cổ truyền và học hỏi những giá trị
mới từ các nền văn hóa khác. Mô hình giáo dục ở các nước là khác nhau. Ví
dụ, ở Nhật và Hàn Quốc nhấn mạnh đến kỹ thuật và khoa học ở trình độ đại
học. Nhưng ở Châu Âu, số lượng MBA lại gia tăng nhanh trong những năm
gần đây. Điều này có ý nghĩa lớn khi thiết lập các quan hệ trong giáo dục
giữa các nước.
+ Cách thức tổ chức của một xã hội thể hiện qua cấu trúc xã hội của xã
hội đó
Ở đây nổi lên bốn đặc điểm quan trọng giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa
các nền văn hóa:
Thứ nhất là sự đối lập giữa chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa tập thể. Các xã
hội phương Tây có xu hướng nhấn mạnh ưu thế của cá nhân, trong khi
nhiều xã hội khác lại coi trọng tập thể hơn. Sự coi trọng ưu thế cá nhân,
thành tựu cá


nhân, một mặt khuyến khích tinh thần sáng tạo của mỗi cá nhân và làm xã
hội trở
7
nên năng động hơn; mặt khác, chủ nghĩa cá nhân cũng làm suy yếu mỗi
liên hệ giữa các cá nhân, có thể gây ảnh hưởng xấu đến ý thức trách nhiệm
của từng cá nhân với tập thể nói riêng và xã hội nói chung. Xã hội Mỹ là ví

dụ điển hình về vấn đề này. Sự coi trọng tập thể, hòa nhập với tập thể sẽ
tạo ra sự tương trợ lẫn nhau, tạo ra động lực mạnh mẽ để các thành viên
trong tập thể làm việc vì lợi ích chung, làm tăng cường tinh thần hợp tác
giữa các thành viên, nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cá nhân với xã
hội. Tuy nhiên, những xã hội coi trọng tập thể có thể bị coi là thiếu tính
năng động và tinh thần kinh doanh cao. Xã hội Nhật Bản là ví dụ điển hình
về vấn đề này. Vì những lý do văn hóa, nước Mỹ sẽ tiếp tục thành công hơn
Nhật và đi đầu trong việc tạo ra những sản phẩm và phương thức kinh
doanh mới.
Thứ hai là sự phân cấp trong xã hội. Có một số xã hội có khoảng cách phân
cấp cao và mức độ linh hoạt chuyển đổi giữa các giai cấp thấp (ví dụ như Ấn
Độ và trong chừng mực thấp hơn là Anh quốc). Trong khi đó, ở một số xã
hội khác, khoảng cách phân cấp ít hơn, nhưng lại linh hoạt hơn trong việc
chuyển đổi giai cấp (ví dụ như Mỹ). Những cá nhân thuộc về phân cấp cao
trong xã hội có nhiều cơ hội có một cuộc sống tốt hơn là những cá nhân
thuộc về phân cấp thấp. Những người thuộc tầng lớp cao được giáo dục tốt
hơn và cơ hội việc làm càng tốt hơn. Các cá nhân trong xã hội mà mức độ
linh hoạt chuyển đổi giữa các giai cấp thấp thì khó có cơ hội vươn lên
những tầng lớp cao hơn. Thành kiến xã hội và những quy định nghiêm ngặt
về cách cư xử, thậm chí giọng nói ngăn cản họ làm việc ấy. Trong khi đó,
những cá nhân trong xã hội mà  mức độ linh hoạt chuyển đổi giữa các giai
cấp cao có cơ hội vươn lên những tầng lớp cao hơn. Địa vị của một cá  nhân
được xác định chủ yếu bằng thành công của bản thân chứ không phải bằng
một cá nhân có thể dễ dàng di chuyển từ giai cấp lao động lên giai cấp
thượng lưu. Thực tế là tại Mỹ, người ta rất tôn trọng những người thành đạt


có nguồn gốc thấp kém, trong khi ở Anh những người như thế chỉ được coi
là “trưởng giả học  làm sang” chứ không bao giờ được xã hội thượng lưu
thực sự chấp nhận cả.



Thứ ba là tính đối lập giữa tính nữ quyền hay nam quyền. Trong một số xã
hội, mối quan hệ giữa giới tính và vai trò của từng giới trong công việc là rất
rõ nét. Trong môi trường nam quyền, vai trò của giới tính rất được coi
trọng, phân biệt giữa nam và nữ là rất lớn. Trong môi trường này, sự tham
gia vào công việc của phái nữ là rất ít, hoặc sự tham gia đó chỉ là về mặt
hình thức, các vị trí cao trong công việc nữ giới hầu như không được đảm
nhiệm.
Thứ tư là bản chất tránh rủi ro. Tại những xã hội có truyền thống văn hóa
chấp nhận những điều không chắc chắn, con người sẵn sàng chấp nhận rủi
ro đến
8
từ những điều mà họ không biết rõ, họ cho rằng cuộc sống sẽ vẫn tiếp tục
cho dù những rủi ro có xảy ra. Do  đó  trong môi trường này, cơ cấu của các
tổ chức thường được xây dựng rất ít hoạt động, các văn bản về luật cũng
không nhiều và
các nhà quản lý có xu hướng chấp nhận rủi ro cao, đồng thời tỷ lệ thay thế
lao động trong các tổ chức này  thường cao và có nhiều nhân viên giàu hoài
bão. Những quốc gia điển hình cho nền văn hóa này là Anh và Đan Mạch.
Ngược lại, những xã hội có truyền thống văn hóa không chấp nhận những
điều không chắc chắn, con người luôn luôn cam thấy bất an về một tình
huống mơ hồ nào đó, họ luôn muốn tránh những xu hướng mạo hiểm bằng
nhu cầu cao về an ninh và tin mạnh mẽ vào các chuyên gia hay hiểu biết
của họ. Những tổ chức thuộc về nền văn hóa này thường xây dựng với nhất
nhiều hoạt động trong tổ chức, có nhiều văn bản về điều luật và các nhà
quản lý thường ít khi chấp nhận rủi ro. Tỷ lệ thay lao động trong các tổ chức
này cũng thấp hơn và số nhân viên giàu tham vọng
cũng ít hơn. Đơn cử cho những nước này là Đức, Nhật, Tây Ban Nha.
1.1.3. Những nét đặc trƣng của văn hóa



Văn hóa có một số đặc trưng tiêu biểu sau:
-    Văn hóa mang tính tập quán
Văn hóa quy định những hành vi được chấp nhận hay không được chấp
nhận trong một xã hội cụ thể. Có những tập quán đẹp, tồn tại lâu đời như
một sự khẳng định những nét độc đáo của một nền văn hóa này so với nền
văn hóa kia, như tập quán “mời trầu” của người Việt Nam, tập quán các
thiếu nữ Nga mời khách bánh mỳ và muối. Song cũng có những tập quán
không dễ gì cảm thông như tập quán “cà răng căng tai” của một số dân tộc
thiểu số của Việt Nam.
-    Văn hóa mang tính cộng đồng
Văn hóa không thể tồn tại do chính bản thân nó mà phải dựa vào sự tạo
dựng, tác động qua lại và củng cố của mọi thành viên trong xã hội. Văn hóa
như là một sự quy ước chung cho các thành viên trong cộng đồng. Đó là
những lề thói, những tập tục mà một cộng đồng người cùng tuân theo một
cách rất tự nhiên, không cần phải ép buộc. Một người nào đó làm khác đi sẽ
bị cộng đồng lên án hoặc xa lánh tuy rằng xét về mặt pháp lý những việc
làm của anh ta không có gì là phi pháp.
-    Văn hóa mang tính dân tộc
Văn hóa tạo nên nếp suy nghĩ và cảm nhận chung của từng dân tộc mà
người dân tộc khác không dễ gì hiểu được. Vì thế mà một câu chuyện cười
có thể


làm cho người dân các nước phương Tây cười chảy nước mắt mà người dân
Châu
9
Á chẳng thấy có gì hài hước ở đó cả. Vì vậy, cùng một thông điệp mà ở
nhiều nước lại có thể mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

-    Văn hóa có tính chủ quan
Con người ở các nền văn hóa khác nhau có suy nghĩ, đánh giá khác nhau về
cùng một sự việc. Cùng một sự việc có thể được hiểu một cách khác nhau ở
các nền văn hóa khác nhau. Một cử chỉ thọc tay vào túi quần và ngồi gếch
chân lên bàn để giảng bài của một thầy giáo có thể được coi là rất bình
thường ở nước Mỹ, trái lại là không thể chấp nhận được ở nhiều nước khác.
-    Văn hóa có tính khách quan
Văn hóa thể hiện quan điểm chủ quan của từng dân tộc, nhưng lại có cả
một quá trình hình thành mang tính lịch sử, xã hội được chia sẻ và truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
mỗi người. Văn hóa tồn tại khách quan ngay cả với các thành viên trong
cộng đồng. Chúng ta  chỉ  có thể học hỏi các nền văn hóa, chấp nhận nó,
chứ không thể biến đổi chúng theo ý muốn chủ quan của mình. Chẳng hạn,
quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã ăn rất sâu trong lịch sử Việt Nam,
không dễ gì xóa bỏ được.
-    Văn hóa có tính kế thừa
Văn hóa là sự tích tụ hàng trăm, hàng ngàn năm của tất cả các hoàn cảnh.
Mỗi thế hệ đều cộng thêm đặc trưng riêng biệt của mình vào nền văn hóa
dân tộc trước khi truyền lại cho thế hệ sau. Ở mỗi thế hệ, thời gian qua đi,
những cái cũ có thể được loại trừ và tạo nên một nền văn hóa quảng đại. Sự
sàng lọc và tích tụ qua thời gian đã làm cho vốn văn hóa của một dân tộc
trở nên giàu có, phong phú và tinh khiết hơn.


-    Văn hóa có thể học hỏi được
Văn hóa không chỉ được truyền lại từ đời này qua đời khác, mà nó còn phải
do học mới có. Đa số những kiến thức (một biểu hiện của văn hóa) mà một
người có được là do học mà có hơn là bẩm sinh đã có. Do vậy, con người
ngoài vốn văn hóa có được từ nơi mình sinh ra và lớn lên, có thể còn học
được từ những nơi khác, những nền văn hóa khác.

-    Văn hóa luôn tiến hóa
Một nền văn hóa không bao giờ tĩnh tại và bất biến. Ngược lại văn hóa luôn
luôn thay đổi và rất năng động. Nó luôn tự điều chỉnh cho phù hợp với trình
độ và tình hình mới. Trong quá trình hội nhập và giao thoa với các nền văn
hóa khác, nó có thể tiếp thu các giá trị tiến bộ hoặc tích cực của các nền
văn hóa khác.
Ngược lại, nó cũng tác động ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác.
10
Việc nắm bắt được những nét đặc trưng của văn hóa cho chúng ta có một
tầm nhìn bao quát, rộng mở và một thái độ hết sức quan trọng và thận
trọng với những vấn đề văn hóa. Một sự kết luận vội vàng hoặc một sự thiếu
trách nhiệm đều có thể làm thui chột khả năng sáng tạo văn hóa. Nhận biết
đầy đủ và sâu sắc những đặc trưng này sẽ giúp chúng ta xác định được biểu
hiện và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội nói chung và trong hoạt
động kinh doanh nói riêng.


1.2.    KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1.2.1. Khái niệm văn hóa kinh doanh
Càng ngày con người càng nhận thấy rằng văn hóa tham gia vào mọi quá
trình hoạt động của con người và sự tham gia đó ngày càng được thể hiện
rõ nét và tạo thành các lĩnh vực văn hóa đặc thù như văn hóa chính trị, văn
hóa pháp luật, văn hóa giáo dục, văn hóa gia đình… và văn hóa kinh
doanh.
Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện cùng với
hàng hóa và thị trường. Nếu là danh từ, kinh doanh là một nghề - được
dùng để chỉ những con người thực hiện các hoạt động nhằm mục đích kiếm
lời, còn nếu là động từ thì kinh doanh là một hoạt động – là việc thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng các dịch vụ trên thị trường.

Dù xét từ giác độ nào thì mục đích chính của kinh doanh là đem lại lợi
nhuận cho chủ thể kinh doanh nên bản chất của kinh doanh là để kiếm lời.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát
từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra.
Còn việc kinh doanh như thế nào, kinh doanh đem lại lợi ích và giá trị cho ai
thì đó chính là vấn đề của văn hóa kinh doanh.
Trong kinh doanh, những sắc thái văn hóa có mặt trong toàn bộ quá trình
tổ chức và hoạt động của hoạt động kinh doanh, được thể hiện từ cách
chọn và cách bố trí máy móc và dây chuyền công nghệ; từ cách tổ chức bộ
máy về nhân sự và hình thành quan hệ giao tiếp ứng xử giữa các thành viên
trong tổ chức cho đến những phương thức quản lý kinh doanh mà chủ thể
kinh doanh áp dụng sao cho có hiệu quả nhất. Hoạt động kinh doanh cố
nhiên không lấy các giá trị của văn hóa làm mục đích trực tiếp, song nghệ
thuật kinh doanh, từ việc tạo vốn ban đầu, tìm địa bàn kinh doanh, mặt


hàng kinh doanh, cách thức tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh, tiếp
thị sản phẩm, dịch vụ và bảo hành sau bán… được “thăng hoa” lên với
những biểu hiện và giá trị tốt đẹp thì kinh doanh cũng là biểu hiện
sinh động văn hóa của con người.
11
Do đó, bản chất của văn hóa kinh doanh là làm cho cái lợi gắn bó chặt chẽ
với cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Từ đó, khái niệm về văn hóa kinh doanh
được trình bày như sau:
“Văn hóa kinh doanh là toàn bộ các nhân tố văn hóa được chủ thể kinh
doanh chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh
tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ thể đó”.
1.2.2. Các nhân tố cấu thành văn hóa kinh doanh
Văn hóa kinh doanh là một phương diện của văn hóa trong xã hội và là văn
hóa trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Văn hóa kinh doanh bao gồm

toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, những phương thức và kết quả
hoạt động của con người được tạo ra và sử dụng trong quá trình kinh
doanh. Theo hướng tiếp cận này, để tạo nên hệ thống văn hóa kinh doanh
hoàn chỉnh với bốn nhân tố cấu thành là triết lý kinh doanh, đạo đức kinh
doanh, văn hóa doanh nhân, và các hình thức văn hóa khác, chủ thể kinh
doanh phải kết hợp đồng thời hai hệ giá trị sau:


Trước hết, chủ thể kinh doanh sẽ lựa chọn và vận dụng các giá trị văn hóa
dân tộc, văn hóa xã hội…  vào hoạt động kinh doanh để tạo ra sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ. Đó là tri thức, kiến thức, sự hiểu biết về kinh doanh được
thể hiện từ việc tuyển chọn nhân công, lựa chọn nguyên nhiên vật liệu, lựa
chọn máy móc dây chuyền công nghệ…; ngôn ngữ được sử dụng trong kinh
doanh; niềm tin, tín ngưỡng và tôn giáo; các giá trị văn hóa truyền thống;
các hoạt động văn hóa tinh thần… Chẳng hạn, công ty Mai Linh có lựa chọn
và vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội vào việc đặt tên cho
công ty của mình để làm thành Mai Linh được mọi người biết đến không
còn đơn thuần là tên một công ty mà nó là tên của một thương hiệu nổi
tiếng trên đất nước Việt Nam. Về ý nghĩa từ “Mai” nói lên hình ảnh của hoa
mai trong ngày tết cổ truyền, của sự may mắn và niềm hạnh phúc đầu
xuân, đồng thời cũng là một từ dùng để chỉ tương lai, về một ngày mai tốt
đẹp. Còn từ “Linh” mang ý nghĩa của từ tinh nhanh, linh hoạt, linh động
trong giải quyết công việc.
Đồng thời, trong quá trình hoạt động, các chủ thể kinh doanh cũng tạo ra
các giá trị của riêng mình. Các giá trị này được thể hiện thông qua những
giá trị hữu hình như giá trị của sản phẩm; hình thức mẫu mã sản phẩm;
máy móc, thiết bị, nhà xưởng; biểu tượng, khẩu hiệu, lễ nghi, sinh hoạt, thủ
tục, chương trình, truyền thuyết, các hoạt động văn hóa tinh thần của
doanh nghiệp (các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao…). Yếu tố kiến
trúc của cà phê Trung Nguyên là một minh chứng cho chủ thể kinh doanh

cũng tạo ra các giá trị của riêng mình. Chúng
ta không thể nhầm lẫn các quán Cafe của Trung Nguyên với các quán cafe
khác
12
qua những thiết kế từ màu đỏ bazan của vùng đất cao nguyên trên biển
hiệu, của màu sắc và kiểu dáng bàn ghế, của cách bài trí đồ nội thất thống
nhất trên toàn quốc đến âm điệu du dương của slogan “khơi nguồn sáng


tạo”. Chất lượng của cafe, không gian của Trung Nguyên chính là sản phẩm
mà khách hàng mong muốn và chờ đợi khi đến với Trung Nguyên.
Đó còn là những giá trị vô hình như là phương thức tổ chức và quản lý kinh
doanh; hệ giá trị, tâm lý và thị hiếu tiêu dùng; giao tiếp và ứng xử trong kinh
doanh; chiến lược, sứ mệnh và mục đích kinh doanh; các quy tắc, nội quy
trong kinh doanh, tài năng kinh doanh…
Tuy nhiên, sự phân biệt hai hệ giá trị kể trên chỉ là tương đối, các giá trị văn
hóa dân tộc, văn hóa xã hội đã được chọn lọc và các giá trị văn hóa được
tạo ra trong quá trình kinh doanh không thể tách bạch, chúng hòa quyện
vào nhau thành một hệ thống văn hóa kinh doanh với 4 nhân tố cấu thành
là:
1.2.2.1.    Triết lý kinh doanh
Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn kinh
doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm, khái quát hoá của các
chủ thể kinh doanh và chỉ dẫn cho hoạt động kinh doanh.
Đó là một hệ thống bao gồm những giá trị cốt lõi có tính pháp lý và đạo lý
tạo nên phong thái đặc thù của chủ thể kinh doanh và phương thức phát
triển bền vững của hoạt động này. Đôi khi, triết lý kinh doanh còn là cơ sở
để các nhà quản trị đưa ra các quyết định quản lý có tính chiến lược quan
trọng trong những tình huống mà sự phân tích lỗ lại không thể giải quyết.
Đồng thời, triết lý kinh danh còn là phương tiện để giáo dục và phát triển

nguồn nhân lực cho hoạt động kinh doanh. Vì thế, nên trong những công ty
xuất sắc của Mỹ như IBM, HP, Intel… các nhà quản trị đều có thói quen đối
chiếu triết lý kinh doanh với các dự định hành động cũng như các kế hoạch,
chiến lược trong giai đoạn xây dựng, và vấn đề đầu tiên mà các nhân viên
mới phải học là sự hoà nhập với môi trường văn hoá của công ty với trọng
tâm là triết lý kinh doanh để giá trị của công ty được truyền tải và di truyền
vào từng thành viên, tạo nên sứ mệnh và hành vi chung của toàn thể nhân
viên trong công ty.



Hình thức thể hiện của triết lý kinh doanh cũng rất khác nhau với mỗi một
chủ thể kinh doanh cụ thể. Đó có thể là một văn bản được in ra thành một
cuốn sách nhỏ hoặc dưới dạng một câu khẩu hiệu hoặc bài hát.  Triết lý
kinh doanh cũng có thể không được thể hiện ra bằng các dạng vật chất mà
tồn tại ở những giá
trị niềm tin định hướng cho quá trình kinh doanh. Và dù dưới hình thức nào
thì
13
triết lý kinh doanh luôn trở thành ý thức thường trực trong mỗi chủ thể kinh
doanh, chỉ đạo những hành vi của họ.
Kết cấu nội dung của triết lý kinh doanh thường gồm những bộ phận sau:
•     Sứ mệnh kinh doanh cơ bản
•     Các phương thức hành động để hoàn thành được những sứ mệnh và
mục tiêu - nhằm cụ thể hoá hơn cách diễn đạt được những sứ mệnh và mục
tiêu.
•     Các nguyên tắc tạo ra một phong cách ứng xử, giao tiếp và hoạt động
kinh doanh đặc thù của doanh nghiệp
Ví dụ: Triết lý của Intel
Triết lý của công ty Intel được xây dựng từ ý tưởng của tiến sĩ A.S.Grove –

nhà lãnh đạo của Intel về quản lý công ty như sau: “Biến nơi làm việc thành
một đấu trường để có thể biến các cấp dưới của chúng ta thành những “vận
động viên” góp phần thực hiện bằng tất cả năng lực của mình, đó là chìa
khoá để biến đội của chúng ta thành những người luôn chiến thắng”. Do
đó, biện pháp của Intel để thực hiện triết lý này là phân chia nhân sự thành
những nhóm nhỏ có tính chủ động và tự quản cao. Hình ảnh của mỗi nhóm
được ví như một đội bóng chày, bóng rổ…


1.2.2.2.    Đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng
điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh
doanh.
Đây là hệ thống các quy tắc xử sự, các chuẩn mực đạo đức, các quy chế, nội
quy… có vai trò điều  tiết các hoạt động của quá trình kinh doanh nhằm
hướng đến triết lý đã định.
Ngày nay, hoạt động kinh doanh đòi hỏi các chủ thể phải có những hành vi
phù hợp với đạo lý dân tộc và các quy chuẩn về cái thiện và cái tốt chung
của toàn nhân loại. Do vậy, đạo đức kinh doanh sẽ góp phần phát triển mối
quan hệ với người lao động, với chính quyền, với khách hàng, với đối thủ
cạnh tranh, với nhà cung cấp và với cộng đồng xã hội, từ đó góp phần tạo
nên môi trường kinh doanh ổn định.
Ví dụ: Giảm giá phục vụ khách hàng hay là sự vi phạm đạo đức kinh doanh
14
Cho đến giờ ai cũng thấy rõ việc cổ vũ, cạnh tranh chủ yếu bằng hình thức
khuyến mãi giảm giá quá mức dịch vụ viễn thông tại Việt Nam thời gian qua
- đặc biệt là viễn thông di động đã đem lại nhiều hậu quả, lợi bất cập hại.
Thời gian đầu đúng là người tiêu dùng có lợi nên nhiều người hoan ngênh,
các báo đài ủng hộ. Nhưng một số chuyên gia có kinh nghiệm đã nhận thấy
việc cạnh tranh này có dấu hiệu không lành mạnh, thực sự không hoàn

toàn vì kinh tế


×