Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Đánh giá hiện trạng khai thác rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm trên cơ sở đó sẽ đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý tại xã Tam Hải - Núi Thành - Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.69 KB, 77 trang )

Phần 1.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hoá, thời kỳ
đang đẩy mạnh phát triển nền kinh tế, đặc biệt là phát triển nhanh khu vực nông
thôn. Để làm được điều này đòi hỏi chúng ta phải có một chiến lược phát triển đúng
đắn, kết hợp với việc khai thác và sử dụng các dạng tài nguyên có hiệu quả, trong
đó bao gồm cả diện tích mặt nước.
Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3260 km, 12 đầm phá. Trong hệ đầm
phá thì dải rừng ngập mặn ven biển có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế và
xã hội. Nó được đánh giá như là bức tường xanh vững chắc bảo vệ bờ biển, đê biển,
hạn chế xói lở và các tác hại của bão lụt. Do vậy, rừng ngập mặn đóng một vai trò
quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam.
Tuy nhiên, dưới sức ép của việc phát triển đô thị và công nghiệp, dân sinh,
hơn 50% diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam mất đi vì những nguyên nhân do con
người gây ra. Rừng ngập mặn đã bị khai thác quá mức hoặc chuyển sang nhiều dạng
sử dụng đất khác trong đó có nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng trên cạn,
…Điển hình là phá rừng để nuôi tôm nên rừng ngập mặn của Việt Nam có 400.000
ha, hiện nay còn lại trên 175.000 ha [8].
Tại Trung Bộ có diện tích rừng ngập mặn 3000 ha chiếm 2% diện tích rừng
cả nước. Trong đó, rừng ngập mặn xã Tam Hải huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam
trước đây có diện tích khá lớn ( 22,7 ha) và rất đa dạng về chủng loại. Nhưng những
năm gần đây do nhiều lý do và chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng
ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm
nuôi xuất khẩu nên diện tích rừng ngập mặn suy giảm mạnh gây ra nhiều đột biến
bất lợi cho môi trường sinh thái về kinh tế - xã hội của xã Tam Hải nói riêng và
huyện Núi Thành nói chung.
Trang 1

Để chấm dứt tình trạng phá rừng như hiện nay đồng thời, bảo vệ và khôi
phục diện tích RNM là một việc làm khó khăn, tốn kém, mất thời gian. Đòi hỏi phải
có nhiều nghành, nhiều cấp nhiều người tham gia theo một chương trình thống nhất


mới giải quyết được vấn đề bức xúc này.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên và cùng với lòng mong muốn góp phần
trí tuệ nhỏ bé của mình nhằm khôi phục hiện trạng rừng ngập mặn của địa phương
nên chúng tôi chọn đề tài: "Đánh giá hiện trạng khai thác rừng ngập mặn để
phục vụ cho mục đích nuôi tôm trên cơ sở đó sẽ đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý
tại xã Tam Hải - Núi Thành - Quảng Nam” nhằm đánh giá hiện trạng khai thác
diện tích rừng ngập mặn và đề xuất giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả rừng
ngập mặn trong việc phát triển nghề nuôi tôm.
Phần 2.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. VAI TRÒ CỦA RỪNG NGẬP MẶN
2.1.1. Đối với tự nhiên
Rừng ngập mặn (RNM) là rừng nhiệt đới ven biển, có vai trò bảo vệ bờ biển
chống lại xói mòn do gió bão thường xảy ra ở vùng ven biển nhiệt đới. Những
nghiên cứu gần đây nhất cho thấy rằng RNM góp phần gia tăng sản lượng của nhiều
quần thể thủy sinh vật sống gần dãy san hô ngầm (Mumby et al., 2004). RNM còn
cung cấp chất hữu cơ và dinh dưỡng như chất đạm và lân cho vùng ven biển từ sự
phân hủy của vật rụng, từ đây hình thành chuỗi thức ăn từ những mảnh vỡ vụn của
vật rụng, và chuỗi thức ăn này là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho các loài thủy
sản ven biển (Alongi, 1990; Alongi et al.,1989). Do vậy, vai trò của rừng ngập mặn
đối với hệ sinh thái ven biển chính là nơi cung cấp thức ăn cho các loài thủy sản
nhất là tôm và cá, và chắc chắn rằng sản lượng khai thác thủy sản tại đây phụ thuộc
vào diện tích rừng ngập mặn trong vùng. Ngoài ra RNM còn có những vai trò quan
trọng khác như :
Trang
2

RNM là “lá phổi xanh” rất quan trọng trong việc làm giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, nó giúp tiêu thụ một lượng đáng kể các khí thải độc hại và làm tăng
lượng Oxi cho chúng ta. Nhằm giúp giảm bớt hiện tượng nóng lên của trái đất và

ngăn ngừa tình trạng dâng lên của nước biển gây ảnh hưởng đến đời sống của
những người dân ven biển.
RNM đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, cung cấp chất hữu
cơ để tăng năng suất nuôi trồng, phát triển kinh tế vùng ven biển.
Rừng ngập mặn ổn định bờ biển và thúc đẩy quá trình bồi đắp phù sa, phân
tán bớt năng lượng của sóng, gió và thuỷ triều. Giúp bảo vệ động vật khi nước triều
lên cao và sóng lớn ví dụ nhiều loài động vật sống trong hang hoặc trên mặt bùn khi
điều kiện thời tiết bất lợi, nước triều cao, sóng lớn đã trèo lên cây để tránh sóng như
cá Lác, các loại Còng, Cáy, Ốc. Giúp cho tính đa dạng trong hệ sinh thái rừng ngập
mặn tương đối ổn định.
Nhờ bộ rễ nó còn giúp cản các loài trầm tích lắng đọng, giữ hoa lá, cành rụng
trên mặt bùn và phân hủy tại chỗ giúp tăng chất dinh dưỡng cho đất.
Tóm lại, rừng ngập mặn có vai trò hết sức to lớn đối với tự nhiên. Vì vậy,
bảo vệ rừng ngập mặn là nhiệm vụ quan trọng trong mỗi con người chúng ta.
2.1.2. Đối với con người
Rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng
triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Rừng ngập mặn (RNM) cung cấp cho
con người rất nhiều hàng hoá và dịch vụ môi trường. RNM được sử dụng làm củi
đốt, vật liệu làm nhà ở nông thôn, và quan trọng đây chính là nơi sinh sản, nuôi
dưỡng, và nó đem lại lợi nhuận kinh tế rất cao, cung cấp nguồn hải sản phong phú
để sử dụng trong nước và xuất khẩu (Lee, 1995; Rasolofo, 1997; Slim et al., 1997;
Athithan & Ramadhas, 2000).
Ngoài ra, ta có thể thu nhập từ các nguồn khác như : nuôi ong lấy mật, bán
cây giống, khai thác măng tre, khai thác gỗ cốp pha từ cây phi lao và số lượng lớn
than củi… Trong số 51 loại cây rừng có 30 loài cung cấp gỗ, củi, than, 14 loại cung
Trang
3

cấp tannin, 24 loài có thể sử dụng làm phân xanh nông nghiệp, 15 loài có thể lam
thuốc nam, 21 loài có thể dùng nuôi ong và 1 loài có thể dùng làm đường, sáp

( Phan Nguyên Hồng, 1999).
Mặt khác, RNM là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái hết sức quý giá. Tại
Việt Nam, những năm gần đây khách du lịch ngày càng có xu hướng tìm đến tham
quan, nghiên cứu các khu RNM, theo đó, nguồn lợi ngành Du lịch thu được từ hệ
sinh thái này cũng tăng lên. RNM thực sự trở thành đối tượng tiềm năng đối với
hoạt động khai thác phát triển du lịch nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung.
Sau đây là một số nguyên cứu nói lên vai trò RNM trên :
Theo báo cáo của Ủy ban Liên quốc gia (IPCC) thuộc Liên hợp quốc sự
nóng lên toàn cầu cho biết nhờ vai trò quan trọng của RNM như việc lọc sinh học
trong việc xử lý chất thải. Ngoài ra nó còn có tác dụng xử lý chất dinh dưỡng từ đất
liền và giữ vai trò vùng đệm chống lại các dòng chảy ô nhiễm, vì thế cho đến nay
các hiện tuợng biến đổi khí hậu như hiệu ứng nhà kính, băng tan đã giảm đi một
phần đáng kể .
Theo nhóm khảo sát của GS-TSKH Phan Nguyên Hồng (Trung tâm Nghiên
cứu hệ sinh thái RNM, ĐH Sư Phạm Hà Nội) cho thấy độ cao sóng biển giảm mạnh
khi đi qua dải RNM với mực biến đổi từ 75% đến 85% từ 1,3m xuống 0,2m - 0,3m.
Tương tự, đợt sóng thần khủng khiếp ngày 26-12-2004 hơn 2 triệu người ở 13 quốc
gia Châu Á và Châu Phi bị thiệt mạng, môi trường bị tàn phá nặng nề, nhưng kết
quả khảo sát của IUCN ( Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới) và UNEP ( Chương
trình Môi trường thế giới) cùng các nhà khoa học cho thấy, những làng xóm ở phía
sau “bức tường xanh” RNM với băng rừng rộng gần như còn nguyên vẹn vì năng
lượng sóng đã được giảm từ 50% đến 90%, nên thiệt hại về người rất thấp hoặc
không bị tổn thất… Cụ thể như RNM ở Ấn Độ, khoảng từ làng xóm ra bờ biển
1km so với nơi không có rừng ngập mặn thiệt hại giảm 50%-80%.
Theo số liệu của Chi cục bảo vệ đê điều và phòng chống lụt bão thành phố
Hải Phòng, trước đây chi phí tu bổ đê điều trung bình hằng năm là 5 triệu đồng/ mét
Trang
4

dài nhưng kể từ khi có rừng ngập mặn bảo vệ phía ngoài đê chi phí này đã giảm

xuống còn 1,2 triệu đồng/mét dài.
Tóm lại, qua những nguyên cứu trên ta thấy được vai trò quan trọng của hệ
sinh thái rừng ngập mặn. Vì vậy bảo vệ được hệ sinh thái này là bảo vệ được độ ổn
định, cân bằng của cả hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường trong quá trình phát
triển khu vực .
2.2. TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG RNM TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
2.2.1. Tình hình khai thác và sử dụng RNM trên Thế Giới
Rừng ngập mặn là một trong những hệ sinh thái rất quan trọng ở vùng ven
biển nhiệt đới và á nhiệt đới. Thế giới có khoảng 18 triệu ha, các nước Đông Nam Á
chiếm 35% diện tích (Spalding, 1997). Trong đó, vùng Ấn Độ Dương có rừng
ngập mặn đa dạng nhất với trên 50 loài cây.
Rừng ngập mặn đã và đang đối mặt với nhiều thách thức như diện tích rừng
ngập mặn trên thế giới liên tục suy giảm. Trong 5 năm 1990 đến 1995, đã có 13,7
triệu ha rừng bị mất đi (FAO (1997). Rừng mất do các yếu tố thiên nhiên, tác động
của con người (nuôi thuỷ sản, nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, đô thị hoá…… ,)
Trong vài thập kỷ gần đây, rất nhiều khu vực ven biển này đã chịu sức ép
ngày càng tăng của việc phát triển đô thị và công nghiệp. Hơn 50% diện tích rừng
ngập mặn đã mất đi vì những nguyên nhân do con người gây ra. Rừng ngập mặn đã
bị khai thác quá mức hoặc chuyển sang nhiều dạng sử dụng đất khác trong đó có
nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, trồng rừng trên cạn, phát triển đô thị và
công nghiệp. Đó là còn chưa kể hết rừng bị phá để làm đường xây dựng đê, mương.
Diện tích rừng ngập mặn đã bị giảm từ 20 đến 75% ở nhiều nước châu Á
đang phát triển và vùng biển Caribê [10].
Dựa vào việc tính toán trên bản đồ ảnh vệ tinh và các số liệu thu thập được
gần đây Spalding và cs (1997) đã lập bảng thóng kê tổng diện tích rừng ngập mặn
các vùng trên thế giới là 181.077 km2.
Trang
5


Bảng 2.1: Diện tích RNM trên thế giới
Vùng Diện tích rừng
ngập mặn(km2)
Tỷ lệ (%)
Nam và Đông Nam Á 75.173 41.5
Austrailia 18.789 10.4
Châu Mỹ 49.096 27.1
Tây Phi 27.999.5 15.5
Đông Phi và Trung Đông 10.024 5.5
Tổng cộng 181.077 100
(Nguồn: Spalding, Blasco, Field, 1997)
Qua bảng 2.2 ta thấy diện tích RNM ở mỗi vùng đều khác nhau. Trong đó,
diện tích ở vùng Nam và Đông Nam Á chiếm diện tích cao nhất. Sau đó, là Châu
Mỹ và Tây Phi.
Chỉ riêng khu vực Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, cho đến năm 1991 đã có
1,2 triệu ha rừng ngập mặn chuyển thành ao nuôi tôm [21].
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, người ta ước tính tốc độ suy giảm
rừng ngập mặn khoảng 1%/năm (Ong, 1995). Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do
việc khai thác diện tích RNM để phục vụ cho mục đích nuôi tôm [21].
Ở Philippines, khoảng 50 % trong số 279.000 ha rừng ngập mặn bị mất đi
trong giai đoạn từ năm 1951 đến 1988 do phá rừng làm ao nuôi tôm và 95% các ao
nuôi tôm ở nước này trước đó là rừng ngập mặn (Primavera (1995)) [21].
Ở Thái Lan, trong giai đoạn 1961 đến 1993, có đến 54,7 % diện tích rừng
ngập mặn bị mất đi do nghề nuôi tôm ( Menasveta, 1997) [21].
Tương tự ở Malaysia, 12% diện tích rừng bị mất trong 10 năm (1980-1990)
[21].
Ở cấp quốc gia, Madagascar, Indonesia, Mexico, Pakistan, Papua New
Guinea và Panama là những nước có diện tích rừng bị mất lớn nhất trong những
năm 1980. Tổng diện tích rừng bị mất ở năm nước này là khoảng 1 triệu ha, tương
đương với diện tích Jamaica. Nhưng trong những năm 1990, Pakistan và Panama đã

thành công trong việc giảm tỷ lệ mất rừng ngập mặn. Ngược lại, Madagasca, Việt
Trang
6

Nam và Malaysia lại trải qua thời kỳ phá rừng tăng lên và nằm trong số năm quốc
gia đứng đầu về diện tích rừng bị mất trong thập niên 1990 và giai đoạn 2000-2005.
FAO (Tổ chức nông lương thế giới) chỉ ra rằng áp lực dân số cao, sự chuyển đổi
quy mô lớn một diện tích rừng ngập mặn sang nuôi trồng tôm cá, nông nghiệp, cơ
sở hạ tầng và du lịch, cũng như ô nhiễm và các thảm họa tự nhiên là những nguyên
nhân chính dẫn đến tàn phá rừng ngập mặn [20].
Như vậy, do áp lực vấn đề dân số và quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá
con người đang ngày càng tác động đến RNM. Vì vậy, diện tích RNM suy giảm
đáng kể.
2.2.2. Tình hình khai thác và sử dụng RNM tại Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển kéo dài, có điều kiện tự nhiên phù
hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của các loài cây ngập mặn. Tổng diện tích rừng
ngập mặn của nước ta là 400.000 ha. Tuy nhiên, trong những năm qua do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan đã tác động vào hệ sinh thái RNM làm cho
diện tích RNM của nước ta bị suy giảm đáng kể.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp&Phát triển Nông thôn (NN - PTNT) cho
thấy, năm 1943 diện tích RNM Việt Nam trên 400.000 ha, đến năm 1996 giảm còn
290.000 ha và 279.000 ha vào năm 2006. Như vậy, diện tích RNM nước ta bị suy
giảm rất lớn gần 50 %.
Bảng 2.2: Diện tích RNM trên lãnh thổ Việt Nam
Phân bố các tỉnh,thành phố Diện tích RNM Tỷ lệ (%)
Ven biển Bắc Bộ 43.811 ha 28.1%
Ven biển Trung Bộ 3.000 ha 2%
Ven biển Nam Bộ 82.387 ha 53%
(Nguồn: Paul Maurand, 1943; Rollet, 1962; Viện điều tra Quy hoạch rừng, 1982, 1999)
Qua bảng 2.2 ta thấy lượng rừng ngập mặn tại ven biển Nam Bộ là rất lớn và

lớn hơn rất nhiều so với rừng ngập mặn ven biển Trung Bộ, trong khi đó rừng ngập
mặn tại ven biển Bắc Bộ bằng một phần hai diện tích rừng ngập mặn tại ven biển
Nam Bộ.
Trang
7

×